Phan
Ni Tấn
Tuyển tập thơ Trần Yên Hòa
‘TRẦN
YÊN HÒA hơn năm mươi lăm năm THƠ’ là tập thơ phản ánh tâm trạng của nhà thơ qua
nhiều thể loại thơ khác nhau.
Từ
một cậu học trò xuất thân trong một gia đình văn hóa xứ Quảng, Trần Yên Hòa bắt
đầu làm thơ lúc mười hai tuổi. Từ những bước đầu chập chững đến nay, sau hơn
năm mươi lăm năm làm thơ, nhà thơ nhìn lại chặng đường dài đã đi: "Cha tôi
cũng mê thơ. Ông có làm thơ đường, thơ thất ngôn bát cú và họa thơ (…). Hay mẹ
tôi, thường hát ru tôi bằng những câu ca dao thắm đượm mùi vị quê hương, tình
yêu trai gái, nên tôi thấm sâu vào lòng những âm thanh ấy, để rồi sau này tôi
yêu thơ và làm thơ…".
Phần
tự sự trên đăng trong tập thơ ‘TRẦN YÊN HÒA hơn năm mươi lăm năm THƠ’ là một phần
đời của Trần Yên Hòa được tác giả kể lại bằng thi ca.
Sáng
tạo nghệ thuật trong suốt tập thơ dầy 338 trang gồm 123 bài, Trần Yên Hòa đã
hình dung được hình tượng, phác họa ra chữ nghĩa vọng âm như một tiếng thở dài.
Bài thơ Khúc Tôi mở đầu trang thơ cho
tới bài Tạ ở cuối tập, đã là một tiếng
thở dài. Nỗi hoài vọng trong suốt Khúc
Tôi là hình ảnh quá khứ những người thân từ hồi nào đã không ở cùng tác giả
mà… ở đâu đó. Ngữ pháp u trầm nhưng rất sắc qua quan hệ tình cảm ruột rà của
tác giả là một thí dụ:
… Mẹ yêu dấu cũng trở
về với đất
đất thì im lặng tiếng,
mịt tăm
nên lời mẹ đã ngút
ngàn phơ phất
bỏ mình tôi cùng đá
cuội, lăn tăn
Cha thương nhớ cách
xa như cổ tích
mệt nhoài tôi đứng lặng,
thư phòng
nhìn quanh quất đâu dấu
hài, tịch mịch?
dấu hài em lặn mất giữa
dòng
Còn lại chị, còn lại
anh, đâu đó
không thấy ai, hú gọi
tôi về
còn lại con… con còn
đang cất vó…
hồng ân chưa cập bãi
sông mê…
Nhưng
thiết nghĩ hình ảnh cố nhân, là đối tượng Em của tác giả mới là tâm ý của bài
thơ, có điều cuối cùng cũng xa lắc từ bao giờ:
Tôi còn lại em, mà em
xa lắc
nên còn lại tôi, chỉ
một tôi thôi
vì em, biển, còn tôi,
là cát biển
lũ dã tràng kia, se,
cũng, lở, bồi
Khúc
Tôi, tr. 16
Đọc
trang tự sự của Trần Yên Hòa cho thấy người thơ cô đơn cả ngoài đời lẫn trong
thơ, vì chiến tranh, Trần Yên Hòa đã nhận rõ vị trí lính chiến của mình, xông
pha ngoài mặt trận. Do đó, bài thơ viết trên ba-lô, trên mặt đá hay bên bờ
sông, dốc núi, bìa rừng khẽ bật lên một lời xin nhỏ, dù chỉ một lần thôi:
Cho tôi được ngủ nhà
đêm nay
cho tôi ngủ nhà đêm
nay rồi mai đưa tôi đi đâu cũng được
bao nhiêu tháng bao
nhiêu năm
tôi sẽ xa thành phố
xa mái tóc em xa những đứa con yêu dấu
hãy cho tôi ngủ nhà
đêm nay
không còn gì để van
xin
sao đẩy tôi đi quá xa
như vậy quá xa như vậy
hở chiến tranh loài
người…
Lời
Xin, tr. 20
Ngoài
tình thương gia đình, có thể nói tình yêu đôi lứa trong thơ Trần Yên Hòa là một
loạt tình yêu không có màu xanh của bầu trời và biển cả. Đồng ý sức mạnh tinh
thần của người thơ tạo ra thơ, nhưng hình ảnh những người tình trong thơ đều
như gió bay đi xa lăng lắc, không để lại một vạt áo nào để người thơ rưng rưng
đề thơ. Cho nên Em có bàng bạc bay đi, bay về, qua lại từng trang thơ trữ tình,
rốt cuộc vẫn là Em… lê thê bào ảnh:
Em đến thăm anh trong
chốc lát
trời bên ngoài đổ cơn
mưa
mưa rất dầy, mù mịt
làm sao anh giữ được
em
Chốc lát em trở thành
thánh nữ
ở đâu cũng thấy em ngời
sáng
cả vườn đời anh nở rộ
những đóa hoa hồng thắm
Rồi em ra về như gió
bay
Bỗng dưng em xa lắc
Bỗng dưng em mịt mù
như cơn mưa…
Em
Xa Lắc, tr.31
Ngay
cuộc tình thứ nhất vì cơn mưa đã làm cho ủ dột:
Có lẽ rất xưa – ngày
em vào xuân
đôi má em hồng như
trái bồ quân
đôi mắt em đen như
nhung, ướt rượt
đốt cháy hồn anh cùng
nắng sân trường
Rồi thế rồi thôi lạc
mất nhau
lạc nhau đành đoạn suốt
nửa đời
lạc nhau trong giấc
chiêm bao cũ
biển loạn đời ta,
thân nổi trôi…
Bài
Trăm Năm, tr.39
Mưa
miền Trung thường dầm dề. Mưa của nhà thơ Trần Yên Hòa cũng không khác. Từ cuộc
tình thứ nhất mưa đành đoạn, mưa dầm dề, lê thê cho tới cuộc tình cuối vẫn mưa
không ngớt hột:
Em về đâu từ bao lâu
nay
Anh xa em như chim xa
bầy
Mưa bay ướt áo em
đang mặc
Đành đoạn rời đi như
đám mây
Mưa Em, tr. 326
Rón
rén lần theo những cuộc tình thơ đẹp mà buồn được miêu tả qua từng trang Rượu Tình Say, Gởi Khổ Lụy Một Đời, Tạ Tình,
Xa Người, Phượng Hề, Cô Gái Tam Kỳ Đất Khổ, Nhớ Em Khi Qua Cầu Cỏ May, Tôi Và
Em, Tình Quay Lưng, Tình Em Xa Ngái, Bài Tình Cho Diên Khánh, Thà Người Phụ Ta
v.v…, người ta cảm thương cho người thơ tội nghiệp ra sức bơi trên sóng tình
yêu hầu mong tìm nguồn hạnh phúc khổ đau. Từ bơi ngửa với cuộc tình dịu ngọt vội
xấp mặt trên dòng nước lạnh tê. Từ vòng ôm rưng rưng xiết chặt chợt hụt hẫng giữa
khung trời hiu hắt. Từ những lời thỏ thẻ của em Hiền, em Thu, qua những tiếng
cười rơi xuống của em Hoa, em Phụng, hơn nửa đời nhen nhúm mê vọng bỗng nhiên
quay ngoắt đến nỗi người lầm lỡ phải ta thán "hất anh ra phân nửa cuộc đời,
mùi tình xưa trở nên đắng nghét".
Trần
Yên Hòa với hơn năm mươi lăm năm ăn nằm cùng thơ đã trở thành một mối lợi cho sự
hình thành tập thơ gối đầu. Thế nhưng trong khi mượn thơ để thổ lộ tâm tình, lịch
sử tình yêu lại làm chứng cho cơn thất tình rực rỡ của người thơ. Nhưng không
phải lần duy nhất người tình bỏ đi mà về sau những Em Uyên, Em Phượng, Em Tam Kỳ,
Đà Lạt, Sài Gòn, Tân Định, Mỹ Tho… lần lượt trở thành Em xa lắc như tranh cổ
tích, em thiên thu đâu tận cõi ngoài, như Trần Yên Hòa thở than. Rồi em trích
tiên, em điệu, em phù thủy cũng là một cái "khổ ách" xô người thơ ra
khỏi "mái hiên đời":
Em, tình ta, mái hiên
đời nắng dịu
sao bỏ đi xa ngút tận
trời nào
Khản Cổ Gọi Tình Về
(1), tr. 68
Em ơi, đã quá xa tay
với
mù mịt người từ độ
chiến chinh
mù mịt nhau nên đành
lạc mất
Khản
Cổ Gọi Tình Về (2), tr. 70
Từ em, bỏ cội bỏ nguồn
bỏ con sông nước đứng
buồn nhìn theo
nhánh sông chảy miết
qua đèo
anh heo hút đợi, chèo
queo một mình
Khản
Cổ Gọi Tình Về (3), tr. 75
Bị
tước mất tình yêu, không thể níu lại chút mảnh vụn của thế thái nhân tình, người
thơ cay đắng mà thiệt thà biến những Em xinh tươi, lộng lẫy thành giấy bút trắng
tinh khôi, một trang vở mới (Thuở Em Là Nữ Sinh), Thiên nga bé nhỏ (Bài Tình
Năm 2000), Mùa vàng rưng hoa cúc (Lãng Mạn Thu), Con chim nhỏ (Thảng thốt tôi)…
Thậm chí, biến Sài Gòn thành em; cả con mắt cũng hóa trăng rằm "Mắt em một
thuở trời trăng rằm" (Chung Một Nhánh Sông). Lãng mạn thật nhưng cũng thật
cảm động với lời Tự Tình Cùng Đất Nước: "Vì Em cùng nghĩa với Mẹ. Cùng
nghĩa với Quê Hương, Đất Nước" (tr.63).
Mà
cũng lạ. Giữa nỗi buồn chênh vênh tưởng người thơ không toét nổi miệng cười,
người đọc bất ngờ nhận ra câu ví von khá ngộ nghĩnh về mưa. Nhà thơ xứ Quảng ra
Huế đụng phải cây mưa mà ngẫu hứng nảy sinh một ý tưởng đầy thi vị, cái thi vị
không giống với bất cứ nhà thơ nào. Nhờ sự thành tâm của tác giả khiến đặc tính
của câu thơ trong bài Huế Mưa được miêu tả theo kiểu "kích thích tính dục"
bỗng trở nên hào hứng, vuốt ve tình tứ mà trong trẻo khác thường:
tôi nghĩ mùa mưa ở Huế
nồng nàn như đêm hợp cẩn
bởi vì cái lạnh tê da
ngoài Huế cho ta cảm giác ái ân.
Huế
Mưa, tr. 23
Cái
cảm giác ái ân của người thơ Quảng Nam đâu có khác chi cái ái ân tái tê cuồng dại:
Xin ca tụng em bài
thơ mới viết
Giữa ta và say, như một
tình cờ
Ta chếnh choáng em,
mùi hương mới
Là chanh và sả buổi
mai tươi
Em đã xông em. Trong
ngày thứ bảy
Nên em thơm lừng,
hương gió bay
Nên em thơm lừng, mùi
da thịt
Anh cúi xuống vùng
em, mùi thơm ngát
Vùng em thơm rất đượm.
Tình Ơi.
Ru
Tình Tôi, tr.188
Đặc
tính trong thi pháp Trần Yên Hòa là ngữ vựng. Bài thơ dài hơi "Nhặt Khoan
Cho Ngày Sinh Nhật" gồm 64 câu, đã có 5 lần kêu Huớ, nghe ra thật ồn ào:
Huớ em tôi, những
ngày tình với Nẫu
Huớ em tôi, hãy bỏ xa
tiền kiếp
Huớ em tôi, mùa xuân
xanh lại đến
Huớ em tôi, ngày mai
anh sinh ra
Huớ em tôi, không
quay lui lại nữa
Tiếng
Huớ diễn tả niềm vui trong ngày sinh nhật của tác giả, với tôi là lạ tai. Dù vậy,
tiếng Huớ dễ thương của "dân nẫu" có phải là tiếng Bớ của người miền
Nam: Bớ người ta! Bớ làng nước ơi! Bớ em!?
Bài
"Bắt Đầu" có hai câu: Mới rợi
này em, ngày mới rợi. Bỏ đàng sau, năm tháng, cô đơn. "Mới rợi"
nghĩa là gì? Có phải là "Mới tới"?
Bài "Bờ Em": Khi tình cuốn ta trôi chấp
chới. Giữa cuồng lưu biết bíu vào dâu. "Bíu" có phải lài Níu? Chao
ôi! Ngôn ngữ của Nẫu quả là… nẫu nẹt, là lạ tai tôi.
Trần
Yên Hòa sống trọn đời, tận tụy cho nghiệp thơ. Làm thơ vì đời, vì người (nghệ
thuật vị nhân sinh). Hơn năm mươi lăm năm hướng về thế giới thơ, nghệ thuật Trần
Yên Hòa nặng nợ với những đối tượng rục rỡ, thủy chung với những hình thể chói
lòa để rồi chất chứa nỗi u sầu rã mục, dẫn lối vào không gian đơn chiếc độc thoại
với âm u. Nghĩ lại mà tội người thơ đã lầm yêu phải thứ tình yêu chớp mắt, thứ
tình yêu con bướm (đậu rồi bay đi), nó ray rứt não nề, nó ruồng rẫy biệt ly
ngay từ cuộc tình đầu tay. Ta đọc lại đoạn cuối "Bài Trăm Năm"
(tr.37):
Nửa đời ta như mưa
phơ phất
Bỗng nhặt được lòng
nhân ái từ tâm
của em, đánh rơi vào
tình thứ nhất
để ta ôm hoài đi giữa
nhân gian
Nhân
gian ở đây rõ ràng không bình thường như người bình thường sống giữa đời thường
mà nhân gian của người thơ là lai láng "sông mê" không bờ bến. Con
sông mê muội chảy ngược xuôi giữa hồn đời sắc sắc, không không rồi thấm vào Bát
Nhã. Người thơ thất tình lục dục lúc bấy giờ hốt nhiên đốn ngộ, dứt bỏ hết khổ
ách (năng trừ nhất thiết khổ), biến thành "sa di" gánh cái chân tình
tự ngã lững thững đi vào trang Tự kinh:
Thầm thì, thầm thì, rậm
rịt
Tiếng cầu kinh trong
đêm thâu
Ba la mật đa yết đế
Hãy quên cuộc sống
nát nhầu
Đã qua bên bờ bỉ ngạn
Lời kinh chảy suốt
qua tâm
Gió ngoài hiên tuôn
thốc tháo
Dội qua tiếng kệ âm
thầm
Ba la mật đa thời
Quên giọt máu bầm năm
tháng
Quên hết những trò
gian lận
Trở về gốc cội nghỉ
ngơi
Thầm thì, thầm thì,
tiếng mõ
Ngũ uẩn phút giây cuồng
nộ
Hãy quên, hãy quên,
hãy quên
Nằm kề trang kinh bát
nhã.
Mang
âm hưởng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh của Phật Giáo Đại Thừa trải qua từ bảy
thế kỷ đến nay, bài "Tự Kinh" (tr. 229) của Trần Yên Hòa với thi
phong an nhiên tự tại thấm thía một đạo lý thâm hậu.
PHAN
NI TẤN
No comments:
Post a Comment