Tô Thẩm
Huy
NXT
mù sương Đà Lạt.1965
Đinh
Cường ghi lại theo trí nhớ một thời. 2011
Hò hẹn với đất trời
từ vạt nắng Đông Tây đến áng mây kim cổ, nhưng lòng Nguyễn Quân
gắn bó với quê
hương Việt Nam của ông, chi chút từng bát canh rau đến cánh trà hoang dại.
Hồn thơ ấy không có tuổi.
Có lúc nó già như hòn đá cổ nằm phơi
nắng chiều trước hiên nhà ông Tô Đông Pha, ngậm ngùi nhìn chuyện hỷ nộ ai lạc trôi
qua trước mắt mà thương xót con người: Môn tiền cổ kiệt ngoạ tà dương, Duyệt
thế như lưu sự khả thương.
Lại có lúc nó trẻ như vầng trăng non.
Xin mời đọc bài thơ ông viết khi đi qua
Nghệ Tĩnh năm 1980, sau 5 năm tù tội:
Thảo Nguyên
mùa hạ.
ta qua vùng thảo nguyên
gió
thổi. chiều xanh trôi với nắng
khoảnh
khắc. vầng trăng bạc nhú lên
cánh
chim theo trăng vào trời rộng
nhà ai.
đèn lồng soi trước hiên
nhủ
thầm. nhà ta sau hàng phượng
ta đi
năm năm qua thảo nguyên
cảm ơn
phút giây đời giao hưởng
Giá như mà Đỗ Phủ đi tù cùng
ông Nguyễn, thể nào ông Đỗ cũng viết những vần thơ như thế. Nhưng khoan đã, xin thư thả đọc tiếp, bài thơ
còn dài:
mùa hạ,
ta qua vùng thảo nguyên
bước
nhẹ tênh. quên thời khổ hạnh
mê con
chuồn chuồn đỏ bay ngang
thương
bầy dê con trên đồi vắng
gặp trẻ
chăn bò đi hát rong
gặp ấu
thơ ta. mùa hạ sáng
đời
trôi đi. tưởng đời lặng câm
bỗng
tiếng đàn ai trong gió thoảng
Ông đi tù cực khổ, đoạ đày
đến là vậy, sao lại còn tâm trí để ngắm nhìn bầy dê đang gặm cỏ trên đồi, để
thấy con chuồn chuồn đang bay ngang màu đỏ, để nghe tiếng đàn thoảng bay trong
gió? Ông Đỗ Phủ ơi, ông Đỗ Phủ ơi, ông
có nghe?
hỡi bé
lang thang vùng thảo nguyên
như ta
ngày xưa. thời thơ dại
áo vắt
vai. đi qua rừng sim
lội
trong cỏ may ngập đầu gối
biển cỏ
mênh mông. sóng dập dờn
hò ơi.
dong thuyền về bến đợi
cho ta
theo nhé. về đêm nay
đêm
trong nhà xưa. đêm mát rợi
xin bát
canh rau. ăn rất hiền
chong
ngọn đèn dầu. mẹ dệt vải
đọc
chuyện thạch sanh. lòng hân hoan
có khi
mơ được làm thằng cuội
trong
giấc ngủ mơ không thấy tiên
chỉ
thấy vườn xưa. cây chĩu trái
tan mơ.
mở cửa ra nhìn sao
muôn
ánh sao mờ. dòng lệ chảy
đêm
khuya. rì rào trong cây xanh
nghe
bên láng giềng gà tre gáy
sáng
mai. ta bước ra ngoài sân
nhìn
quanh hiên. rụng đầy hoa bưởi
Thạch
Sanh chém chằng? Tôi đọc thơ ông mà giật mình nghe dạt dào tình
tự non sông dâng lên tràn khoé mắt, nghe lung linh ánh đèn trong kho tàng cổ
tích của dân gian giòng giống, nghe vang vọng lời ca thuở thiếu thời thơm ngát
hương hoa bưởi: Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to… Và nghe thấy tự tấc lòng mình tuổi thơ Việt
Nam đẹp như đất trời, cỏ cây, hoa lá. Tung
tăng hân hoan như cuộc đời nhẽ ra như thế:
năm
năm. ta qua miền thảo nguyên
đến
nay. vang vang mùa hạ gọi
mùa hạ
cùng ta phơi áo biếc
bên
hàng dâu rũ lá mong manh
mùa hạ
cùng ta đi hài đỏ
qua cầu
tơ liễu. nắng vàng trong
mùa hạ
cùng ta che nón rộng
xuống
đầm nước lục bơi thuyền sen
mùa hạ
cùng ta thổi sáo trúc
diều ai
lơ lửng mấy tuần trăng
mùa hạ
theo ta vào nương bãi
chặt
cụm mây vàng. hái mật ong
mùa hạ
theo ta ra đầu núi
nhìn
quanh. từng vạt khói bềnh bồng
Và nghe thấy tiếng giông
gió, bão tố mà lịch sử ác nghiệt đang gùn ghè trên đầu dân tộc đầy bất hạnh này:
năm
năm. ta qua vùng thảo nguyên
nghe mơ
hồ ngôi sao biếc gọi
cha đã
đi qua vùng thảo nguyên
gió mùa
xưa chuyển cơn giông lớn
vang
thiên thu chớp bể mưa nguồn
…đám
lưu dân qua vùng châu thổ
chẳng
tìm đâu thấy một xóm làng
thảo
nguyên. tàn khuya không ánh lửa
trời
mịt mùng. muông thú kêu hoang
…những
năm ấy trời làm đói khổ
kẻ
sống. người chết. đều trơ xương
lại
thêm khắp bốn bề giặc giã
muôn
oan hồn không chốn nương thân
phất
phơ nơi đầu sông cuối bến
ngày
gầy xơ. lất phất mưa phùn
đường
bạch dương. chiều. không quán trọ
hành
nhân. hành nhân. đêm thu phân
Hành
nhân. Hành nhân. Đêm thu phân.
Đêm thu phân? Đêm mà cái trục
quay của trái tinh cầu này thẳng góc với đường quỹ đạo, đêm của công bằng giữa
ngày và đêm, của công lý, của lương tri con người, mà hà cớ sao muông thú lại phải
kêu hoang? Sao kẻ sống người chết lại trơ xương? Sao ngày thì gầy xơ mà đường chiều không quán
trọ? Hành nhân, hành nhân, ngươi đi đâu
giữa sa mạc trần gian trong đêm tối?
từ đó
chung quanh đời bặt tin
chuông
chùa tây phương không vọng lại
Chuông
chùa không vọng lại. Trong cùng đường không thấy ngày về, kẻ
hành nhân là tù nhân ấy vẫn ân cần ngọt ngào gửi lời nhắn nhủ, rằng em ơi, một
ngày kia em có qua vùng thảo nguyên này tìm ta như thể đi tìm những tinh tế của
hồn thiêng sông núi, của qua đình ngả nón, của gừng cay, muối mặn, quế nồng,
của qua cầu áo bay, thì em nhé đừng quên cất bước vào trong rừng hỏi thăm bác
tiều phu, chú chăn ngan, anh chăn vịt, hỏi thăm con nai con hoẵng, thăm giọt
nắng trên cành bạch dương, thăm giọt sương trên từng cánh lá, vì em ơi, trong mỗi
giọt sương, trên mỗi cánh lá, đều có lòng ta gửi gấm, có lời ta nhắn nhủ em, nhắn
gửi con, để giòng suối khi tiếp nối với giòng sông tuôn chảy về biển cả, sẽ phải
tươi đẹp như bình minh đang đến.
mai mốt
em qua vùng thảo nguyên
tìm
nhau. trăng đã về động cổ
tìm
nhau. tìm nhặt chiếc khăn rơi
tìm
nhau. khi qua đình ngả nón
tìm
nhau. khi qua cầu áo bay
tìm
nhau. đến phai hương tàn lửa
vị quế
nồng. nghĩa nặng tình sâu
thì em
nhé vào ngàn thăm hỏi
lão
tiều phu. đốt bãi cháy bờ
gã chăn
ngan. kêu ngoài lau sậy
hỏi
thăm từ con hươu con nai
hỏi
thăm giọt mưa và ngọn lá
bởi có
ta. trong mỗi hạt sương
có ta.
trong từng tia nắng rọi
lời ta
trong câu hát dân gian
kể lể
chuyện buồn vui sớm tối
em gom
về trao lại cho con
mai sau
sông nối xa đời suối
chuyện
của người là chuyện dòng sông
bình
minh đến mở tung cửa biển
ta đi
năm năm qua thảo nguyên
(Nghệ
Tĩnh, 1980)
Thảo
Nguyên là một bài thơ lớn. Lòng
của Nguyễn Quân là lòng của dòng sông ngọt ngào tuôn chảy, ôm ấp núi đồi, vỗ về
thảo nguyên, chan hoà cửa biển. Tấm lòng
ấy hiền lành mà bao la, tươi đẹp dường nào! Có ta trong từng tia nắng rọi,
lời ta trong câu hát dân gian. Lời
ông trong câu hát dân gian? Ông đi tù là đi mọt gông, sau năm năm này là mấy
cái năm năm nữa nào ai biết. Thế ông có
nhắn gửi điều gì với cuộc đời ngoài kia?
Thưa: Ông gửi hồn mình vào hồn thiêng sông núi. Lời nhắn gửi không gì khác hơn là lời tình tự
dân tộc. Lời thơ ông gửi lại cho mọi
người là những câu hát dân gian, kể lể chuyện buồn vui sớm tối. Khiêm nhượng đến là thế. Mà cao đẹp đến là thế. Chữ nghĩa trong thơ ông long lanh mầu sắc,
dạt dào âm điệu. Thử đọc lại mấy
câu: Mùa hạ cùng ta phơi áo biếc, qua
cầu tơ liễu nắng vàng trong, Mùa hạ cùng ta che nón rộng, xuống đầm nước lục
bơi thuyền sen. Thơ như thế đã đến
mức thượng thừa. Nó đứng thẳng một cách
tự nhiên, chẳng cần dựa vào niêm luật có sẵn, mà vẫn trầm bổng trong cung bậc
riêng biệt. Nó gạt bỏ mọi phấn son, diêm
dúa. Chân thật, đẹp đẽ, tươi thắm, ấm
lòng, thơ đến tự đáy lòng thường như thế, ngay cả trong những lúc muộn phiền. Những ai, trong những lúc buồn chán chuyện
đời, nhân tình thế cuộc, hay điêu linh vận nước, nên đem bài thơ Thảo Nguyên
ra đọc. Nhẩn nha đọc, từ đầu đến cuối,
từng dấu chấm, không vội. Tỷ như đang
ngồi thiền. Ung dung từ tốn. Ắt sẽ thấy an tâm, hưng phấn trong lòng. Giá mà người Việt Nam đang sống ngày hôm nay cứ
cha truyền con nối đời này sang đời khác đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp thì các thế
hệ mai sau mãi mãi sẽ không bao giờ quên là chúng may mắn được sinh ra làm một
phần của cái dân tộc đầy cay đắng nhưng vinh quang, đẹp đẽ, và hiển hách đến
dường này.
Thảo
Nguyên là một trong các bài thơ in
trong tập Tôi Cùng Gió Mùa. Tôi đã gặp và yêu mến hồn thơ Nguyễn Xuân
Thiệp qua tập thơ ấy, cách nay dễ đã hơn hai mươi năm. Tôi không nhớ đã nói những gì trong dịp ra
mắt tập thơ ấy ở Houston năm 1999. Nhưng
ý tưởng xích tử chi tâm, tấm lòng son đỏ tinh khôi, cùng với hình ảnh con
chim cardinal màu đỏ oai vệ đã tô đậm trong đầu tôi bóng dáng ông như một kẻ sĩ
trong những kẻ sĩ cuối cùng đang sống ở thời đại chúng ta, bóng dáng một hồn
thơ thiên cổ giữa trời thơ hôm nay. Qua
các bài như Trà Oán, Đốt Lửa Nghe Sư Đàn, cái hồn thiên cổ ấy bàng bạc
trên trang giấy. Nguyễn Du
trong Long Thành Cầm Giả Ca tả người cầm giả ở Thăng Long sau mấy mươi
năm gặp lại: Thuấn tức bách niên năng kỷ thì, Thương tâm vãng sự lệ triêm y (Trăm
năm đọng giữa cung đàn, Bóng tà cỏ áy, lệ lan bao ngần)…Song nhãn trừng
trừng không tưởng tượng, Khả liên đối diện bất tương tri (Mắt trừng đối mặt
còn ngờ, Biết bao chua xót cho vừa chiêm bao), nghe tê tái cả cõi lòng. Bạch Cư Dị tả tiếng đàn của người kỹ nữ trên sông: Đại
huyền tào tào như cấp vũ, Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ (Dây trầm mưa gió dầm dề, Dây thanh âu yếm tỉ tê nỗi niềm),
nghe sướt
mướt giọt lệ bến Tầm Dương. Thế nhưng phải
nghe Nguyễn Xuân Thiệp tả tiếng đàn của người sư trong lán tù bên suối thì mới thấy
ma lực của tiếng đàn giữa núi rừng chập chùng u tối:
bỗng trong đêm rộ tiếng ai đàn / lửa củi soi nhà sư mặt ốm /
cuộn cuộn trường giang sóng lục đầu / đầm cỏ nước in thân cò vạc / bắt cua. vồ nhái. ngày qua ngày.
Thân vốn là
thân cửa Thiền môn, sao giờ lại làm thân cò vạc đi bắt cua, vồ
nhái?
dạo đàn. mưa thu rơi trong trăng / đàn ánh thép xanh. gươm
phạt trúc.
Thế là thế
nào? Phải chăng tiếng đàn ấy đã làm ánh trăng phải ứa ra những giọt mưa thu, làm
rừng trúc phải rạp mình sợ hãi?
hồn u. mả tối. đây là đây / rạng tiếng Ngư Dương thơ quỷ đọc
/ năm ngón tay gầy như chim ưng / bật dây. rỏ máu. hoàng hôn rừng / bỗng thấy
sân nhà cây sứ gãy / gọi những mùa đi không trở lại / gió thu đưa võng ai chờ
ai / đêm cẩm khê. đàn trong u độc / năm cửa ô quan ngấn lệ mờ / những mái nhà mưa xoi nắng rọi / lọ rơi. sành vỡ. lục cục âm.
Cuộn cuộn trường giang sóng lục đầu … / gọi những mùa đi
không trở lại. Ông Phạm Trọng, ông Trịnh Công
Sơn ơi, bao giờ những mùa xuân, những mùa thu đã ra đi sẽ theo với tiếng đàn mà
trở lại trên quê hương?
Tiếng đàn đến
là kỳ lạ. Trong một dịp khác, tôi muốn so chiếu tiếng đàn trong Đốt Lửa Nghe
Sư Đàn với tiếng đàn trong Long Thành Cầm Giả và Tỳ Bà Hành,
chắc là sẽ thú vị. Tạm thời xin mời đọc các
câu trong Tỳ Bà Hành tả lúc tơ đàn ngưng tiếng: Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt, Ngưng tuyệt bất
thông thanh tiệm yết, Biệt hữu u sầu ám hận sinh, Thử thời vô thanh thắng hữu
thanh (Suối đông lạnh, dây đàn ngưng tiếng,
Trong im lặng nghe có nỗi sầu hận u uất. Lúc im tiếng lại hay hơn lúc đang ngân
vang) … Khúc chung thu bát đương tâm hoạch, Tứ huyền nhất thanh như
liệt bạch (Dứt bài lướt
phím mặt đàn, Bốn giây lụa xé vút lan đêm trường).
Còn đây là các
câu kết của Đốt Lửa Nghe Sư Đàn: sư
bỗng ngừng đàn. nhìn đống lửa / gốc cây. cháy như đầu thiên cổ / mặt đất chừng
qua cơn mộng dữ / hơi đàn trôi trong hương lá xanh / đàn ngân. cánh chim soi
trên đầm / mùa hoa mơ nở. trắng non ngàn / từ trong động ấy. giờ trăng mọc / ánh
trăng. chảy vàng trăm cửa sông / bếp rụi. lửa riu. âm đàn dứt / trăng lên rồi.
hổ xuống cẩm khê.
Âm đàn đã
dứt. Trăng đã lên cao. Hổ đang xuống cẩm khê. Để làm gì? Sao bây giờ mới xuống, lúc đàn đã ngưng âm
tiếng? Bài thơ dâng lên cái khí lạnh của
núi rừng, cái ma quái của ánh lửa, cái vô ưu của rừng hoa mơ nở trắng dưới ánh
trăng chảy vàng trăm cửa sông. Một
khúc kết thật tuyệt vời.
Nhưng đó là
chuyện hai mươi năm về trước. Dạo sau
này tôi đã ngạc nhiên khi khám phá ra hồn thơ ông thường khi bay bổng, xa khỏi
cái thế giới của Đường thi Tống từ, dù thỉnh thoảng có nhớ quay về, mà chan hoà
cùng Đông Tây thời đại thế kỷ 20, 21. Tôi
Cùng Gió Mùa là một trong những vẻ khác nhau của cái hồn thơ hay bay bổng
ấy. Nhẽ ra cũng không nên ngạc nhiên khi
biết ông đọc Pablo Neruda. Thời của ông mà. Thời của những năm 60. Thời của
Neruda đoạt giải Nobel văn chương đầu 70, 71.
Nhưng một hồn thơ cổ kính, thân tình với Vương Duy, Đỗ Phủ lại chơi đùa
với Brodsky, thích Janis Joplin hát giọng the thé, nghe Jimi Hendrix đốt cháy
phím đàn, thì tôi không được biết nhiều người như thế, ngay cả ở những người
làm thơ trẻ hơn ông, nên đã ngạc nhiên, một cách thú vị. Xin mời đọc một bài:
Đêm nay. anh ngồi
đọc lại
thơ pablo neruda
20 bài thơ tình. và
một khúc ca tuyệt vọng
twenty love poems.
and a song of despair
đã gần hai giờ sáng
trăng hạ tuần. soi.
trên thềm đá ẩm
bản tin thời tiết
chiều nay báo
sẽ có late fleuries
anh nhìn ra ngoài
trời
chỉ thấy ánh trăng.
xanh màu hortensia
huyền hoặc
và anh đọc thơ
pablo neruda
mà ngỡ như thơ mình
“ở nơi này. tôi
nghĩ đến em
này yêu dấu em.
giữa những hàng thông đen thẫm.
gió cũng vùng vẫy
thoát bay lên
mặt trăng tỏa ánh
ngần trên dòng nước phiêu bạc
những ngày. như mọi
ngày. nối tiếp nhau đi…”
ôi. em
đã hơn hai giờ sáng
anh mở cửa sổ. nhìn
ra
mái ngói. giờ này
đã đóng băng. một lớp băng mỏng
và mặt trăng
treo trên cành khô
một tiếng chim. rơi
rụng. từ trí nhớ
“đêm nay. tôi có
thể viết. những câu thơ buồn
tôi yêu em. và đôi
khi em cũng yêu tôi
ôi cơn đau cuối
cùng này
và những câu thơ. tôi
đã viết cho em”
vẫn là thơ của
pablo neruda
đọc lên trong đêm.
không ánh lửa
và trời sẽ có tuyết
bay. bông fleuries
dẫu sao thì pablo
neruda đã chết
và anh cũng sẽ ra
đi
ôi thơ anh. và thơ
pablo neruda
sẽ bay lên. bay
lên. cùng hồi chuông cô quạnh
mỗi chiều, khi em
mở cửa nhìn
và những đám mây.
cũng bay đi. như những vuông khăn tiễn biệt
em ơi
Hai trích đoạn
thơ trên được Neruda viết lúc chưa hai mươi tuổi, không biết đã được ông chuyển
ngữ từ nguyên tác tiếng Spanish hay từ ngôn ngữ nào, mà hay tuyệt vời. Ai đã thích
Hai Mươi Bài Thơ Tình Và Khúc Ca Tuyệt Vọng của Neruda sẽ lại càng yêu
mến chúng hơn nữa khi đọc bài thơ trên của Nguyễn Xuân Thiệp. Bài thơ đã làm
nỗi cô đơn trong thơ Neruda lung linh sáng.
Và mặt trăng / treo trên cành khô / một tiếng chim. rơi rụng. từ trí
nhớ. Ông Neruda ơi, ông Neruda ơi, ông có nghe? Trời đêm nay sẽ có tuyết
bay!
Gần đây tôi
lại bắt gặp ở hồn thơ Nguyễn Xuân Thiệp những bài thơ ngắn, những đoản thi, mà
có lúc ông in trên những phiến giấy màu rất đẹp rồi gửi cho. Lại có lúc ông gửi
bằng email cho bạn bè, mà tôi may mắn có tên trong danh sách. Xin mời đọc vài đoạn, trích từ nhiều bài khác
nhau:
…
sao tôi đi mãi
một mình
đã bao năm
không bàn tay ấm trong tay
chỉ nghe trong hồn
chiều
một đóa quỳnh. rã cánh
Câu thơ
thật lạ. Xin mời đọc lại: sao tôi đi
mãi / một mình / đã bao năm / không bàn tay ấm trong tay / chỉ nghe trong hồn /
chiều / một đoá quỳnh rã cánh. Hà cớ
gì đang nghe trong hồn một đoá quỳnh rã cánh ông lại xuống giòng ở giữa
câu, gióng lên một chữ chiều, rồi lại xuống giòng? Sao lại có thể nhẫn tâm mà tài tình như
thế? Đoá quỳnh đã rã cánh, không đủ chết
người sao, mà lại còn chiều? Chiều
ở đây là danh từ, là buổi chiều? Hay chiều là tĩnh từ, là chợ chiều,
là đã cuối mùa, sắp tàn lụi? Hay là hồn
của buổi chiều? Nó dính líu gì đến đoá quỳnh đã rã cánh? Thưa: Hỏi như thế là tào lao, là xằng bậy, là
phải tội muôn đời sám hối không hết, là giết chết cái hồn thơ mà ông Hàn Mặc Tử
từ buổi em đi lấy chồng đã thôi không làm thơ nữa, đi tìm mỏm đá ngồi lên để
thả cho nó bay về với nghìn năm mây trắng.
Đọc thơ nên tắt cái máy lô gích đi.
Ắt sẽ thấy sự tình kỳ bí của chiều. Nó không có nghĩa gì cả, mà có hết thảy mọi ý
nghĩa trên đời. Nó bao trùm mọi nỗi hiu
quạnh, buồn tẻ, xót xa của con người, mọi nỗi chơ vơ, lạnh lẽo, héo hon, úa
tàn, của bàn tay đơn lẻ, của đoá quỳnh rã cánh.
Bởi vì không có nó, không có chiều, thì em ơi, đoá quỳnh rã cánh chỉ
là đoá hoa đã tàn, như trăm nghìn đoá hoa khác.
…
mùa thu
ơi mùa thu
dường như qua khe
cửa
có tiếng gió
hay tiếng dế kêu
anh và em
xa nhau
ánh trăng. không
soi tới
Không soi tới! Thì làm sao mà cưỡi trăng đến được bên nhau? Bất tri
thừa nguyệt kỷ nhân quy. Ông Đỗ Phủ
ơi, ông Đỗ Phủ ơi, ánh trăng đêm nay có soi tới Phu Châu? Đêm nao là đêm hà thì ỷ hư hoảng? Biết lấy gì để hong khô ngấn lệ nhớ mong?
một chiều. nhạt
nắng
gió lạnh về
nghe thu vàng hát
đường chiều lá rụng
và. đá xanh
chợt thấy. chiếc
nón của mình
lăn. trên đường phố
sài gòn
xưa
Ai đã nghe Thái Thanh hát Đường Chiều Lá Rụng nên
bật máy nghe lại sau khi đọc bài thơ này.
Ai chưa nghe ắt nên tìm nghe cho bằng được. Một ca khúc đã làm hồn người và đường phố Sài
Gòn rụng hết lá. Tôi chưa có dịp được nghe mùa thu cất tiếng hát Đường Chiều
Lá Rụng, cũng chưa có cái may mắn được nghe chị Thu Vàng hát bài ấy, nên
chiếc mũ cũ kỹ vẫn còn đội ở trên đầu. Mơ một ngày được thấy chiếc mũ của mình
lăn trên đường phố.
Nói nữa cũng không cùng.
Xin mượn bài đoản thi Thời Gian của ông để kết bài viết này ở
đây:
ông basho
một năm lại qua
nón lá đội đầu
chân buộc giày rơm
đi tìm chiếc lá
kiri
còn ông thiệp
một năm lại qua
mũ dạ
khăn quàng cổ
đi tìm bông hoa
giấy
rụng. tàn
môi ai. nơi góc
tường kia
Ông Basho đội nón lá lên đầu đi tìm chiếc lá kiri
Ông Thiệp quàng khăn lên cổ đi tìm bông hoa giấy. rụng. tàn.
Ông Hàn cầm bút chấm
vào mực cao hứng
viết: Thơ có tuổi và chiêm bao có tích. Hẳn là ông có
cái lẽ của riêng ông. Nhưng sao là có tuổi? Là có tích?
Hồn thơ Nguyễn Xuân Thiệp theo tôi đã bay ra ngoài cái trú
trường của tuổi tác. Ở cõi ấy thời gian vốn co dãn. Ở cõi ấy, trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu.
Hồng nhạn trường
phi quang bất độ, ngư long tiềm dược thuỷ thành văn.
Dặm ngoài cõi sáng
xa vời, bóng chim, tăm cá, mây trời, bọt sông.
Ở cõi ấy, hồn thơ Nguyễn Xuân Thiệp không có tuổi.
TÔ THẨM HUY
Houston, Tiết Vũ Thuỷ, Tháng 3, 2020
No comments:
Post a Comment