Lê
Chiều Giang
Lê
Chiều Giang
" Ở ăn
với Mẹ mày nhiều
Có trưa hộc máu, có chiều trào cơm..."
Nguyễn
Đức Sơn
Bút hiệu, một ẩn khuất của định mệnh,
vô hình chung đã gắn bó cùng tác giả cho đến hết một đời người. Nói
thế chẳng có nghĩa là tôi đã duy tâm, nhưng phải nghiệm theo cách đó mới giải
thích được "Sao Trên Rừng" của ngàn thông trên vùng thâm u
Phương Bối.
Từ balcony của căn chung cư nhỏ, tôi hay
đứng ngó mông ra xa nhìn chút nắng nhạt nhoà trên những lùm cây thấp lè tè
chi chít mọc dọc theo bờ sông bên kia, nơi có con đường mòn rất dài, ngoằn ngoèo dẫn qua Làng Báo Chí. Cái tĩnh
lặng của chiều tà dù trên đồi cao hay đường quê, biển khơi hay ngay trên
dòng sông nho nhỏ trước hiên nhà ... với tôi luôn là những giấc mơ êm ái .
Hôm nay, "chiều" của tôi đã
không còn thanh tịnh. Mắt tôi chằm chằm nhìn theo một người mặc áo thụng màu lam,
ông nắm con chó quăng rất xa xuống nước, chờ cho đến khi nó loi ngoi lúp
xúp lên được bờ, ông lại quăng nó xuống nước trở lại, và cứ cả chục
lần như thế... Không hiểu chú chó nhỏ
có thích thú với cách đùa của ông chủ hay không, nhưng từ trên cao nhìn xuống,
tôi thấy thương nó lạ lùng, thương rồi sốt ruột đến nỗi không còn dám nhìn
thêm chút nào nữa.
Khi nghe tiếng đập cửa dồn dập, tôi mở rất
vội vàng và đứng sững nhìn. Ông Sư và con chó ướt nước đứng chờ bên chiếc
xe đạp cũ kỹ. Chẳng hiểu gì và sao vậy, tôi chỉ đứng nhìn con chó nhỏ
mà cảm thấy như toàn thân mình lạnh cóng.
Chẳng chờ gì tôi, ông hỏi trước :
- Nghiêu Đề , sáng có nhắn ra chơi, hắn,
hắn về chưa cô?
Ngạc nhiên, té ra cái người "thấy mà
ghét " hành hạ con chó nhỏ lại đang đứng trước mặt. Rất máy móc,
tôi chạy vô gọi anh Nghiêu Đề ra mà "chịu trách nhiệm".
Thời gian đó Lâm Triết tá túc nhà
chúng tôi ở cư xá Thanh Đa. Anh gốc người Bình Định, rất thân với NĐ Sơn. Cả ba
ông mày mày, tau tau mừng rỡ với một giọng phải nói là "
la làng" của ông khách lạ. Việc đầu tiên tôi làm là lấy ngay máy sấy tóc
hong khô cho chú chó nhỏ đáng thương và tội nghiệp của ông Sư. Nó rúc vào cánh
tay tôi trìu mến như một lời cảm ơn ấm áp.
Trước khi sửa soạn cho bữa ăn tối, ngập ngừng
tôi hỏi nhỏ Nghiêu Đề về mặn, về chay. Ông át hết giọng mọi người dù tôi
cũng đang nói rất khẽ :
- Trước tiên, đừng gọi tui bằng Sư bằng
Thầy, tui đây, Nguyễn Đức Sơn, thằng phải vô chùa nằm vì trốn quân dịch,
có vợ với con rất đông, sống trong chùa nhưng toàn ăn mặn với thịt,
cá, và nước mắm...
Ông " bắn" ra một tràng chữ
nghĩa làm tôi bối rối, chỉ Lâm Triết và Nghiêu Đề hiểu chuyện, cười rất
thản nhiên. Riêng tôi đã thấy rất ngại ngùng, nhủ với lòng chắc phải e dè với
lối nói năng bạt mạng của người khách mới.
Nguyễn Đức Sơn, cái tên vừa lạ lại
vừa quen. Quen vì đâu đó trong những chuyện trò, thiên hạ hay nhắc
đến, lạ vì tôi chưa hề bao giờ đọc thơ anh.
Thời trung học, tôi mê mải với những tác
phẩm được dịch từ nhiều ngôn ngữ trong tủ sách của ông anh trên căn gác xép.
Tôi đã đọc hết không chừa cuốn nào một cách say mê. Thẩm thấu được
những chữ nghĩa đẹp ngời của văn chương hay đã bị " tẩu hoả nhập ma"
bởi làm dáng thì tôi không biết, nhưng nhất định cứ phải là Tagore, Kahlil
Gibran, hay Hermann Hesse...Tôi mê sách cho đến nỗi khi bị Ba Mẹ chống đối chuyện
nhân duyên của tôi với anh Nghiêu Đề, bị doạ đuổi ra khỏi nhà hay đăng báo
" từ con" ... Mọi biện pháp
đều đã không cách gì thành công, và trước khi Ba Mẹ tôi nhân nhượng, anh tôi, bằng một giọng trang trọng hỏi: "Giang hãy cho anh biết nguyên do nào đúng nghĩa nhất..." Có hay không một nguyên do đúng nghĩa? Vậy thì chỉ có Trời mới hiểu chứ sao lại là tôi? Nhưng rất nhanh trí, tôi nhớ ra anh mình mê sách, lí nhí tôi trả lời: " Vì nhà Nghiêu Đề có một tủ sách rất bự " Cái nguyên do vớ vẩn và ngớ ngẩn lại rất lạc đề khiến anh tôi đập bàn hét : " Vậy mày phải đi mà lấy cái ông Khai Trí hay Xuân Thu..."Chữ " ‘mày' lần đầu tiên anh dùng để xưng hô với cô em nhỏ đã làm tôi hiểu đến nơi đến chốn mức độ giận dữ của anh mình.
đều đã không cách gì thành công, và trước khi Ba Mẹ tôi nhân nhượng, anh tôi, bằng một giọng trang trọng hỏi: "Giang hãy cho anh biết nguyên do nào đúng nghĩa nhất..." Có hay không một nguyên do đúng nghĩa? Vậy thì chỉ có Trời mới hiểu chứ sao lại là tôi? Nhưng rất nhanh trí, tôi nhớ ra anh mình mê sách, lí nhí tôi trả lời: " Vì nhà Nghiêu Đề có một tủ sách rất bự " Cái nguyên do vớ vẩn và ngớ ngẩn lại rất lạc đề khiến anh tôi đập bàn hét : " Vậy mày phải đi mà lấy cái ông Khai Trí hay Xuân Thu..."Chữ " ‘mày' lần đầu tiên anh dùng để xưng hô với cô em nhỏ đã làm tôi hiểu đến nơi đến chốn mức độ giận dữ của anh mình.
Vậy đó, mê thơ Tagore nên còn rất hời
hợt, lạ lẫm với thơ NĐ Sơn, và tôi vẫn chưa vội đọc dù hôm đó anh
đã đề tặng cuốn "Tịnh Khẩu".
Sau này, đâu đó trong một tạp chí nào
tôi không nhớ, bỗng thấy thích một chút thơ của anh:
"...Mẹ con muôn
kiếp nào ngờ
Đời Cha mạnh khoẻ
cũng nhờ rong chơi..."
Lần duy nhất tôi được gặp chị
Phượng, đi cùng anh NĐ Sơn tay dắt chiếc xe đạp xẹp bánh. Nghiêu Đề và tôi
ngồi bên lề đường, chờ vá xe cùng anh chị. Trong ánh mắt chị ẩn chứa những
buồn bã cùng sự chịu đựng vô bờ ...
Lóng lánh trong thơ của các Thi Sĩ là
những bà Tú Xương. (sao nhiều bà Tú Xương vậy?)
Câu
hỏi này cũng làm tôi nhớ bài thơ Trần Tuấn Kiệt tặng Nghiêu Đề :
"....Ta ngồi hát
nghêu ngao
Ba mươi năm rồi đó
Chỉ thấy một vì sao
Thôi tối rồi, đi ngủ
Trong mộng, ước gặp
mày
Gặp nhau nói mấy lời
Ngủ xong rồi vui
chơi..."
(Trần
Tuấn Kiệt)
Sau 1975 Việt Cộng bầy ra cái " Hội
Văn Nghệ ", trụ sở này đặt ở ngã tư Hiền Vương và Trương Minh Giảng. Nơi đó, mỗi
tuần các vị Văn Nghệ Sĩ thời VN Cộng Hoà phải tới trình diện. Nhưng với
thói lè phè cố hữu, nơi đây chỉ là chỗ để tụ tập, cafe và tán dóc. Tiền
bạc không có, mua một ly cafe mà xin thêm năm bình trà để có cớ ngồi
từ sáng đến trưa...
Khoảng chừng mười hai giờ, Hồ Thành Đức gõ
leng keng chiếc muỗng lên cái nắp nhôm của bình trà, rồi rất hài hước anh réo
bằng giọng Quảng Nam, kéo lê thê, nặng nề: "Tan hàng , tan hàng, về thôi
bay !" .
NĐ Sơn không thường lui tới Hội Văn
Nghệ, nhưng khi đã tới anh đều làm anh em ngạc nhiên với quần áo, giầy và
đầu tóc chỉnh tề, một điều không từng có trước 1975. Anh ngồi đó lầm
bầm chửi bóng chửi gió, nói ra những sự thật mà ít ai dám đề cập đến. Anh chửi
hết từ phường khóm tới lãnh đạo... Thiên hạ nhát gan, không ai dám ngồi chung
bàn vi sợ tai bay vạ gió, sợ những kẻ tiểu nhân "thừa bóng đêm quăng lựu đạn ". Anh ngồi đó một
mình, không cafe, không trà đá, chửi thề chán rồi bỏ về.
Cũng có lần ai đó thắc mắc : «Tới đây mà
xiêm y lộng lẫy chi vậy cha? " Da anh xạm nắng nên không chút ánh sắc nào
còn có thể nhuộm lên nét mặt, nhưng qua câu trả lời đầy giận dữ của
anh, tôi thấy ra mặt anh đang đỏ bừng như lửa. : "Tau không muốn lộn, tau
không muốn lộn ".
Câu nói ngắn, rất ngắn của NĐ Sơn đã làm
tôi nhìn ra những điều bất mãn, căm hận nhưng với nhiều khí tiết của anh. Từ
năm 1979, NĐS mang hết gia đình anh lên Bảo Lộc, Phương Bối.
Nơi anh sống hoàn toàn biệt lập, bất hợp tác với xã hội dưới mọi hình thức.
Sống tự túc với
khoai sắn, nấm và rau củ do mình trồng ra. Một hình thức chống lại chế độ một
cách tuyệt vời
của anh.
Bài Nobel Lectures dài, rất dài của
Solzhenitsyn, với tôi đã cùng chung một ý nghĩa.
Tôi đang đọc thơ anh. Đọc chỉ để
ngậm ngùi, đọc để ước ao nếu có một lần gặp lại, được ngồi với anh trong
những bữa cơm cùng Nghiêu Đề, Lâm Triết, nghe anh nói cười bạt mạng và chửi thề
vung vãi...
"...Trăm năm
bóng lửng qua thềm
Nhớ nhung gì buổi
chiều êm, biến rồi..."
( NĐ Sơn)
LE
CHIỀU GIANG
( June 2020 )
No comments:
Post a Comment