Phan
Tấn Hải
Trong Thế Vận 1968 ở Mexico City, trên bục nhận huy
chương,
từ trái: Peter Norman, Tommie Smith vàJohn Carlos.
Cả 3 người mang nơi ngực trái huy hiệu Dự Án Thế Vận Vì
Nhân Quyền,
đòi bình đẳng sắc tộc. Hai lực sĩ da đen đi chân trần,
đưa tay chào kiểu Sức Mạnh Đen.
(Bài này bản gốc viết
bằng tiếng Ý của nhà văn Riccardo Gazzaniga
trên báo griotmag.com
ngày10/10/2015, được Alexa Combs Dieffenbach
dịch sang tiếng Anh,
và Phan Tấn Hải dịch sang tiếng Việt.)
Đôi khi hình ảnh lừa gạt người xem. Thí dụ,
như tấm ảnh này (Hình 1). Hai vận động viên da đen John Carlos và Tommie Smith
đứng cúi đầu, đưa một tay lên cao, vào ngày họ lãnh huy chương chạy 200 mét tại
Thế Vận Mùa Hè 1968 ở thành phố Mexico City, và tấm ảnh này đã lừa gạt tôi
trong thời gian
dài.
Tôi luôn luôn nhìn tấm ảnh đó như một hình
ảnh mạnh mẽ của hai người đàn ông da đen, chân trần, với đầu cúi xuống, các bàn
tay mang găng đen đưa cao lên trong khi nhạc trổi lên quốc ca Hoa Kỳ, bản “The Star-Spangled
Banner.” Đó là một cử chỉ biểu tượng mạnh mẽ -- đấu tranh vì dân quyền cho người
Mỹ gốc Phi trong một năm mà các thảm kịch xảy ra, trong đó có cái chết của
Martin Luther King và Bobby
Kennedy.
Đó là tấm hình lịch sử của 2 người đàn
ông da màu. Do vậy, tôi chưa bao giờ thực sự chú ý tới người đàn ông kia, da trắng,
giống tôi, bất động nơi bậc thứ nhì của bục nhận giải thưởng đó. Tôi xem người
kia như một hiện diện tình cờ, phụ thêm trong khoảnh khắc của Carlos và Smith,
hay là một kiểu như người chen vào. Thực sự, tôi còn đã nghĩ rằng người đó ---
trông như dường chỉ là một người Anh quốc cười gượng --- trong kiểu đứng bất động
lạnh lẽo như đại diện cho các ý chí muốn chống lại sự thay đổi mà Smith và
Carlos đang đưa lên trong hành động phản đối lặng lẽ. Nhưng tôi đã nhầm.
Nhờ
một bài báo cũ của Gianni Mura, hôm nay tôi khám phá ra sự thực: rằng người đàn
ông da trắng trong
tấm ảnh đó, có lẽ, là vị anh hùng thứ ba trong đêm đó của năm 1968. Tên vận động
viên đó là Peter
Norman, một lực sĩ Úc chạy kỳ thi chung kết 200 mét sau khi chạy đường bán kết
với thời lượng tuyệt
vời 20.22 giây đồng hồ. Chỉ có 2 người Mỹ, tên là Tommie “The Jet” Smith và
John Carlos, đã chạy nhanh
hơn với tốc độ, theo thứ tự là 20.14 và 20.12 giây đồng hồ.
Như dường rằng chiến thắng sẽ được quyết
định giữa 2 người Mỹ. Norman là một vận động viên chạy vô danh, người như dường
vừa mới chạy cho nóng người. Vài năm sau, John Carlos nói rằng anh được hỏi về
những gì đã xảy ra cho người lực sĩ da trắng nhỏ con đó --- đứng cao chỉ 5’6”(=
1.68 mét) và chạy cũng nhanh như anh và Smith, cả hai đều cao hơn ở mức 6’2”
(1.8796 meters).
Tới khi chạy tuyến chung kết, kẻ bên lề
có tên là Peter Norman đã chạy nhanh kỷ lục, tốc độ là 20.06 giây đồng hồ,
nhanh nhất đối với bản thân và vẫn là kỷ lục nhanh với Úc châu tới giờ, 47 năm
sau (bài này viết năm 2015).
Tượng đài xây năm 2003 ở khuôn viên đại học San Jose
State University,
chỉ có 2 lực sĩ da đen chân trần. Vị trí của Norman được
bỏ trống để khách tới
có thể đứng vào chỗ trống để chụp hình, vì chính nghĩa
bình đẳng.
Nhưng
kỷ lục đó vẫn chưa đủ, vì Tommie Smith thực sự là “The Jet” (phi cơ phản lực)
và Smith vượt hơn kỷ lục Úc châu của Norman với một kỷ lục thế giới. Ngắn gọn, đó là một cuộc thi chạy
tuyệt vời.Nhưng
cuộc thi chạy đó sẽ không bao giờ được ghi nhớ như chuyện xảy ra tại lễ trao
huy chương.
Không
lâu sau cuộc thi chạy là người ta thấy một chuyện lớn chưa từng có đã xảy ra
trên bục lãnh huy chương.
Smith và Carlos quyết định rằng họ muốn cho toàn thế giới thấy cách họ đấu
tranh cho nhân quyền,
và cho tiếng nói là truyền bá khắp các lực sĩ.
Norman là người da trắng từ Úc châu, một
quốc gia có luật phân biệt chủng tộc gay gắt (apartheid laws), gần nghiêm khắc
như ở Nam Phi. Đã có căng thẳng và biểu tình trên đường phố Úc châu sau khi có
hạn chế nặng nề việc đón nhận người da màu nhập cư và về luật kỳ thị chống lại
dân nguyên trú, một số trong đó bao gồm việc cưỡng bách trẻ em nguyên trú đưa
làm con nuôi trong các gia đình da trắng.
Hai
vận động viên Mỹ đã hỏi Norman rằng anh có tin vào nhân quyền hay không. Norman
trả lời rằng anh
tin. Họ hỏi Norman tiếp rằng anh có tin vào Thượng Đế không, và anh, người trước
đó hoạt động trong
tổ chức Salvation Army (Đạo Binh Cứu Rỗi), nói rằng anh tin mãnh mẽ vào Thượng
Đế. John Carlos nhớ lại rằng, “Chúng tôi biết ngay rằng chúng tôi sắp làm một
hành động vĩ đại hơn bất kỳ thành tích lực sĩ nào, và anh ta [Norman] nói, ‘Tôi
sẽ đứng với 2 bạn’ – Tôi dự kiến sẽ nhìn thấy nỗi sợ trong mắt Norman, nhưng
thay vào đó chúng tôi nhìn thấy sự thương yêu.”
Smith và Carlos trước đó đã quyết định đứng
trên bục giải thưởng trong khi mang huy hiệu của Olympic Project for Human
Rights (Dự Án Thế Vận Vì Nhân Quyền), một phong trào của các lực sĩ hỗ trợ cuộc
chiến đòi bình đẳng [màu da].
Họ sẽ lãnh huy chương trong khi để chân
trần, biểu tượng sự đói nghèo vây quanh người da màu. Họ sẽ mang găng tay đen nổi
tiếng, biểu tượng cho chính nghĩa của nhóm Black Panthers (Báo Đen). Nhưng trước
khi bước lên bục huy chương, họ nhận ra họ chỉ có một cặp găng tay đen. Norman
mới nói, “Mỗi người một chiếc [găng].” Smith và Carlos đón nhận lời khuyên đó.
Nhưng rồi Norman làm một chuyện khác.
Norman vừa chỉ vào huy hiệu Olympic Project for Human Rights
trên ngực 2 lực sĩ Mỹ vừa hỏi, “Tôi tin vào điều hai bạn tin. Bạn còn có một
huy hiệu nào cho tôi không?
Như thế tôi có thể bày tỏ sự ủng hộ của tôi đối với chính nghĩa của hai bạn.”
Smith thú nhận là lúc
đó kinh ngạc, nghĩ rằng, “Thằng cha da trắng Úc châu này là ai vậy? Nó thắng
huy chương bạc, nó không
thể thấy nó chỉ cầm huy chương và thế là đủ sao!”
Smith trả lời rằng anh không có dư huy
hiệu, cũng vì anh sẽ không bị từ chối huy hiệu của anh. Lúc đó có một lực sĩ da
trắng Hoa Kỳ bên cuộc thi chèo thuyền, tên là Paul Hoffman, một nhà hoạt động
cho phong trào Olympic Project for Human Rights. Sau khi nghe được, Hoffman
không do dự, nghĩ ngay: “Nếu một người Úc da trắng hỏi xin tôi huy hiệu Olympic
Project for Human Rights, thì Chúa ơi anh ta sẽ có. Tôi sẽ tặng anh này cái duy
nhất tôi có: cái của tôi.”
Ba lực sĩ bước ra sân và bước lên bục huy
chương: phần còn lại là lịch sử, được giữ lại nhờ sức mạnh tấm hình chụp lại
(huy hiệu nhìn thấy trong hình là vòng tròn nền trắng có khắc chữ và hình đeo
nơi ngực trái ba lực sĩ). Norman kể lại, “Tôi không có thể nhìn thấy chuyện xảy
ra, nhưng tôi đã biết trước rằng
ba người chúng tôi đều theo đúng kế hoạch khi một giọng trong đám đông cất tiếng
hát bản quốc ca
Hoa Kỳ nhưng rồi giọng hát dịu xuống, dứt bặt. Cả sân vận động lặng im như tờ.”
Trướng phái đoàn Thế Vận Hoa Kỳ thể là
các lực sĩ này sẽ phải trả giá trọn đời họ vì cử chỉ đó, một cử chỉ ông nghĩ là
không liên hệ gì tới thể thao. Smith và Carlos tức khắc bị ngưng trong phái
đoàn Thế Vận Hoa Kỳ và bị trục xuất ra khỏi Làng thế Vận, trong khi lực sĩ đua
thuyền Hoffman bị cáo buộc tội âm mưu.
Khi về Mỹ, hai người đàn ông chạy nhanh
hàng đầu thế giới bị truy bức nặng nề và bị hăm dọa ám sát. Nhưng với thời
gian, trong tận cùng, đã chứng minh rằng họ đã làm điều phải và họ trở thành
các nhà vô địch trong cuộc chiến vì nhân quyên. Với hình ảnh được hồi phục, họ
đã hợp tác với hội Vận Động Viên Hoa Kỳ, và một bức tượng của họ được dựng lên
trong khuôn viên đại học San Jose State University.
Nhưng Peter Norman vắng mặt trong tượng
đài này. Việc Norman vắng mặt [trên tượng đài] trông như bia mộ của một anh
hùng mà không ai từng ghi nhận. Một lực sĩ bị bỏ quên, bị xóa khỏi lịch sử,
ngay cả tại Úc châu, nơi đất nước của anh.
Sau đó 4 năm, tại Thế Vận Mùa Hè 1972 tổ
chức tại Munich, Đức quốc, Norman không được cho vào đội lực sĩ chạy điền kinh
của Úc, bất kể anh từng chạy đủ điều kiện 13 lần cuộc thi chạy 200 mét và 4 lần
cuộc thi chạy 100 mét.
Norman đã rời bỏ sự nghiệp lực sĩ chạy
thi sau nỗi thất vọng này, chỉ tiếp tục chạy ở mức độ tài tử. Trở
về trong một nước Úc bảo thủ và bị tẩy trắng, Norman bị xem như kể ngoài lề,
gia đình anh bị xem như
mạt hạng, và việc làm không thể tìm được. Có một lúc, Norman làm việc như một
thầy dạy thể dục trong
phòng gym, tiếp tục cuộc chiến chống bất bình đẳng trong cương vị người hoạt động
nghiệp đoàn, và
thỉnh thoảng làm việc trong một tiệm chặt thịt. Thế rồi Norman bị một vết
thương, gây ra nhiễm trùng
hoại cơ, dẫn tới việc anh trầm cảm và nghiện rượu.
Như lời John Carlos, “Trong khi chúng
tôi bị bầm dập, thì Peter Norman đối mặt với cả đất nước của anh và đơn độc đau
khổ.” Trong nhiều năm, Norman chỉ có một cơ hội duy nhất để tự cứu: Norman được khuyến
dụ là hãy lên án hành vi của hai lực sĩ kia, John Carlos và Tommie Smith, để bù
lại Norman sẽ được
hệ thống này ân xá, miễn truy bức.
Việc ân xá sẽ có thể cho Norman tìm được
việc làm ổn định nhờ tổ chức Ủy Ban Thế Vận Úc Châu và sẽ được là một phần tử
trong tổ chức Thế Vận 2000 Sydney (2000 Sydney Olympic Games). Nhưng Norman không
bao giờ ân hận, và không bao giờ lên án sự lựa chọn của 2 lực sĩ Mỹ kia.
Norman là lực sĩ Úc chạy nhanh nhất trong
lịch sử và vẫn là người giữ kỷ lục 200 mét, nhưng Norman không được mời vào Thế
Vận ở Sydney. Chính lúc đó, Ủy Ban Thế Vận Hoa Kỳ khi biết chuyện đã mời Norman
tham dự trong nhóm của họ và đã mời Norman dự tiệc sinh nhật nhà vô địch Thế Vận
Michael Johnson, người đã ngưỡng mộ Peter Norman như là một anh hùng và là mô
hình gương mẫu.
Peter Norman từ trần tháng 10/2006 vì bệnh tim.
Hai bạn lực sĩ da đen từ Hoa Kỳ sang Úc khiêng quan tài từ
biệt.
Peter
Norman đột tử vì bệnh tim trong năm 2006, mà không hề được đất nước của anh xin
lỗi vì đã xử tệ
bạc với anh. Trong tang lễ của anh, Tommie Smith và John Carlos, những người bạn
của Norman kể từ khoảnh khắc đó của năm 1968, là hai người khiêng quan tài cho
anh, đưa tiễn anh như một anh hùng. John
Carlos nói, “Peter Norman là một chiến sĩ cô đơn. Một cách ý thức, anh đã tự lựa
chọn làm con cừu hiến
tế trong khi nhân danh nhân quyền. Không có ai khác hơn anh xứng đáng để Úc
châu nên vinh danh,
công nhận và biết ơn.”
Tommie Smith nói, “Norman đã trả giá với
lựa chọn của anh. Đó không chỉ là một cử chỉ đơn giản để giúp
chúng tôi, đó là cuộc chiến CỦA ANH TA. Anh ta là một người da trắng, một người
đàn ông da trắng Úc
Châu giữa hai người đàn ông da màu, đứng thẳng trong khoảnh khắc chiến thắng
đó, tất cả [ba người]
đều nhân danh cùng một chính nghĩa.”
Tình bạn lực sĩ vượt qua màu da ở Làng Thế Vận 1968.
Chỉ tới năm 2012, Hạ Viện Úc Châu chấp
thuận một bản văn chính thức xin lỗi Peter Norman và ghi tên anh trở lại vào lịch
sử với nội dung Hạ Viện:
“Công nhận thành quả thể thao xuất sắc của
cố vận động viên Peter Norman, người thắng huy chương bạc trong cuộc thi chạy
200 mét tại Thế Vận 1968 ở Mexico City, với thời lượng 20.06 giây đồng hồ, vẫn còn
là một kỷ lục Úc Châu.
“Công nhận lòng can đảm của Peter Norman
khi mang huy hiệu Olympic Project for Human Rights lúc đứng trên bục huy chương,
trong đoàn kết với các lực sĩ Mỹ gốc Phi Tommie Smith và John Carlos, những
người đã bày tỏ hình thức chào ‘sức mạnh da đen’.
“Xin lỗi Peter Norman vì những sai trái
Úc Châu đối xử khi gạt tên ông ra ngoài Thế Vận 1972 Munich, bất kể ông liên tục
đủ điều kiện thể thao; và tuy chậm trễ, nay công nhận vai trò mãnh liệt mà
Peter Norman đã thực hiện trong việc đòi hỏi bình đẳng sắc tộc.”
Tuy nhiên, có lẽ, những chữ nhắc chúng
ta về Peter Norman đầy đủ nhất là chính lời anh khi mô tả lý do anh làm như thế,
trong phim tài liệu nhan đề “Salute,” được viết, đạo diễn và sản xuất bởi cháu
trai của anh là Matt.
“Tôi không có thể nhìn thấy vì sao một
người da đen không có thể uống cùng nước từ một vòi nước, đi cùng một xe buýt
hay vào học cùng trường như một người da trắng. Có một sự bất công xã hội mà
tôi không
có thể làm bất cứ gì từ nơi tôi ở, nhưng tôi hẳn nhiên là ghét bất công đó. Người
ta nói rằng khi chia
sẻ huy chương bạc của tôi trong sự kiện đó trên bục chiến thắng đó đã làm cho thành
quả của tôi trật
hướng. Ngược lại. Tôi phải thú nhận, rằng tôi khá là hãnh diện khi là một phần
của nó.”
Khi ngay cả bây giờ, như dường cuộc chiến
vì nhân quyền và bình đẳng có vẻ bất tận, và sinh mạng vô tội đang bị giết đi,
chúng ta phải nhớ những người đã tự hy sinh, như Peter Norman, và tìm cách theo
bước của họ. Bình đẳng và công lý không phải là cuộc chiến của một cộng đồng
đơn lẻ, nó là cuộc chiến của tất cả mọi người.
Do vậy, tháng 10/2015 này, khi tôi có mặt
ở San Jose, tôi sẽ tới thăm tượng Olympic Black Power (Sức Mạnh
Đen ở Thế Vận) nơi khuôn viên đại học San Jose State University, và bục huy
chương không người đó
sẽ nhắc tôi về Peter Norman, người anh hùng can đảm chân thực nhưng đã bị bỏ
quên.
Tác
giả cập nhật ngày 13/10/2015: Tác giả viết một blog để đáp ứng với các lời bình
ông nhận được từ khi
bài viết được chia sẻ ào ạt: " Nhà Văn Trong Bài Viết Đó.”
Trang
Films For Action cập nhật ngày 18/10/2015: Trong tuần lễ từ khi chúng tôi chia
sẻ bài viết, bài tuyệt
vời này đã được hơn 4 triệu người đọc. Rõ ràng đây là mộtc âu chuyện làm rung động
một cách phổ
quát, làm thăng hoa và cho thấy mặt đẹp nhất của bản chất con người. Đã có nhiều
cuộc thảo luận về
bài này từ đó, và một trong các chủ đề là về tượng đài ở San Jose. Nơi tượng
đài này, vị trí Peter Norman
đứng bị bỏ trống, làm nhiều người kêu gọi hãy thêm tượng Norman vào. Nhưng đó lại
không phải
là điều Norman muốn. Trong cuộc phỏng vấn của Democracy Now, lực sĩ John Carlos
giải thích rằng Norman muốn chỗ anh đứng bỏ trống để bất kỳ ai tới thăm tượng sẽ
có thể đứng vào nơi đó và để chụp hình cho thấy họ đứng đoàn kết với Smith và
Carlos, y như Norman đã làm năm 1968. Peter Norman, chúng tôi chào vinh danh
anh.
(Bản văn gốc của nhà
văn Ý Riccardo Gazzaniga. Dịch sang tiếng Anh và bình luận do Alexa Combs
Dieffenbach. Phan Tấn
Hải dịch sang tiếng Việt.)
PHAN
TẤN HẢI
No comments:
Post a Comment