lê
quỳnh mai thực hiện
Đôi
dòng tiểu sử:
Trịnh
Y Thư sinh năm 1952, tại Hà Nội. Viết văn, làm thơ, dịch. Tác phẩm đã xuất bản:
Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being), tiểu thuyết của nhà văn
Pháp gốc Tiệp Milan Kundera, tạp chí Văn Học xuất bản, 2002; Căn phòng riêng (A
Room of One’s Own), lí luận văn học của nhà văn nữ Virginia Woolf, Tri Thức
xuất bản, 2009. Người đàn bà khác, tập truyện, Thế Giới xuất bản, 2010. Hiện
định cư tại bang California, Hoa Kì.
*
Lê Quỳnh Mai (LQM): Đây là lần đầu tiên, lê
quỳnh mai thực hiện mạn đàm với một tác giả sáng tác thơ, viết văn, mà đặc biệt
là một dịch giả của những tác phẩm ngoại quốc nổi tiếng, nên rất vui vì có dịp
gặp gỡ không ít tài hoa của văn học Việt Nam. Anh có nghĩ như vậy không?
Vậy chúng ta bắt đầu nói chuyện nhé.
Anh làm thơ, viết văn, viết tiểu luận, dịch
các tác phẩm ngoại quốc sang tiếng Việt. Vậy phải dùng danh xưng nào để cho
thích hợp với Trịnh Y Thư?
Trịnh Y Thư (TYT): Thú thật với chị, tôi có
tính “đa mang”, cái gì cũng thích mân mó nhúng tay vào, rốt cuộc chẳng làm cái
gì đến nơi đến chốn. Nhưng chị hỏi thì phải trả lời, có lẽ tôi thích được gọi
là nhà thơ nhất. Nhà thơ “oách” lắm, nghe nói các cô hay đem lòng yêu nhà thơ…
LQM: Và cả nhà văn nữa anh Thư ạ! . . . Xin
anh cho biết ý kiến về câu “Traduire c'est trahir” mà chúng ta vẫn thường nghe.
TYT: Traduttore, traditore—tôi thích câu
tiếng Ý hơn. Dịch là thực hiện công tác bắc cầu giữa hai nền văn hoá, và lẽ
đương nhiên, giữa hai nền văn hoá bao giờ cũng tồn tại những giá trị tương phản
gần như nghịch lí. Nhà văn Rudyard Kipling bảo Đông Tây không bao giờ gặp nhau.
Nhưng ở thời đại của chúng ta, do sự toàn cầu hoá cộng thêm sự bùng nổ của
Internet, càng ngày tính tương phản ấy càng thu nhỏ, gần như triệt tiêu hẳn.
Câu hỏi quan trọng hơn có lẽ là: “Khác với công việc dịch thuật ở các chuyên
ngành khoa học tự nhiên hay y học, liệu một tác phẩm văn học, sau khi được
chuyển ngữ, có khả năng có một đời sống khác hay không?” Với tôi, câu trả lời
là có, bởi dịch thuật văn học là tái tạo, là sáng tác lại một tác phẩm để cho
nó một đời sống mới, để xê dịch nó sang một căn nhà, một nơi chốn mới. Bốn thành
tố quyết định đời sống của tác phẩm là thời đại, nhà văn, tác phẩm và người
đọc. Một dịch phẩm hiển nhiên phải có riêng nó một đời sống mới bởi nếu dịch
phẩm thành công thì chí ít năm mươi phần trăm những thành tố trên là mới. Đời
sống mới này đôi khi còn rực rỡ, trường tồn hơn đời sống “cũ” của nguyên tác
như trường hợp bản dịch Chinh Phụ Ngâm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm; và, nhìn ở góc
độ nào đó, Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du cũng là tác phẩm dịch.
LQM: Đối với anh, thế nào là một bản dịch
hay, có giá trị?
TYT: Trên các diễn đàn văn học đã có khá
nhiều nhận định sâu sắc và giá trị về dịch thuật văn học. Nhìn chung, có hai xu
hướng: hoặc tuyệt đối trung thành với văn bản của nguyên tác; hoặc đặt trọng
tâm vào yêu cầu tiếp nhận của ngôn ngữ dịch. Theo tôi, ở thời đại của chúng ta,
quan niệm đúng đắn phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai xu hướng. Người dịch
không còn là thợ chữ hay kẻ “tra từ điển chuyên nghiệp” nữa. Có khoảng đất
trống tuy không rộng rãi thênh thang lắm nhưng đủ cho hắn vận dụng tài năng
riêng để phô diễn nét tài hoa trong sáng tạo của mình. Quan trọng hơn hết, theo
tôi, là làm sao duy trì được phong cách nghệ thuật của nguyên tác, bởi chính
cái phong cách này định hình cho giá trị và sự trường tồn của tác phẩm. Một bản
dịch không duy trì—chí ít ở tầng chữ nghĩa—cái phong cách ấy là một bản dịch
thất bại. Chẳng những thất bại mà còn không công bằng với tác giả. Tác phẩm
tiểu thuyết Lolita của nhà văn Vladimir Nabokov là một kiệt tác của văn học thế
giới thế kỉ XX. Nabokov thuật một câu chuyện vô luân bằng thứ Anh ngữ tuyệt
vời, phải nói là linh diệu. Nếu dịch giả không nắm bắt được cái linh diệu trong
văn tài của Nabokov và không có một vốn liếng Việt ngữ tuyệt vời, linh diệu
tương đương thì bản dịch của hắn sẽ biến thành một cuốn sách tầm thường, thậm
chí khiêu dâm tồi bại. Và nếu như thế thì oan uổng cho Nabokov xiết bao. Thí dụ
thứ hai tôi muốn nói đến là dịch thơ Hồ Xuân Hương sang ngoại ngữ, một điều gần
như bất khả.
LQM: Có phải anh muốn nói đến dịch giả
không thể chuyển ngữ những từ nói lái trong thơ Hồ Xuân Hương?
TYT: Vâng, những từ nói lái như “đá đeo”,
“lộn lèo”, những từ đặc quánh Việt Nam như “hõm hòm hom”, “vắt ve”, “hoẻn”,
v.v... làm sao chuyển ngữ mà vẫn duy trì được cái hay của thơ cho dù dịch giả
là người tài hoa và tài tình xuất chúng? Rồi còn phải kể đến cái phong cách vừa
thanh vừa tục vẫy vùng trong biển cả của tín ngưỡng phồn thực dân gian Việt
Nam, làm sao chuyên chở hết được? Thơ của nữ sĩ Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương,
ngoài cái tài tình của chữ nghĩa, luôn luôn bật mở nhiều chiều kích lạ lùng mà
mỗi thế hệ lại có một cách cảm thụ khác nhau . . . Nhưng có lẽ chúng ta lạc đề
quá xa rồi chăng?
LQM: Kinh nghiệm của anh về dịch thuật là
gì? Khó khăn? Tại sao anh chọn lãnh vực này? Lời khuyên cho những dịch giả trẻ?
TYT: Tôi vẫn còn là một dịch giả “trẻ” đấy
chứ! Trẻ ở ý nghĩa luôn luôn phải tìm tòi, học hỏi. Đối với tôi, dịch có nghĩa
là “dịch vật”. Cái khó khăn cho người dịch là hắn lúc nào cũng phải cẩn trọng
tối đa bởi muôn vàn cạm bẫy cùng hầm hố túc trực chờ đón để chôn vùi hắn nếu
hắn cẩu thả, không chịu khó tìm hiểu thấu đáo văn bản nguyên tác trước khi hạ
bút. Tín-đạt-nhã. Ba tôn chỉ người Trung quốc đặt ra cho công việc dịch thuật,
tưởng đơn giản nhưng quả thật không dễ dàng và con đường người dịch chọn lựa
cho mình đi không rộng rãi, bằng phẳng chút nào. Tôi chỉ tình cờ lạc vào con
đường ấy thôi, chẳng qua tôi chỉ muốn tìm hiểu kĩ thuật làm văn cũng như tư
tưởng của các bậc thầy văn chương thế giới, và cách học hỏi thấu đáo, tường tận
nhất là dịch.
LQM: Xin anh giải thích rõ nghĩa hơn về hai
chữ “dịch vật”.
TYT: Từ điển Hán-Việt của cụ Đào Duy Anh
định nghĩa “dịch vật” là “Sai khiến mọi vật, như dùng trâu cày dùng ngựa cỡi.”
Với tôi, dịch là đánh vật với chữ nghĩa. Đôi khi người dịch chẳng qua chỉ là
con trâu kéo cày, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mà còn bị người đời rẻ rúng, xem
thường. Chưa kể lâu lâu đổ đốn một tí, bị vợ mắng là đồ “dzịch dzậc.”
LQM: Có không ít những tác phẩm ngoại quốc
nổi tiếng và giá trị. Nhưng tại sao anh chú trọng nhiều đến tác phẩm của Milan
Kundera?
TYT: Kundera mở ra cho tôi thấy thế nào là
tiểu thuyết. Hai câu nói ông lặp đi lặp lại trong các bài luận văn của ông,
“Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu hạ sử gia” và “Có những điều chỉ tiểu
thuyết mới nói được”, có thể tóm gọn quan điểm của ông về nghệ thuật tiểu
thuyết. Đọc Kundera chúng ta thấy Lịch sử trải dài trên trang viết. Tiểu thuyết
của ông không thiếu những mạch đoạn viết về chính trị—đúng hơn lịch sử chính
trị—và ông không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần như thù hận, với nước
Nga bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai hoạ và thống khổ cho
quê hương ông, cho chính cá nhân ông. Nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc
giữa những dòng chữ ông viết để tìm kiếm một thông điệp hay luận đề chính trị
nào. Với ông, Lịch sử chỉ là tấm phông trừu tượng mà ông ví tiểu thuyết gia như
nhà thiết trí sân khấu kịch dùng nó để kiến dựng một tiết kịch. Nhưng nếu lịch
sử chính trị chỉ là bối cảnh, chỉ là cái phông của tiết kịch, thì cái gì chiếm
cứ phần trọng đại nhất trong tiểu thuyết Kundera? Câu trả lời giản dị lắm: Đó
chính là sự truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể loé lên luồng sáng
mới mẻ cho chúng ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện hữu. Và qua tác phẩm, chúng
ta thấy ông truy xét cái bản ngã đó đến tận cùng. Bản ngã bị ông lật trái lật
phải, lật ngang lật dọc đến chóng mặt. Nhưng không phải vì thế ông chụp bắt
được điều ông muốn kiếm tìm, bản ngã vẫn vuột khỏi tầm tay, và ông thú nhận
cuộc truy tìm bao giờ cũng chấm dứt trong nghịch lí. Đọc Kundera, chúng ta cũng
dễ dàng mắc phải ngộ nhận cho là tiểu thuyết ông chịu ảnh hưởng triết học hiện
sinh. Quan điểm phê phán xem nghệ thuật chẳng qua chỉ là sản phẩm phái sinh từ
các trào lưu triết học và lí thuyết bị ông đem ra phản bác gay gắt. Dùng tác
phẩm văn học của các nhà văn cận/hiện-đại, ông bảo tiểu thuyết đụng đến vô thức
trước khi có Freud, giai cấp đấu tranh trước khi có Marx; trước khi các nhà
hiện tượng học ra đời tiểu thuyết đã nói đến hiện tượng học . . . Để hiểu
Kundera chúng ta phải hiểu cái “hệ toán hiện sinh” mà ông trình bày trong cầu
vực các tình huống trong tiểu thuyết của ông mà ông gọi là “tiểu thuyết tư
duy”. Dĩ nhiên, văn học thế giới có rất nhiều tác phẩm giá trị rất xứng đáng
giới thiệu với độc giả Việt, nhưng tôi chọn Kundera bởi văn chương, tâm thức,
hoàn cảnh cá nhân (ông cũng lìa bỏ quê hương sống lưu vong từ năm 1975) của ông
có cái gì tâm đắc, gần gũi tôi. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là tôi
hiểu ông một cách toàn nguyên và càng không phải tôi tuyệt đối đồng ý, tin theo
tất cả những gì trên trang viết của ông.
LQM: Xin anh giới thiệu đến độc giả về tác
phẩm chuyển ngữ Căn phòng riêng (A Room of One's Own) của Virginia Woolf (TYT
chuyển ngữ, bản dịch 2009, NXB Tri Thức).
TYT: Cuốn Căn phòng riêng nằm dưới hình
thức một tập tiểu luận, được tác giả san định từ những bài thuyết trình tại hai
đại học cao đẳng dành cho phụ nữ, trường Newham và trường Girton thuộc đại học
Cambridge, Anh quốc, với chủ đề “Phụ nữ và sáng tác văn học.” Cuốn sách thuộc
loại kinh điển của tinh hoa thế giới, và Woolf được xem như người mở đường cho
trào lưu tư tưởng nữ quyền. Khởi đi từ những phong trào xã hội tiền phong tranh
đấu cho quyền lợi người phụ nữ vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, trào lưu này
tiếp diễn mãi suốt thế kỉ XX, thành những làn sóng, hết lớp này đến lớp kia, và
ngày nay nó được các học giả đưa lên thành lí thuyết văn học—Nữ quyền luận—nhằm
vẽ lại biểu đồ truyền thống của phụ nữ trong văn học và xác định lại mô thức
văn học ảnh hưởng bởi giới tính (công trình của nữ học giả Mary Ellmann). Bút
pháp giới tính nữ do một số nữ học giả Pháp đề xuất vào những năm 70 cho thấy
sự khác biệt giữa hai lối viết nam nữ, ngay cả cách cảm thụ tác phẩm cũng không
giống nhau. Nhiều nghiên cứu gần đây còn liên kết Woolf với sự đồng tính nữ.
Hiển nhiên, Woolf là một tài năng văn chương đáng chú ý, có ảnh hưởng lâu dài,
mặc dù bà sống và viết văn cách đây cả ba phần tư thế kỉ. Cuốn Căn phòng riêng
là tác phẩm đầu tiên của bà được dịch sang Việt ngữ, trong đó bà đưa ra luận
điểm người phụ nữ muốn viết văn thì phải có tiền và một căn phòng riêng. Nhìn
từ góc độ xã hội, cuốn sách kêu gọi một khí quyển mới cho người phụ nữ trong đó
nam nữ phải được bình quyền và, quan trọng hơn, nó cố tẩy xoá những định kiến
vốn hằn sâu trong nhận thức xã hội về vai trò, giá trị và khả năng người phụ nữ.
Từ luận điểm ấy, bà đi xa hơn trong quan điểm về sáng tác văn học. Theo bà thì
một khối óc kì vĩ thực hiện được những công trình văn học to tát (như
Shakespeare chẳng hạn) phải là một khối óc lưỡng tính, nghĩa là nam-nữ tính
hoặc nữ-nam tính. “Phải có sự hợp tác nào đó trong trí tưởng giữa đàn ông và
đàn bà trước khi sự sáng tạo nghệ thuật có thể hoàn thành. Phải hoàn tất cuộc
hôn phối giữa hai tác thể đối nghịch.” Bà bảo thế, dựa trên luận thuyết lưỡng
tính của Samuel Taylor Coleridge, thi sĩ kiêm triết gia Anh cuối thế kỉ XVIII,
đầu XIX. Phải chăng bởi thế mà ngày nay nhiều nhà nghiên cứu văn học mặc nhiên
xem Woolf là biểu hiệu của xu hướng đồng tính nữ?
LQM: Anh có đồng ý với đoạn văn của
Virginia Woolf trong tác phẩm này của bà: “Một phụ nữ muốn viết văn cần phải có
tiền và một căn phòng của riêng mình?” Và ý kiến của anh ra sao về câu này:
“Người đàn bà tiết hạnh không bao giờ viết lách” (trang 104).
TYT: Woolf xuất bản cuốn sách này vào năm 1929. Hoàn cảnh xã hội
lúc đó khác nay nhiều. Điều đáng nói là ở thời đại chúng ta, không còn ai phân
biệt hoặc quan tâm đến giới tính của nhà văn nữa. Càng ngày càng có nhiều phụ
nữ cầm bút và không ai nghi ngờ tài năng, phẩm giá con người nhà văn cũng như
giá trị văn học trong tác phẩm của họ. Năm 2009 cùng lúc cả hai giải thưởng văn
học cao quý là giải Nobel và giải Man Booker đều lọt về tay hai nhà văn nữ, bà
Herta Muller và bà Hilary Mantel. Đấy là chuyện văn học thế giới, còn ở Việt
Nam ta thì sao? Xét riêng trên bình diện văn học, không biết Nữ quyền luận đã
xuất hiện ở Nam Việt Nam vào các năm 50, 60 hay chưa, nhưng sự hiện diện đông
đảo của những cây bút nữ là hiện tượng đáng lưu ý. Nó hiện hữu không như một
thử thách hay thách đố nào mà như một sự kiện mặc nhiên. Nó chẳng cần ai lớn
tiếng bênh vực cho nó. Thế hệ nào cũng có những người viết nữ xuất sắc bước ra
hàng đầu. Phong cách sáng tạo của họ không những khiến độc giả giật mình mà các
nhà văn, nhà thơ phái nam cũng phải nhìn nhau ngẩn ngơ. Nó có tính công phá,
nhất là ở những phạm vi “ta-bu” như tình dục. Và nếu văn học hải ngoại có tương
lai sống còn hay không thì tương lai ấy nằm trong tay các nhà văn, nhà thơ phái
nữ chứ không phải các nhà thuộc giới “mày râu.”
LQM: Xin đại diện phái nữ viết văn cảm ơn
nhà thơ Trịnh Y Thư về ý kiến đẹp trên. Tuy nhiên xin anh cho biết ý kiến thêm
về “tính công phá, nhất là ở những phạm vi ta-bu như tình dục” trong các tác
phẩm của những nhà văn nữ, như anh vừa nêu trên.
TYT: Rải rác đây đó trên trang viết của
những nhà văn, nhà thơ phái nữ, trong nước lẫn hải ngoại, tôi thấy họ can đảm
dám nhìn thẳng vào mặt phải và mặt trái của dục tính nơi con người. Dưới mắt
họ, dục tính là một phần đời sống, và bởi thế khi muốn miêu tả đời sống cho đến
nơi đến chốn thì không thể né tránh hoặc bỏ quên nó được. Họ không sử dụng dục
tính như lợi khí văn chương nhằm thu hút sự chú ý của người đọc. Nó thuộc dạng
bản năng của con người nhưng đa phần, dù ở những tình huống bình thường, nó đau
đớn, ê chề lắm chứ chẳng sung sướng gì đâu. Nhờ thế họ thành công và văn chương
của họ không biến thành “dơ dáng.” Đây chẳng phải là lần đầu tiên thơ văn phái
nam bị phái kia “qua mặt”. Từ cuối thế kỉ XVIII, trong khi Nguyễn Du chỉ dám
“Dày dày đúc sẵn một toà thiên nhiên” thì Hồ Xuân Hương đã “Đôi gò Bồng Đảo
sương còn ngậm, Một lạch Đào Nguyên nước chửa thông” rồi.
LQM: Đối với anh, thời cuộc ảnh hưởng gì
lên sáng tác văn học?
TYT: Thời cuộc, hoặc cao rộng hơn, thời
đại, là một trong bốn thành tố của đời sống văn học: Thời đại + Nhà văn =>
Tác phẩm + Người đọc, như trong sách vở chúng ta thường đọc. Nhà văn Việt Nam,
do truyền thống, bị thời đại thường xuyên đè nặng tâm thức mình. Họ viết bởi
những trăn trở của kẻ sĩ đang rạch nát tâm tư họ. Họ viết bởi nhìn thấy xã hội
suy đồi nhếch nhác, đất nước nghèo đói đau thương. Truyền thống “văn dĩ tải
đạo” cho đến ngày nay vẫn bám chặt lương tri người cầm bút. Vâng, những trang
viết đó cao đẹp lắm và tôi chẳng bao giờ dám có ý tưởng ngông cuồng phủ nhận
cái gì đã được xem là tối thiêng liêng. Nhưng trong quan điểm của tôi, văn học
là hình thái ý thức nghệ thuật phán ánh hiện hữu—hiện hữu chứ không phải đời
sống—một hiện hữu bao gồm những khả thể đời sống khách quan lẫn ý thức đời sống
chủ quan. Văn học, như một nghệ thuật, có khả năng cùng lúc phô diễn, pha trộn
rất nhiều bình diện khác nhau, gần như nghịch lí, của đời sống con người, từ
cái chân lí cho đến cái phi lí. Tuy thế phần đông các nhà văn thường nhường
phần đất chân lí cho các triết gia và các nhà thần học khai thác. Ở cực điểm
bên kia, khó khăn và trắc trở không kém, một số ít như Samuel Beckett và Eugène
Ionescu mon men tìm đến tiếp cận cái phi lí, nhưng chỉ sau nửa thế kỉ, các trào
lưu phi lí hình như mất tăm. Còn lại là cái khả lí nằm đâu đó giữa chân lí và
phi lí. Chính cái khả lí này đã giúp văn học mở ra nhiều ô cửa sổ, qua đó,
chúng ta nhìn vào để thấy cái hiện hữu linh động muôn hình trạng trong một thế
giới bao gồm cả thực tại lẫn giấc mơ. Hay nói như Kundera, viết tiểu thuyết là
dùng con dao sắc rọc thủng “bức màn” hiện sinh để thấu thị cái khả hữu chưa hề
thấy bao giờ. Bởi thế, khi đọc một tác phẩm văn học, tôi không chú trọng đến
bối cảnh lịch sử, địa dư; thậm chí, những chi tiết trong đó có hợp tình, hợp
lí, có đúng với sự thật ngoài đời hay không, với tôi, cũng chẳng đáng quan tâm.
Xin hỏi chị, có chi tiết nào phi lí hơn câu mở đầu tác phẩm Hoá thân của Franz
Kafka? Tôi cũng chẳng nghĩ văn học có thể giải quyết những bức xúc xã hội.
Nhiều lắm là cảnh báo mà thôi. Quan niệm văn học phản ánh hiện thực dễ đưa đến
nguy cơ o ép bắt văn học phải minh hoạ, tô hồng xã hội, điển hình hoá hình
tượng anh hùng theo khuôn mẫu sử thi để phục vụ và cổ võ cho hướng đi chính
trị. Đấy là thời kì văn học Việt Nam nằm trên đe dưới búa của cái gọi là hiện
thực xã hội chủ nghĩa. Sau bao nhiêu tác phẩm viết rặt theo khuôn mẫu này,
trong đó có không ít những ngòi bút kiệt xuất, Việt Nam vẫn nghèo đói và chỉ
tương đối lớn mạnh từ khi đổi mới, bỏ chính sách bao cấp, nông thôn bỏ hợp tác
xã, áp dụng kinh tế thị trường, hội nhập thế giới. Ngày nay Việt Nam có “vươn
ra biển lớn” hay không, theo tôi, điều đó chẳng dính dáng gì đến văn học cả. Và
bởi quan niệm sai lầm như thế nên có ông Hoàng Trinh nào đó đọc William
Faulkner [ông ta gọi là Foóc-ne] rồi nhảy đến kết luận là xã hội Mĩ cực kì bi
thảm, dân Mĩ chẳng biết hạnh phúc là gì! Thật là buồn cười. Hơn nữa, tính thời
đại, cũng như tính ý thức hệ, càng ngày càng lu mờ trong tiềm thức của nhân
loại thời nay. Nhiều tiểu thuyết gia Mĩ, trong đó có cả Douglas Coupeland,
người viết cuốn Generation X, còn chủ trương gạt bỏ toàn diện tính thời đại ra
khỏi tiểu thuyết.
LQM: Dịch giả Trịnh Y Thư có đồng ý chuyển
ngữ tên nhân vật, tác giả ngoại quốc sang tiếng Việt, như Faulkner thành ra
Foóc-ne không?
TYT: Dĩ
nhiên là không. Nếu có người ngoại quốc viết tên Lê Quỳnh Mai thành “Le Quinne
Mai” và đọc là “Lơ Kuyn Me” thì chị nghĩ sao? Tương tự
như thế khi dịch Washington ra Oa Sinh Tơn. Nghe buồn cười lắm.
LQM: Trong tập truyện “Người đàn bà khác”
của anh xuất bản năm ngoái trong nước, hình như quá khứ là nỗi ám ảnh lớn cho
những nhân vật trong truyện. Anh có thể nói gì thêm về nỗi ám ảnh này?
TYT: Chúng ta ai cũng có quá khứ. Đối với
những kẻ lìa bỏ quê hương ra đi khi đã có chút ý thức về đời sống, cái quá khứ
ấy trở nên nhọc nhằn, nặng nề gấp bội. Một quá khứ nặng khôn kham. Chúng ta khổ
sở suốt đời vác nó trên lưng như con ốc sên vác cái vỏ cứng của nó. Tuy vậy sau
một thời gian dài sinh sống nơi nước ngoài, cái đau hoài hương trong lòng chúng
ta dần dà phai nhạt để nhường chỗ cho cái đau của sự lạ hoá. Sự việc biến thiên
theo chiều nghịch đảo: cái thân quen biến thành cái xa lạ và ngược lại. Trở về
thăm viếng nơi mình sinh trưởng sau một thời gian dài xa cách, gần như ai cũng
cảm thấy nỗi đau này. Nó lạ lùng một cách tàn bạo. Dù cố gắng cách mấy người ta
vẫn không thể tự đánh lừa được cảm giác xa lạ, lạc lõng, tách rời. Mảnh đất nơi
mình sinh ra biến thành nơi chốn khác, không còn là của mình nữa. Lịch sử của
mảnh đất đó không có chỗ đứng cho mình, nó tàn nhẫn gạt mình ra ngoài lề. Lằn
ranh biên giới giữa nhớ và quên như bị xoá sạch, không còn cái gì đáng nhớ, sự
lãng quên như bị sai khiến bởi vô thức. Kí ức vẫn còn đấy trong bộ nhớ nhưng nó
như bị ảo hoá, trở nên không thực. Sự lạ hoá này cũng thật là tàn bạo bởi cùng
lúc nó để hiển lộ khía cạnh hiện sinh của thế giới con người: con người là sinh
vật không có bản nguyên, căn tính của hắn không là cái gì bất di dịch. Hắn bị
ném ra ngoài thế gian này mà không hề biết tại sao. Hắn như nhà phi hành đi bộ
ngoài không gian bị đứt dây buộc với phi thuyền mẹ và cứ thế dật dờ trôi giạt
mãi về khoảng không gian huyền tẫn mịt mù. Cuốn sách dầy hơn 300 trang, tôi chỉ
muốn nói có bấy nhiêu.
LQM: Anh có nghĩ rằng nền văn học Việt Nam
hải ngoại quá thiếu tiểu thuyết hay không?
TYT: Thiếu trầm trọng. Một nền văn học
không có tiểu thuyết mà chỉ có thơ và truyện ngắn giống như bữa ăn tối chỉ có
khai vị và tráng miệng mà không có món chính. Nhưng nếu hiểu truyện ngắn là
tiểu thuyết thu nhỏ thì bữa ăn của chúng ta lại có quá nhiều những món lẳn tẳn
ăn bốc, finger food, ăn mãi vẫn chưa thấy no mà chỉ thấy bụng óc a óc ách. Đây
cũng là cảm giác của tôi khi đọc văn chương trên mạng. Thiếu tiểu thuyết mà
cũng thiếu cả phê bình, đúng hơn, thiếu những nhà chuyên viết điểm sách. Các
nhà phê bình của chúng ta hình như thích làm học giả hơn, họ bỏ hoang căn nhà
điểm sách đến nỗi căn nhà này ngày nay trở thành bãi phế thải.
LQM: Anh có đề nghị giải pháp nào để dung
hòa sự thiếu hụt trầm trọng này không?
TYT: Thật tình tôi chẳng quan tâm lắm đâu.
Có nhiêu, xài nhiêu. Cái chúng ta có hiện nay là một nền văn học nghiệp dư. Làm
gì được, thưa chị? Giải pháp thì tôi nghe nhiều, nhưng tất cả đều như nước chảy
qua cầu, đánh trống bỏ dùi, nghe qua rồi bỏ.
LQM: Sau này anh có vài tác phẩm được xuất
bản trong nước. Lý do nào anh quyết định việc này? Vì số lượng độc giả đông
hơn? Và anh có lo tác phẩm của mình bị kiểm duyệt đục bỏ không thông báo, như
vài trường hợp của các tác giả hải ngoại có tác phẩm in trong nước?
TYT: Xuất bản sách ở hải ngoại là điều bất
khả trong hoàn cảnh hiện tại. Không người đọc. Đúng hơn, không ai chịu đi mua
sách về đọc. Khi tôi xuất bản cuốn “Đời nhẹ khôn kham” năm 2002, giáo sư Nguyễn
Văn Trung bảo tôi trong nước các sinh viên chuyền tay nhau đọc bản photocopy.
Trong lúc đó ở ngoài này cuốn sách in ra vỏn vẹn 300 cuốn, bán đến giờ, năm
2011, vẫn chưa hết. Xuất bản sách trong nước—phục vụ những độc giả yêu sách vở
muốn tìm hiểu văn hoá nước ngoài, hoặc tò mò muốn biết về văn chương, tâm tình
người Việt sống xa quê hương hoặc chỉ đơn thuần thưởng thức một tác phẩm hay—là
bình thường. Nhưng nhức nhối nhất vẫn là vấn đề kiểm duyệt. Cũng như tất cả
những người cầm bút khác, tôi tin tưởng vào sự tự do tuyệt đối của ngòi bút.
Cho đến nay tôi có hai cuốn xuất bản và phát hành trong nước, một dịch, một
sáng tác, và tôi chưa phải đối phó với vấn đề này. Cuốn truyện ngắn sáng tác,
tôi vừa là tác giả vừa là người chịu trách nhiệm bản thảo vừa là người chữa bản
in, nên không có tình trạng đục bỏ không loan báo. Nhưng có thể đấy là trường
hợp riêng lẻ. Tôi không rõ trường hợp các nhà văn, nhà thơ khác thì sao.
LQM: Ví dụ tác phẩm sáng tác của nhà văn
Trịnh Y Thư bị cắt đoạn kiểm duyệt khi mang vào trong nước in, thì anh sẽ có
phản ứng gì cụ thể hơn?
TYT: Dĩ nhiên tôi phải nghĩ lại. Nếu sự cắt
đoạn làm thay đổi nội dung và chủ ý của tác phẩm, chắc chắn tôi sẽ từ chối.
Nhưng mặt khác, tôi không phải là người xem chữ nghĩa của mình là cái gì tuyệt
đối thiêng liêng, một dấu phết dấu chấm cũng không ai được phép chọc bút vào.
LQM: Theo anh thì yếu tính “lưu vong” còn
tồn tại trong nền văn học Việt Nam hải ngoại không?
TYT: Nếu hiểu “lưu vong” là “tan mất” thì
chí ít giai đoạn văn học 1975-1990 có thể được gọi là “văn học lưu vong”. Đó là
thời kì khi người ta vẫn chưa tan cơn sốc của biến cố lịch sử 30/4 sau một thời
gian dài nội chiến. Thuật ngữ “lưu vong” hàm chứa một ý thức chính trị, và nó
hiển lộ trong những tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ lúc bấy giờ. Họ viết
những điều người đọc háo hức chờ đợi. Sự tan rã của cả một tập thể con người,
quê hương đang hấp hối trong nghèo đói và tù đày, thảm trạng thuyền nhân, đời
sống mới nơi xứ người thảm thương, nhếch nhác . . . Toàn những đề tài nóng bỏng
mà người viết và người đọc đều có thể chia sẻ dễ dàng. Văn chương ở đây không
cần hư cấu, và họ viết thật hiện thực, ngòi bút họ chỉ cần sao sát với thực tại
là đã được người đọc nhiệt tình đón nhận. Họ không tìm kiếm “bản ngã”, cũng
không có những công trình đào xới tư duy siêu hình, họ không chạy theo các trào
lưu tư tưởng thế giới. Thi ca Hậu Hiện đại, Giải Cơ cấu luận, với họ, là những
gì còn xa lạ. Họ viết những điều người đọc muốn đọc, và sự khởi sắc của thời kì
này dựa trên căn bản đó. Nhược điểm đương nhiên của họ là khi viết hết trải
nghiệm đời sống rồi thì họ ngưng bút luôn. Cả người viết lẫn người đọc trong
giai đoạn đầy hứng khởi này là một thực thể “đóng”, người viết trong nước, nếu
có tham dự, chỉ là một số rất ít chuyển lén được tác phẩm của mình ra ngoài.
Bước sang thiên niên kỉ III, tình trạng này biến đổi sâu sắc. Ý thức “lưu vong”
càng lúc càng mờ nhạt dần. Văn học tất yếu biến thiên theo thời thế và có lẽ nó
đã can đảm vứt bỏ cái vỏ ốc chính trị cồng kềnh mang trên người để mong tiến
đến những miền đất hoa thơm cỏ lạ xa hơn. Đã có những người viết (nhất là bên
lĩnh vực thi ca) có thực tài và thực tâm muốn làm mới, muốn khai phá những miền
đất lạ, nhưng sự tiếp nhận nơi người đọc có vẻ eo xèo, hờ hững lắm. Thế rồi,
đùng một cái, cuộc cách mạng tin học với sự bùng nổ của mạng lưới thông tin
toàn cầu khiến nền văn học Việt Nam hải ngoại cũng biến đổi mau chóng và ngày
nay nó mang một diện mạo khá lạ lùng. Ngành xuất bản sách, báo văn học gần như
chết hẳn. Các nhà sách, vốn trước đây cũng ít ỏi, lèo tèo, thi nhau đóng cửa,
dẹp tiệm. Sách báo phải đem đi đổ thùng bán kí lô. Toàn bộ sáng tác được đưa
lên mạng. Người viết lẫn người đọc, nhờ thế, gia tăng nhiều vì có sự đóng góp
tích cực từ khắp bốn phương trời, kể cả những cây viết “lưu vong” trong nước,
những người vì lí do nào đó, đứng bên ngoài luồng chính. Trên nhiều diễn đàn
văn học ngày nay ở hải ngoại, số người viết này là đa số, bởi thế nếu gọi nó là
nền “văn học hải ngoại” hay “văn học di dân” thì tôi e có người không đồng ý,
ngoại trừ nếu chúng ta gộp chung số người đọc, người viết trong nước thành
những kẻ “lưu vong” hoặc những “di dân” trong không gian ảo, cyberspace. Nếu
chính danh là cái gì quan thiết thì nền văn học của chúng ta ngày nay đang gặp
phải một trường hợp “khủng hoảng lai lịch” khá gay go. Riêng tôi, tôi không xem
chính danh là cái gì tuyệt đối hệ trọng. Hiện tượng biện biệt không gian trong
văn học (hay nghệ thuật nói chung) hoàn toàn tan biến dưới đôi mắt yêu thương
và bao dung của Mẹ Việt Nam.
LQM: “Hãy cho tôi biết thế nào là một nhà
văn chân chính.” Ý kiến của anh về câu trên?
TYT: Một nhà văn chân chính, theo tôi, chỉ
giản dị là một nhà văn trước sau tin tưởng và chung thuỷ với nghệ thuật của
mình. Chẳng thể nào lượng định được phẩm giá của nhà văn bằng ý nghĩa, giá trị
những gì hắn dàn trải trên trang viết. Chân-Thiện-Mĩ là những giá trị tương
đối, nhìn từ mỗi góc độ đều chênh lệch, hơn kém khác nhau. Triết lí diệt dục,
xa lánh cõi trần ai trong Phật giáo, được nhiều người xem là chân lí, trong
nhãn quan của Nguyễn Tuân, xuyên qua cuốn tiểu thuyết Chùa Đàn, là phản khoa
học, thậm chí . . . “phản cách mạng”. Chắc gì những tác phẩm tưởng là siêu việt
đều làm đẹp cho đời? Chắc gì kiếp nhân sinh sẽ đẹp đẽ, hạnh phúc hơn nhờ ngòi
bút của nhà văn? Tin tưởng như thế dễ đi đến chỗ hoang tưởng. Nghệ thuật nào
cũng thế. Cái tôi cho là hay, chị xem là dở. Và ngược lại. Văn học, như một
nghệ thuật, là chỉ dấu của tri thức, văn minh con người, nhưng tôi không xem nó
như một lí tưởng sáng đẹp tuyệt đối. Tôi có thể chấp nhận cái “không giống tôi”
nhưng tôi nhất quyết không chịu ép mình để cái “đạo đức giả” xâm chiếm tác phẩm
tôi. Đấy là định nghĩa “thế nào là một nhà văn chân chính” của riêng tôi.
LQM: Trên website Trịnh Y Thư
http://trinhythu.wordpress.com có hai bài thơ anh sáng tác năm 16 tuổi. Anh có
thể giới thiệu về hai tác phẩm này và tuổi thơ của tác giả không?
TYT: Tuổi thơ tôi không có nhiều ngày vui,
lẽ đương nhiên, bởi tôi lớn lên trong lửa đạn quê hương. Nhưng tôi may mắn nhờ
sự hi sinh vô bờ bến của cha mẹ nên tôi không đến nỗi bất hạnh. Tôi biết làm
thơ rất sớm, có lẽ từ khi lên Trung học. (Tôi có những bài thơ thiếu nhi làm từ
năm 11, 12 tuổi, đăng báo, rồi được cắt dán trong tập lưu bút ngày xanh). Tôi
sớm mơ mộng, sớm ý thức được thực tại một đất nước đắm chìm trong lửa đạn tai
ương, sớm mơ bước chân giang hồ. Hai bài thơ trên tôi làm năm 16 tuổi. Lúc đó
tôi có người cậu làm Trưởng ti Truyền tin tỉnh Kiến Hoà. Mỗi lần về phép ông
hay lấy xe díp chở tôi từ Sài Gòn xuống miền Tây chơi. Nhìn những cô gái xứ dừa
trắng trẻo đẹp xinh, ăn nói dịu dàng, ngọt ngào như mía đường, tôi mê tít.
LQM: Theo anh, mỗi tác giả sáng tác có nên
lập một website cho họ để phổ biến tác phẩm đến độc giả nhiều hơn không?
TYT: Nên chứ! Chúng ta đang sống trong thời
đại thông tin toàn cầu, YouTube, Facebook, Twitter, LinkedIn . . . Những quan
hệ xã hội ngày nay đa phần xảy ra trong không gian cyber, con người càng lúc
càng co rút vào cái tổ kén của mình và chỉ chường khuôn mặt ảo, hoàn toàn không
thật, ra ngoài thế gian ảo để múa may quay cuồng những trò thuật ảo. Xu hướng
của con người ở thời đại này là thế. Mọi thông tin đều được chuyển đạt bằng tốc
độ chóng mặt. Sự kiện văn chương đưa lên mạng ở thời điểm vừa qua là tất yếu,
ít ai có chọn lựa nào khác trong hoàn cảnh một cộng đồng ở ngoài nước, rời rạc,
thiếu thốn như cộng đồng Việt mình. Mặc dù chưa phải là cái gì tuyệt hảo, vẫn
có những nhược điểm không tránh nổi, nhưng nó giải quyết được nhiều vấn nạn và
quả tình bật mở ra khá nhiều khía cạnh thú vị, hữu ích khác. Nó đáp ứng được
yêu cầu năng động của một thế giới đang bay với tốc độ ánh sáng. Nó kết hợp một
tập thể người viết, người đọc mới trên một mặt bằng rộng rãi không tuỳ thuộc
vào yếu tố không gian. Nó sẽ ở lại với chúng ta trong thời gian lâu dài sắp
tới, nếu không muốn nói là vĩnh viễn, cho dù chúng ta có chấp nhận nó trong
ngôi nhà riêng của chúng ta hay không.
LQM: Ý kiến anh về sự phát triển của một số
websites văn chương tại hải ngoại hiện nay?
TYT: Lợi ích của Internet là vô hạn trên
nhiều bình diện, nhưng mặt khác, nếu nhìn từ góc độ người viết, tôi vẫn thấy
không cảm thông trọn vẹn với một nền văn học hoàn toàn dựa vào Internet. Viết
trên mạng giống như hành động ném viên sỏi xuống mặt hồ, trong tích tắc viên
sỏi biến mất tăm mà mặt hồ chỉ gợn lên dăm ba làn sóng nhỏ rồi lặng im như cũ.
Có lẽ đó là bản chất của Internet. Còn đối với người đọc thì trước một liều
lượng thông tin quá tải, cái gì cũng trở nên nhanh, ngắn, gọn. Những tác giả
thiên về dài dòng phân tích tâm lí, “tiểu thuyết tư duy” chẳng hạn, thường
không được mặn mà lắm với người đọc trên mạng. Như một món ăn nhanh. Đọc xong
tác phẩm là quên ngay, thậm chí khi đọc cũng chỉ đọc lướt lướt. Và bởi có quá
nhiều thông tin, chúng ta trở nên ngại ngùng trong việc đọc. Chúng ta trở nên
ngán đọc. Ngán. Phải nói là ngán đến mang tai. Có lẽ bởi thế nước Mĩ, nơi khai
sinh ra Internet, vẫn cố gắng duy trì một nền văn học in giấy, các quý san văn
học vẫn được in ra đều đặn. Ngành xuất bản tiểu thuyết thuộc văn hóa đại chúng
vẫn phát triển mạnh. Các ông lớn bà lớn muốn để tiếng thơm cho đời sau, muốn
gây ảnh hưởng chính trị, kinh tế, muốn bào chữa lỗi lầm chiến lược của mình,
tất cả đều viết sách. Tối nào trên kênh truyền hình PBS, Charlie Rose và Tavis
Smiley cũng giới thiệu dăm ba cuốn sách mới. Sự thật là cầm cuốn sách trên tay
vẫn là cái thú của hầu hết chúng ta khi đọc một tác phẩm tầm vóc. Nói như thế
nhưng tôi không chủ trương quay về thời kì sách báo in giấy cách đây vài ba
thập kỉ. Muốn cũng không được. Tôi chỉ mong ngành xuất bản của Việt Nam mình
được tái phục ở mức độ nào đó để hỗ trợ cho sinh hoạt mạng vẫn tiếp diễn mạnh
mẽ. Hi vọng hiện nay nằm ở công nghệ eBook. Có lẽ eBook sẽ làm gạch nối kéo
sách báo in lại gần Internet hơn, một sự dung hòa, một giải pháp, một lối thoát
cho cái bế tắc tưởng không có cơ cứu gỡ kia.
LQM: Anh có mâu thuẫn không giữa lời phát
biểu về ý kiến mỗi tác giả nên lập riêng một website, và websites của tạp chí
mạng (Internet)?
TYT: Sự mâu thuẫn có lẽ nằm ở chỗ “cái khó
bó cái khôn.” Nhưng cái khôn cũng chỉ cho chúng ta con đường khác khả dĩ giúp
chúng ta vượt qua cái khó. Bạn là cầm thủ vĩ cầm, nhưng bạn không phải là
Midori hay Sarah Chang, thêm nữa, càng ngày càng ít người bỏ tiền ra mua vé đi
nghe nhạc, chẳng ai mời bạn đi kéo đàn tại các sân khấu hoành tráng trên thế
giới, nhưng có YouTube sẵn đấy, bạn cứ việc “thảy” lên những màn trình diễn của
bạn, biết đâu nghệ thuật của bạn sẽ có người biết đến. Đương nhiên, trình diễn
trên YouTube thì chẳng thể nào bì được với một buổi tối trên sân khấu của đại
thính đường Carnegie đông nghẹt khán giả. Nhưng rất nhiều nghệ sĩ tài danh thời
nay sử dụng YouTube một cách vô cùng hữu hiệu như phương tiện giao cảm giữa
mình với khán thính giả khắp bốn phương trời. Đấy là lợi ích vô hạn của
Internet.
LQM: Ngoài viết văn và chuyển ngữ tác phẩm,
Trịnh Y Thư còn làm thơ. Cảm nghĩ của anh về Nàng Thơ, và anh thích nhà thơ
cùng tác phẩm nào nhất?
TYT: Thơ lúc nào cũng chiếm phần ưu ái nhất
trong tâm hồn tôi. Tôi thấy mình may mắn là kẻ yêu thơ. Tôi không “vịn” vào thơ
để sống như nhà thơ nào đó tỏ bày tâm sự. Thơ cũng chẳng phải là cứu cánh trong
cuộc đời tôi. Nhưng thơ, qua chữ nghĩa và cảm xúc, quả cho tôi thấy một hiện
hữu tâm hồn khác nằm lấp ló đằng sau cái hiện hữu thường ngày. Tôi vẫn tin
tưởng vào thơ ngôn ngữ. Tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ là quan hệ, bởi
khác với nhà soạn nhạc hoặc hoạ sĩ, nhà thơ có vỏn vẹn hai mươi mấy con chữ
trong tay để hắn phổ lên trang viết của mình không biết bao nhiêu cung bậc cảm xúc.
Sự thú vị khi đọc thơ vẫn nằm trên bình diện ngữ nghĩa, ngữ âm, ngữ điệu và cả
thị giác nữa cùng những biến tấu gần như vô hạn của chúng để từ đó người đọc
bắt gặp những thi ảnh tâm đắc khiến hắn cất công trèo lên tầng cảm xúc với tác
giả bài thơ. Nhưng bên trên cả tầng cảm xúc là tầng thơ. Chỉ có thơ, biểu hiện
trên diện mạo của từng con chữ ăn nằm thân thiết bên nhau, bàng bạc khắp mọi
nơi, chan hoà tâm hồn người đọc. Vậy mà từ bài thơ chúng ta vẫn chẳng nắm bắt
được điều gì. Có sự nghịch lí ở đây chăng? Tôi nghĩ là không, bởi ý nghĩa ngoại
tại của một bài thơ là cái gì không đáng kể, ít quan trọng nhất. Thơ đừng nên
nói cái gì cả, hãy để ý thức tự thân nó tung toả, muốn bay lên cao thì bay nếu
nó đủ sức, muốn hạ cánh xuống bất kì chỗ nào thì hạ, ngay cả những chỗ không
thể hạ. Đừng bắt nó phải chìu theo ý kiến, quan điểm chính trị, luân lí, ý thức
hệ, giáo điều, giáo lí, đạo đức của bất cứ ai. Ngoài ra, với tôi, thơ chẳng còn
sức mạnh nào khác. Tôi rất sợ khi người ta gán ghép sứ mệnh, chức năng này nọ vào
thơ. Làm thơ để thúc đẩy, xúi bẩy kẻ khác đi vào chỗ chết là điều vô luân nhất
đối với tôi. Kẻ làm thơ như vậy đừng nên tự nhận là thi sĩ mà nên khoác cái áo
chính trị gia. (Khổ nỗi các chính trị gia lại thường thích làm thơ, một nghịch
lí không thuốc chữa). Tôi yêu thích thơ của nhiều tác giả, điển hình, hơn tuổi
tôi có các anh Hoàng Xuân Sơn, Khế Iêm, Nguyễn Hoà Trước, ngang tuổi tôi có
Chân Phương, Lưu Hi Lạc, ít tuổi hơn có nhà thơ nữ Nguyễn Bảo Chân trong nước.
Tôi yêu thích ngôn ngữ chín muồi, trữ tình và nhuần nhuỵ trong thơ lục bát của
thi sĩ họ Hoàng, cái tinh ròng trong ngôn ngữ thơ xuôi của Nguyễn Hoà Trước.
Còn thơ của Nguyễn Bảo Chân thì đi vào tâm hồn tôi bằng thứ ngôn ngữ vi tế,
nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau và ngữ điệu buông lơi là lạ. Hiện giờ tôi cũng
đặc biệt yêu thơ của hai nhà thơ Mĩ Bill Collins và Dana Gioia. Cả hai đều là
những khuôn mặt lớn của thi ca Mĩ đương đại. Sống ở Mĩ từ khi mới trưởng thành,
ít nhiều tôi thâm nhiễm văn hoá của họ mặc dù chất Việt Nam trong tôi chẳng bao
giờ mất được.
LQM: Sau nhiều năm viết văn, làm thơ, dịch
thuật. Anh có cảm nghĩ thế nào về hành trình vô định trong con đường văn chương
này?
TYT: Tôi thích cụm từ chị đưa ra, “Văn
chương là cuộc hành trình vô định”. Trong một bài viết về nghệ thuật tạo hình
của hoạ sĩ Nguyên Khai, tôi cũng có quan điểm tương tự. “. . . bởi nghệ thuật
là cái xác chết vô hồn nếu sự sáng tạo ngưng đọng trong vũng lầy tù hãm nên
người nghệ sĩ, cho đến hơi thở cuối cùng, vẫn phải quên đi nỗi đau để tiếp tục
cất bước trong cuộc hành trình vạch ra từ lúc sơ khai của buổi ban đầu, một
cuộc hành trình miên viễn, không bao giờ tới đích.” Cách đây hơn hai mươi năm,
lúc mới tập tễnh bước vào làng văn hải ngoại, tôi và một số bằng hữu văn nghệ
lúc đó bạo gan xuất bản một cuốn tuyển tập quy tụ hơn hai mươi người viết ở hải
ngoại sau thời điểm 1975. Thỉnh thoảng cầm lại cuốn sách tôi nhận ra một sự
kiện là, trong số hơn hai mươi người đó, chí ít ba phần tư, từ lâu lắm đã hoàn
toàn vắng bóng. Số còn lại, năm sáu người, trong đó có tôi, vẫn viết lai rai
cho đến bây giờ. Tôi không rõ những người khác nghĩ sao nhưng riêng tôi thì có
lúc nhìn vào gương tôi thấy cái gã alter-ego của tôi nhìn ra quát thẳng vào mặt
tôi, “Thôi chứ! Chú mày bẻ bút là vừa! Nhiêu đó đủ rồi, đủ phiền hà thiên hạ lắm
rồi, chú mày biết không?” Thế nhưng, có lẽ bởi nỗi đam mê vẫn âm ỉ cháy trong
tâm hồn tôi và như câu nói của bà nhà văn Mĩ Flannery O'Connor “. . . nhà văn
là kẻ vẫn còn hi vọng trên cõi đời, kẻ không còn hi vọng không viết văn”, tôi
vẫn tiếp tục viết. Viết để làm gì và, quan trọng hơn, hi vọng ở cái gì, thì tôi
hoàn toàn mù tịt.
LQM: Anh có hài lòng với hoạt động của mình
về lãnh vực văn chương, trong quá khứ cũng như hiện tại? Tại sao có? Tại sao
không?
TYT: Nhà văn Mai Thảo, khi còn tại thế, gọi
tôi là “thằng chân trong chân ngoài.” Công việc kiếm cơm của tôi chẳng dính
dáng tí gì đến chữ nghĩa hay nghệ thuật. Suốt đời tôi chỉ là người viết tài tử,
nghiệp dư. Tôi chẳng bao giờ hài lòng với hoạt động của mình nhưng cũng không
thất vọng bởi tôi không kì vọng gì nhiều vào văn chương. Hơn nữa, tôi có nhiều
đam mê. Lúc ở trong văn chương, lúc biến vào âm nhạc. Tôi xem nó như một khuôn
mặt của đời sống tôi, một đời sống có nhiều khuôn mặt cho đỡ buồn tẻ. Thế thôi.
LQM: Theo anh, có sự bất lợi nào cho người
sáng tác bằng tiếng Việt ở hải ngoại?
TYT: Dĩ
nhiên là có. Hằng ngày tôi sử dụng tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt. Nói và viết
tiếng Anh mãi, khi phải nghiêm chỉnh sử dụng tiếng Việt, bỗng thấy lúng túng.
Sử dụng chữ nghĩa cho nhuần nhuỵ vẫn là điều kiện cơ bản và tối thiểu cho một
người cầm bút. Tuy thế, dưới góc độ của một người sáng tác, tôi nhận thấy là
sống xa đất mẹ, tuy có những bất lợi, nhưng cũng có nhiều lợi điểm khác mà nếu
biết khai thác đúng đắn, ngòi bút của người sáng tác rất có thể trở nên độc đáo,
làm giàu cho ngôn ngữ mẹ. Nghệ thuật trong văn chương không nhất thiết phải lệ
thuộc vào sự tự nhiên, chuẩn xác hay “thuần chất” như ngoài đời thường. Điều
này đã và đang xảy ra trên địa hạt thi ca, nhưng rất tiếc nó chưa được thẩm
định đúng mức nên chưa có tiếng vang đi xa. Một trong những cái hay trong thơ
Hồ Xuân Hương là sự lệch chuẩn. Ai cũng công nhận như thế. Còn ngôn ngữ trong
thơ của các tay phù thuỷ chữ nghĩa như e.e. cummings, William Carlos Williams,
Bùi Giáng . . . thì có bao giờ giống đời thường đâu. Họ bỏ xa thứ ngôn ngữ
“thuần chất” cả nghìn dặm đường. Học hỏi người xưa là điều cần thiết, tôi luôn
luôn chủ trương đường đi của văn học là con đường kế thừa. Nhưng nếu không khai
phá trên con đường kế thừa đó thì văn học, như một nghệ thuật, sẽ sa lầy trong
vũng lầy tù hãm của sự nhai lại. Hơn nữa, mỗi thời đại đều có tiếng nói riêng
của nó. Nhịp đập của nó không cùng tần số với những thế hệ đi trước. Ở hải
ngoại, tôi nghĩ lợi điểm của chúng ta là sự khai phá tới hạn của ngôn ngữ mà
không phải sợ hãi hay e dè một thế lực nào trì hãm lại. Sự khai phá đôi khi quá
tải, nhưng tôi không e ngại chút nào về chuyện đó, bởi nó phải như thế, và sự
quá tải sẽ tìm về thế quân bằng với thời gian.
LQM: Và
tương lai? Nhà văn Trịnh Y Thư có đề nghị hay ý kiến gì cho văn học hải ngoại
không?
TYT: Câu hỏi to tát quá! Ý kiến hay đề nghị
thì không có, tôi chỉ có hi vọng. Hi vọng ở một nền văn học tuy không to tát ồn
ào nhưng vẫn tồn tại với tất cả những tâm tình ấp ủ của một tập thể người sinh
sống ở nước ngoài nhưng vẫn dùng tiếng mẹ làm chuẩn cho ngôn ngữ sáng tác và
luôn luôn hướng về quê mẹ.
LQM: Anh nghĩ gì về tình trạng sinh hoạt
văn chương ở hải ngoại hiện nay?
TYT: Có lần, trong một buổi ngồi quán cà
phê nói chuyện gẫu, một anh bạn văn chép miệng thở dài, “. . . Văn chương ở
ngoài này bây giờ, nó như cái chợ chiều.” Tôi bảo đùa anh đừng làm nhục “chợ
chiều” như thế chứ, ít ra “chợ chiều” còn có kẻ bán người mua, còn đằng này bọn
mình không có nổi một gian hàng cho ra hồn, người mua thì hoàn toàn vắng bóng,
một linh hồn lạc lõng lang thang cũng chẳng thấy tạt qua. Nói đùa vậy thôi chứ
kì thực tôi không quá bi quan về cảnh “chợ chiều văn chương” đâu. Ở bất kì thời
gian, không gian nào, thông thường văn chương chỉ giới hạn vào thành phần thiểu
số cực nhỏ của xã hội. Nó sẽ chẳng bao giờ cạnh tranh nổi với văn hoá đại chúng
trên bình diện thương mại, về số lượng người đọc, v.v… Sức thu hút của nó là hạn chế. Nhưng sức mạnh
tiềm tàng và sự trường tồn của nó nằm ở chỗ nó không bị chi phối bởi thị hiếu,
nó không nói đến cái nhất thời mà cái muôn đời. Giá trị của nó nằm ở chỗ nó
tránh xa chốn xôn xao huyên náo của quần chúng, mặc dù vẫn luôn luôn sao sát
với nhân sinh. Vâng, nếu quả thật nó giống cái “chợ chiều” kia thì tôi thấy nó
thú vị, đáng yêu hơn cái chợ sớm “ngựa xe như nước áo quần như nêm” đinh tai
nhức óc những điều chẳng dính dáng tí gì đến văn chương. Bên cạnh tôi nhiều
người bẻ bút nhưng cũng có người viết mới xuất hiện với bút lực và suy nghĩ
tươi trẻ, mạnh mẽ. Họ chính là nguồn cảm hứng cho tôi tiếp tục sáng tác.
LQM: Với tình trạng bi đát như anh vừa nói,
thì các tác giả tại hải ngoại có nên chuyển hướng sáng tác bằng Anh hoặc Pháp,
thậm chí Tây Ban Nha ngữ không?
TYT: Dĩ nhiên là nên nếu họ có khả năng sử
dụng ngôn ngữ ấy như một nhà văn. Riêng tôi thì tôi trót yêu tiếng Việt rồi và
cũng tự biết mình chẳng có khả năng này.
LQM: Xin cám ơn nhà văn Trịnh Y Thư đã gởi
đến độc giả những câu trả lời thú vị nhất.
TYT: Xin cám ơn chị, cám ơn quý độc giả đã
chịu khó kiên nhẫn nghe tôi huyên thuyên phát biểu linh tinh về việc làm văn.
Thế giới ngày nay có bảy tỉ khối óc thì những điều tôi nói trên đây chỉ là một
trong bảy tỉ quan điểm khác nhau về văn chương, nghệ thuật mà thôi, chẳng có gì
trọng đại.
LQM
(Nguồn:
Hợp Lưu)
No comments:
Post a Comment