Phan
Tấn Hải
Giáo sư Nguyễn Văn Sâm
cùng phu nhân, nhà văn Ngọc Ánh.
Người
ta đã gọi Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm bằng nhiều danh hiệu, và lời nào cũng đúng, cũng
trang trọng: nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật… Nhưng có một cách
gọi khác, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Trần từ Paris viết rằng Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm là
người giữ Hồn Nước. Và thực tế, xuyên suốt tất cả những tác phẩm của GS Nguyễn
Văn Sâm là một tấm lòng thiết tha muốn tìm về cội nguồn, để lắng nghe những chữ
nghĩa sâu thẳm nhất của tiền nhân.
Tiến
sĩ Nguyễn Văn Trần đã nhận định: “…cũng như chữ Hán, chữ Nôm là kho tàng gìn
giữ một phần quan trọng văn hóa dân tộc. Muốn tiếp xúc với văn hóa dân tộc, phải
biết chữ Hán và chữ Nôm. Muốn học chữ Nôm, phải biết chữ Hán. Nhưng chưa đủ, mà
còn phải biết lịch sử, đời sống xã hội, cách cấu tạo chữ Nôm qua các thời kỳ…
Cách
nay vài năm, cứ mỗi năm vào mùa thu, Giáo sư Hán Nôm Nguyễn Văn Sâm vẫn đều đặn
qua Paris một tháng, dành nhiều thì giờ vào thư viện tìm những bản văn Nôm của
tác giả xứ Nam kỳ để diễn dịch ra quốc ngữ với thêm chú giải. Cách nay hai năm,
vì không kịp đọc tại chỗ, ông in lại hơn 3000 trang ôm về Huê Kỳ đọc và phiên dịch.
Ông nói thấy ham quá nhưng bây nhiêu đây cũng phải mất nhiều thì giờ mới làm xong.
Năm rồi ông không qua Paris được vì dịch Vũ Hán. Người nghiên cứu, phiên âm,
chú giải chữ Nôm ra quốc ngữ để phổ biến là người giữ hồn dân tộc. Giữ Hồn Nước!
Giáo
sư Nguyễn Văn Sâm là người trong số rất hiếm quí làm công việc không còn mấy
người làm này. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay tre đã già đang chờ măng mọc!” (ngưng trích)
Thử
nhìn khắp trong và ngoài nước, chúng ta có thể đếm thấy nhiều ngàn nhà văn, hàng
trăm ngàn nhà giáo… nhưng không có bao nhiêu người gọi được là học giả Chữ Nôm.
Và trong các học giả Chữ Nôm, Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm đã nổi bật như một ngọn núi
khổng lồ, nhờ các công trình dịch và chú giải các tác phẩm Chữ Nôm, đặc biệt là
“những tác phẩm chữ Nôm là những gia tài cổ có một không hai của văn học Việt
Nam” – như cách nhà nghiên cứu Hoàng Kim Oanh ghi nhận qua bài viết nhan đề “Nguyễn
Văn Sâm và dòng chảy văn chương Nam Kì Lục Tỉnh” trích như sau:
“Ngoài
tuồng, cải lương, truyện thơ bình dân, truyện ngắn, giai đoạn sau này, thơ Nôm
là một thể loại được ông quan tâm đặc biệt. Ông cho rằng chữ Nôm và những tác
phẩm chữ Nôm là những gia tài cổ có một không hai của văn học Việt Nam, ra đời
trong một bối cảnh đặc biệt của đất nước và có giá trị giáo dục rất cao song
đang dần bị mai một. Đó là các tuồng hát bội, truyện thơ viết bằng chữ Nôm chưa
từng được phiên âm mà nguyên bản hiện còn đang nằm trong các thư viện lớn ở Âu
Châu... Gần 20 năm nay, tác giả đã lặng lẽ đi tìm ở các thư viện trên các nước
Mỹ, Pháp, kết hợp với những chuyến về thăm quê, lùng tìm… Có khi ngẫu nhiên nhặt
được trên bệ thờ một gia đình xứ Huế, có khi trên gác bếp một căn nhà nông thôn
Nam Bộ do con cháu biết là của ông cha để lại nhưng không hiểu nội dung viết gì
đành giữ đó như một di vật của tổ tiên… Có khi được tặng không, có khi phải mua
cả mấy cây vàng… Công cuộc tìm kiếm tôn tạo giữ gìn vốn cổ ấy cho đến nay nhà văn
của chúng ta vẫn chưa dừng bước.” (ngưng trích)
Để
hình dung được những chặng đường học và nghiên cứu rất mực đa dạng của người giữ
hồn nước đó, nơi đây chúng ta ghi ra sơ lược tiểu sử của GS Nguyễn Văn Sâm.
GS
Nguyễn Văn Sâm sanh ngày 21/3/1940 tại Sàigòn. Tốt nghiệp Cử Nhân Giáo Khoa Triết
Học (Tây Phương) năm 1965, Cao Học Văn Chương (Việt Nam) năm 1972, và Năm Thứ
Nhứt Tiến Sĩ Văn Chương Việt Nam (Khóa độc nhất trước 1975). Từng dạy Trung học
(Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, Pétrus Ký, Sàigòn), Đại học (Sàigòn, Cần Thơ, Hòa Hảo,
Cao Đài, Vạn Hạnh). Vượt biên đến Nam Dương tháng 03/1979, vào Mỹ tháng
09/1979. Dạy học từ đó đến khi về hưu năm 2006. Viết cho các tạp chí Văn, Văn Học,
Đi Tới, Chánh Pháp….
Thành
viên Ban Biên Tập Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn. Giáo sư Viện Việt Học, California,
Hoa Kỳ.
TÁC
PHẨM IN TRƯỚC 1975:
1.
Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam (Kỷ Nguyên, Sàigòn, 1969),
2.
Văn học Nam Hà (Lửa Thiêng, Sàigòn, 1972, 1974),
3.
Văn Chương Nam Bộ và Cuộc Kháng Pháp 1945-1954 (Lửa Thiêng, Sàigòn, 1972, Xuân
Thu, CA, 1988).
SAU
1975:
A.
Sáng tác:
1.
Miền Thượng Uyển Xưa, tập truyện (Bách Việt, CA 1983, in chung với Đặng Phùng
Quân),
2.
Câu Hò Vân Tiên, tập truyện (Gió Việt, TX, 1984),
3.
Ngày Tháng Bồng Bềnh, tập truyện (Gió Việt, TX, 1987),
4.
Khói Sóng Trên Sông, tập truyện (Văn, CA, 2000),
5.
Quê Hương Vụn Vỡ, tập truyện (Viện Việt Học, CA, 2012),
6.
Giọt Nước Nghiêng Mình, tập truyện (Viện Việt Học, CA, 2018),
7.
Ước Vọng Bay Tan, kịch thơ (Tiếng Quê Hương, Virginia, 2016).
B.
Phiên âm từ sách Nôm:
1.
Trương Ngáo (Viện Việt Học, 2008),
2.
Tội Vợ Vợ Chịu (Viện Việt Học, 2010),
3.
Người Hùng Bình Định (Viện Việt Học, 2012),
4.
Mà Lòng Tôi Thương (Viện Việt Học, 2013),
5.
Tỉnh Mê Một Cõi (Viện Việt Học 2015),
6.
Báo Ứng Nhân Quả (Gió Việt, 2016).
7.
Nữ Tắc Diễn Âm (Lời Dạy Đàn Bà - Con Gái)
8.
Tam Quốc Diễn Nghĩa Ca. (Viện Việt Học, 2020)
8.
Tuồng Kim Vân Kiều Nam Bộ (Viện Việt Học, 2021)
9.
Quan Âm Tế Độ (Viện Việt Học, 2022)
C.
Chú giải sách xưa:
1.
Kể Chuyện Tình Buồn (Chú giải “U Tình Lục” của Hồ Văn Trung, 2014),
2.
Chuyện Đời Xưa (Chú giải “Chuyện Đời Xưa” của Trương Vĩnh Ký (Ananda Viet
Foundation, 2017).
Những
người sinh hoạt trong học giới nghĩ gì về Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm và các công trình?
Cư
sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang, cũng là một nhà nghiên cứu uyên bác về Phật học và Hán
học, nơi Lời Giới Thiệu sách Quan Âm Tế Độ đã ghi nhận: “Giáo Sư Nguyễn Văn
Sâm là một trong số hiếm hoi các học giả có thẩm quyền về chữ Hán-Nôm của Việt
Nam trong và ngoài nước hiện nay đã nỗ lực không ngừng để chạy đua với tuổi già
sức yếu mà hoản thành việc phiên âm sang chữ quốc ngữ nhiều tác phẩm văn học chữ
Nôm.”
Chúng
ta sẽ thấy là, nếu một dịch giả không đủ uyên bác và nhạy cảm văn học như GS
Nguyễn Văn Sâm, sẽ không giúp độc giả hiểu và cảm được tác phẩm, có khi sẽ còn
ngộ nhận hay hiểu sai lệch. Đặc biệt là nhiều tác phẩm cổ thường pha trộn tư tưởng
tam giáo đồng nguyên Nho-Lão-Phật đòi hỏi người dịch và chú giải phải có một nền
học vấn rất thâm sâu.
Do
vậy, GS Trần Huy Bích nhận định rằng GS Nguyễn Văn Sâm đã rất công phu khi
phiên âm và chú giải bản Quan Âm Diệu Thiện (Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Kinh). Dựa
theo bản khắc năm Mậu Thân 1908 năm thứ 34 niên hiệu Quang Tự (nhà Thanh).
Phiên âm từ chữ Nôm ra quốc ngữ là: Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Hiền Tâm.
GS
Trần Huy Bích nói rằng GS Nguyễn Văn Sâm đã có những chú giải rất cần thiết. Bởi
vì, nếu, không có chú giải, chúng ta không hiểu được chữ của tiền nhân.
Thí
dụ như câu 87-88 ở sách Quan Âm Tế Độ:
Thiên
Tôn Vô Cực tòa tiền
Từ
Hàng quì gối phút liền tâu qua.
Chú
giải rằng:
Vô Cực Thiên Tôn theo dân gian Nam Bộ là Diêu Trì Kim Mẫu hay Tây Vương Mẫu,
nhân vật truyền thuyết của Đạo Giáo. Còn Từ Hàng là hình ảnh Quan Âm Bồ Tát
trong Phong Thần Diễn Nghĩa. Tức là trong tác phẩm, những niềm tin dân gian pha
trộn nhau để thành tiểu thuyết chữ Nôm, như một phương tiện đem giáo lý nhà Phật
tới cho người bình dân Nam Bộ.
Cái
pha trộn tam giáo đó cũng hiển lộ ở câu 100, 101:
Chỉ
ư chí thiện tiền trình đâu riêng
Lập
công phản bản, hoàn nguyên.
Nhóm
chữ “Chỉ ư chí thiện” là từ sách Đại Học của Nho Giáo, trong khi “phản bản hoàn
nguyên” là từ sách Thiên Thai Chỉ Quán của nhà Phật. Nếu không có chú giải, độc
giả thời nay sẽ khó nắm ý tác giả.
GS
Trần Huy Bích cũng ca ngợi về chỗ chú giải câu thơ 909:
Hay
đâu cứng cổ việc tu
Bản
Nôm viết là “cheo” (Cheo đâu cứng cổ việc tu) nhưng GS Nguyễn Văn Sâm nhận ra
là in nhầm vì nên là chữ “hay” do cách viết 2 chữ rất gần nhau. Nghĩa là, chữ
nghĩa rất thâm hậu mới nhận ra sách in sai. Có bao nhiêu người trên đời này dò
ra cái in sai của cổ thư? Hy hữu vậy.
Có
một phương diện khác của Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm: viết truyện ngắn, và viết rất độc
đáo. Nhà phê bình văn học Trần Văn Nam đã nhìn về nét phương ngữ qua bài nhan đề
“Nguyễn Văn Sâm, nhà văn viết về những lập nghiệp lên từ sông Bến Nghé”
trích như sau:
“Ta
thấy các nội dung trong các truyện của Nguyễn Văn Sâm không ngoài tình đất,
tình quê hương, tình người nhân nghĩa, tình gia đình gắn bó; nhưng những điều
đáng kể trong các truyện của Nguyễn Văn Sâm ở chỗ ông tận dụng phương ngữ của
người bình dân Sài Gòn; có lẽ thuộc về phương ngữ Sài Gòn hơn là phương ngữ Nam
Bộ như ta thường gồm chung lại. Do phương tiện đi lại thuận tiện, giao lưu thường
xuyên giữa Sài Gòn và Miền Tây Miền Đông, nên phương ngữ các vùng ấy không có
gì khác, nhưng cũng có những câu nói mà người Sài Gòn bình dân thường dùng nhiều
hơn. Trong các truyện của Nguyễn Văn Sâm, phương ngữ rất dồi dào; như vậy nhà
văn như cũng đã áp dụng phương châm của một số nhà văn coi “cách diễn tả quan yếu
hơn điều muốn diễn tả”. Cách diễn tả muốn cho đậm chất tình quê hương tình đất
thì tận dụng phương ngữ, như vậy làm cho nội dung và hình thức gắn bó với nhau.
Nhưng thiển nghĩ, điều ấy nên áp dụng ở những câu đối thoại.” (ngưng trích)
Một
văn phong miệt vườn, nhưng đi rất xa… Đó là nhận định từ nhà phê bình Nguyễn Vy
Khanh khi nói về ngòi bút Nam Bộ trong truyện Nguyễn Văn Sâm qua bài viết nhan
đề “Đọc ‘Khói Sóng Trên Sông’ của Nguyễn Văn Sâm” trích như sau:
“Văn
chương Nguyễn Văn Sâm tưởng chừng theo truyền thống viết-như-nói khởi từ trường
phái Trương Vĩnh Ký, qua Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc đến Võ Kỳ Điền, Nguyễn
Tấn Hưng thời hiện đại. Khởi sáng tác cùng thời với hai nhà văn sau, nhưng các
truyện ngắn của Nguyễn Văn Sâm nếu đọc kỹ mới thấy ông đi xa hơn: ông viết như
nghĩ và dùng ngôn ngữ nói để làm văn chương. Ông hấp dẫn người đọc bằng các chi
tiết ly kỳ xen kẽ với lối nói, lối suy nghĩ của các nhân vật đa dạng nhưng tiêu
biểu cho “miệt vườn”. Cái khiến Nguyễn Văn Sâm không giống các nhà văn “miệt vườn”
khác, là chính trong câu văn mà muốn hiểu thì người đọc phải hiểu được mạch nổi,
mạch chìm và lớp từ ngữ bộn bề, dồi dào, nhuốm trí thức của ông. Có thể xem Chờ
Cho Trăng Lặn và Như Nước Trong Nguồn là hai truyện ngắn tuyệt tác tiêu biểu của
Nguyễn Văn Sâm!” (ngưng trích)
Tuy
nhiên, tận trong gốc rễ, nhà văn Nguyễn Văn Sâm đã viết truyện như một nhà giáo,
với ngòi bút rất mực thần sầu quỷ khốc. Đó là nhận định của Giáo sư Đàm Trung
Pháp, người có giao tình với GS Nguyễn Văn Sâm vì là đồng nghiệp dạy học ở các
đại học Sài Gòn trước 1975, sau qua Mỹ gặp lại và cùng hoạt động về Việt học. GS
Đàm Trung Pháp trong bài viết nhan đề “Giới thiệu tập truyện Quê Hương Vụn Vỡ
của Nguyễn Văn Sâm” đã ghi nhận về người viết truyện rất mực Nam Bộ này như
sau:
“Quý
bạn đọc đang cầm trong tay một tuyển tập truyện ngắn đặc sắc qua ngòi bút Nguyễn
Văn Sâm. Tôi có cảm tưởng mỗi truyện anh viết là một kỷ niệm đậm sâu trong đời
anh, hoặc trong đời một người rất thân của anh, mà khi đọc xong, dù vui hay buồn,
tôi còn lưu luyến mãi trong lòng như một nhắc nhở ray rứt. Anh là một nhà văn gốc
nhà giáo có một tâm hồn hướng thượng, một trái tim nhân ái, một ước vọng chấn
hưng đạo đức trong một quê hương đang băng hoại về lối sống; do đó, mỗi truyện
của anh là một bài ngụ ngôn thấm thía. “Văn dĩ tải đạo” là sứ mệnh văn chương của
anh mà anh đã thực hiện một cách ngoạn mục trong tập truyện. Phương tiện để anh
đạt mục tiêu vừa kể là một văn phong truyền cảm, thành tâm, sâu sắc, quan sát tận
tường. Thêm vào đó là những yếu tố bất ngờ kỳ thú trong các cốt truyện được anh
xây dựng mạch lạc, những từ vựng thực vui mắt của một phương ngữ miền Nam đáng
yêu, và những đoạn văn tả chân thần sầu quỷ khốc của anh mỗi khi anh ra tay hạ
xuống. Một bí quyết nữa khiến những truyện ngắn của anh thành công là chúng đều
có một mở đầu gợi cảm kích thích bản chất tò mò của người đọc (khiến họ không
thể bỏ cuốn sách xuống) và một kết luận làm người đọc xao xuyến trong lòng (khiến
họ khó quên được câu chuyện).” (ngưng trích)
Nhìn
chung về truyện ngắn Nguyễn Văn Sâm, chúng ta thấy rằng tác giả không tách rời
mình vào trong tháp ngà của văn chương. Ông hội nhập vào đời sống, mở mắt lớn
ra nhìn những cảnh đời và ghi nhận những điều xấu cũng như tốt của cuôc đời:
Truyện ngắn của Nguyễn Văn Sâm còn gần gũi thời sự với những chuyện tranh chấp
biển đất của Trung-quốc, khiến những hố chưn voi chia cắt những người Hoa Việt
sống chung từ nhiều đời (Những hố chưn voi trong lòng người). Hay chuyện người
Hoa chế biến thực phẩm, dầu mè ra sao (Chuyện đổi chó), chuyện hóa chất, chuyện
đẻ mướn, chuyện 'tàu lạ' hoành hành ngoài khơi, v.v. đã xảy ra từ thuở xa xưa rồi!
Không lạ, nhưng khi đặt đặt để trong chuyện, thì lạ lẫm hơn bình thường!
Nhìn
về bối cảnh phía sau những trang chữ đó, cần phải nhắc tới một mối lương duyên đã
trở thành nguồn tình cảm rất lớn để cảm thông và hỗ trợ: là hiền thê và là một
tri kỷ của GS Nguyễn Văn Sâm, phu nhân Trần Ngọc Ánh là một phụ nữ sau năm 1975
đã xông pha vì yêu nước, chịu nhiều năm tù, và rồi trở thành một nhà văn sau
khi kết hôn với GS Nguyễn Văn Sâm và sang Hoa Kỳ cư ngụ.
Cô
Phan Dụy, một học trò cũ của GS Nguyễn Văn Sâm tại Đại Học Văn Khoa SG trước
1975, ghi lại cảm nghĩ về mối lương duyên của Thầy Sâm: “Nói về Thầy tôi,
không thể không tỏ lòng cảm mến, biết ơn và cảm phục cô Ngọc Ánh, người phụ nữ
này nếu không là con cháu của Bà Trưng Bà Triệu, thì cũng là đồng đội tâm huyết
của Cô Giang Cô Bắc. Theo cá nhân chúng tôi, cô Ngọc Ánh là người phụ nữ chịu đứng
mũi chịu sào cho chuyến đò dọc, chở Thầy tôi, và sự nghiệp của người đã dày
công xây dựng suốt cả một đời người, kể từ tác phẩm “Văn Chương Tranh Đấu Miền
Nam” năm 1969, cho đến ngày nay, một gia tài kếch sù về bộ môn biên khảo đặc biệt
về Chữ Nôm và Chữ Hán, mà tôi có thể rất tự hào thiên vị-chủ quan để nói rằng
khó có ai sánh kịp, đó là chưa kể những tác phẩm sáng tác, tập truyện, thơ, bày
tỏ tình cảm nỗi lòng của mình cũng như nói giùm cho kiếp nhân sinh trong những
“Ngày Tháng Bồng Bềnh”…” (ngưng trích)
Đặc
biệt, trong ngày mừng sinh nhật 81 của GS Nguyễn Văn Sâm, nhà văn Trần Ngọc Ánh
cũng là vị hiền thê trăm năm tri kỷ của Giáo sư, đã làm 4 câu thơ chúc mừng phu
quân như sau:
Mừng
Sinh Nhật
Cây
cổ thụ lâu nay vẫn còn sức
Thầy
Đồ Sâm vẫn thức với thời gian
Tám
mươi mốt năm tay bút vững vàng
Cố
giữ chút hương ngàn Văn Hóa Việt.
---- Ngọc Ánh 21/3/2021
Và
bản thân tôi, người mang ơn những dòng chữ viết của GS Nguyễn Văn Sâm, xin trân
trọng làm mấy dòng thơ kính tặng Thầy Sâm:
Kính
Tặng Thầy Sâm
Nửa
đêm dò trang chữ cổ
bụi
vàng phủ mấy trăm năm
nghe
vọng bút nghiên cung kiếm
về
khua mở hội trăng rằm.
Triệu
mời hồn xưa trong gió
Thầy
tìm dịch lại từng trang
so
chữ đêm dài cũng ngắn
chép
từng dòng thơ mênh mang.
Nghe
dây cổ cầm bật khóc
quân
binh thúc ngựa hí vang
Thầy
ghi lại hồn giấy mực
tóc
râu nhuộm trắng mây ngàn.
PHAN
TẤN HẢI,
2020-2021.
No comments:
Post a Comment