Trịnh
Y Thư
Gabriel García Márquez [1927-2014],
Nobel Văn chương 1972
Dịch
COVID-19, tôi thường xuyên nghĩ đến cái chết, lý do dễ hiểu, có quá nhiều người
chết xung quanh.
Nhìn bức ảnh chụp những chiếc quan tài màu trắng nằm xếp lớp, chen chúc trong một mồ
chôn tập thể, có các nhân viên mặc áo bảo hộ trắng từ đầu đến chân, lấp đất, chắc
bạn cũngnhư
tôi, chẳng thể nào che giấu được sự mất mát to lớn trong lòng, sự hoang mang về
tương lailoài
người, sự mong manh của kiếp người, sự khiếp hãi của đời sống… Tin tức dồn dập
từng giờ,từng
ngày, bao nhiêu người bị dương tính, bao nhiêu người chết, tất cả như trong ác
mộng,không
thể nào tin được cái gì đang thật sự xảy ra trên thế giới, đang diễn ra trước mắt
mình.
Cái
chết sao dễ dàng thế, chết như mơ, chết như đang làm một chuyến du hành. (Thực
sự làmột
chuyến du hành về bên kia thế giới.) Chứng kiến những cái chết như thế, để trấn
át cảm giác
hãi hùng, hoang mang ghê rợn, có thể bạn tìm đến đức tin tôn giáo. Tốt thôi.
Tôi hiểu sức mạnh
tâm linh có thể giúp người ta bước qua cơn hoạn nạn. Hoặc có thể bạn vào phòng
làmtình
với vợ, với người yêu. Cũng tốt thôi. Tôi hiểu khi bất an, người ta cần đi sâu
vào nhau tìm chút
hơi ấm của vỗ về, an ủi, để khơi dòng nước tắc nghẽn nơi sông cạn cho nó chảy
chan hòa ra
biển cả mênh mông. Hoặc có thể bạn nốc hết chai Macallan rồi gục xuống sô pha
mà ngủ. Vẫn
tốt thôi. Tôi biết những biến động kinh hoàng xung quanh tác động sâu sắc lên
tâm hồn mẫn
cảm, dễ bi lụy của bạn, và bạn đành tìm quên trong men rượu. Kỳ thực bạn có thể
làm bất cứ
điều gì khả dĩ giúp bạn vượt qua cơn khó này. Riêng tôi, tôi tìm đến văn
chương.
Lại kệ sách tôi lấy xuống tập truyện ngắn của Gabriel García Márquez. Đọc đã lâu, nhưng tôi nhớ trong đó có vài ba truyện ngắn Márquez viết về cái chết. Hiếm có nhà văn nào viết về cái chết như Márquez. Khí hậu “Hiện thực Huyền ảo” đã khiếnông có thể viết những điều mà một ngòi bút “Hiện thực Tả chân” không thể nào làm nổi: Đi vào phần sâu thẳm nhất của bản ngã và kiếp người để trực diện cái kinh khiếp nhất. Cái chết. Trực
Lại kệ sách tôi lấy xuống tập truyện ngắn của Gabriel García Márquez. Đọc đã lâu, nhưng tôi nhớ trong đó có vài ba truyện ngắn Márquez viết về cái chết. Hiếm có nhà văn nào viết về cái chết như Márquez. Khí hậu “Hiện thực Huyền ảo” đã khiếnông có thể viết những điều mà một ngòi bút “Hiện thực Tả chân” không thể nào làm nổi: Đi vào phần sâu thẳm nhất của bản ngã và kiếp người để trực diện cái kinh khiếp nhất. Cái chết. Trực
diện
để thấy rằng đời sống vẫn đáng sống, để thấy tôi và bạn là những kẻ may mắn vì
chúng ta vẫn
còn trông thấy mặt nhau. Và nhất là để sống sao cho xứng đáng, một điều cực kỳ
khó khăn cho
con người chúng ta.
Tôi
mất ba hôm để dịch thiên truyện này, xin chia sẻ với bạn, mong bạn an lành
trong mùa đại
dịch. – Trịnh Y Thư.
***
Lại
cái âm thanh ấy. Âm thanh nhức óc, lạnh lẽo hắn đã nghe rất nhiều lần; nhưng
không hiểu vìsao
lần này hắn thấy có cái gì chói lói và đau đớn, như thể chỉ qua đêm hắn không
còn nhớ gì cái
âm thanh ấy nữa.
Nó
quay mòng mòng bên trong não bộ trống trơn của hắn, âm u và nhức buốt. Một cái
tổ onggiữa
bốn bức tường hộp sọ. Mỗi lần quay một vòng, cái âm thanh chói lói ấy như tăng
lên một bậc,
toàn thân hắn vật vã, những đốt xương sống co giật liên hồi, không cùng nhịp với
những phần
khác trong cơ thể. Có cái gì đó không chịu hội nhập với xương thịt con người hắn,
cái gìbình
thường “vào những thời điểm khác” và giờ đây hắn có cảm tưởng như có bàn tay
xương xẩu
không tí da thịt đang nện những nhát búa khô khan, chí tử trong đầu hắn, nó làm
hắn nhớ đến
tất cả những cảm giác cay đắng của cuộc đời. Một xung lực súc vật bốc lên khiến
hắn như muốn
nắm chặt đấm tay và bóp mạnh hai thái dương đang nổi cộm những đường gân xanh
tímvì
cơn đau hành hạ. Hắn muốn thò đôi bàn tay nhạy cảm của mình để chụp bắt cái âm
thanh quái
dị như có kẻ đóng mũi đinh nhọn xuyên thủng hộp sọ hắn. Hình ảnh một con mèo
khiến cơ bắp
trên người hắn co thắt không tự chủ được lúc hắn tưởng tượng ra cảnh con mèo
đang chạy đuổi
bên trong cái đầu nóng bừng đau nhức như lên cơn sốt nặng. Nhưng hắn không thể
bắtcon
mèo. Không. Bộ lông của âm thanh trơn tuột, gần như chẳng va chạm vào được.
Nhưng với tất
cả sức mạnh vì đã quá tuyệt vọng, hắn dự mưu thủ sẵn để chụp giữ nó lại thật chặt,
thật lâu.
Hắn
sẽ không cho phép nó chui vào tai mình nữa, không cho nó đi ra từ miệng, từ từng
lỗ chânlông,
hay từ đôi mắt. Đôi mắt mù, con ngươi lộn ngược, mỗi lần âm thanh từ đó thoát
ra, nhưng
vẫn dõi nhìn theo đường bay của nó vọng lại từ khoảng tối mịt mùng vỡ vụn. Hắn
sẽ không
để cái âm thanh ghê rợn như kính vỡ, buốt giá như sao băng kia nện từng hồi
liên tục vào
hộp sọ hắn. Cái âm thanh là như thế: liên hồi không dứt, như một đứa trẻ đập đầu
vào tường
xi măng đặc cứng. Như những cú nện thật mạnh vào cái gì cứng nhất của thiên
nhiên. Nếu
hắn có thể nhốt nó lại trong một vòng tròn, cách ly nó, thì chắc nó sẽ không
làm hắn đớn
đau
khổ sở nữa. Cắt cái hình dạng luôn biến đổi ra khỏi bóng nó. Chụp giữ lấy nó.
Bóp nghẹt nó,vâng,
một lần rồi thôi. Ném nó xuống vệ đường với tất cả sức mạnh bình sinh rồi lấy
bàn chân dí lên
nó một cách hung tợn cho đến khi hắn có thể bảo, trong lúc thở hổn hển, rằng hắn
đã diệt trừ
được cái âm thanh làm hắn khổ sở, cái âm thanh làm hắn nổi điên, và giờ đây nó
nằm bẹpdí
dưới mặt đất như một món vật tầm thường, chết ngắt.
Thế
nhưng ngay cả lấy tay bóp thái dương, hắn cũng chẳng thể nào làm nổi. Hai cánh
tay hắntừ
lâu đã co rút lại và giờ đây là tay một người lùn: ngắn ngủn, phù lên toàn mỡ.
Hắn cố gắng lắc
đầu. Lắc. Nhưng hình như càng lắc âm thanh càng gia tăng cường độ bên trong hộp
sọ, cái hộp
sọ trở nên rắn chắc lạ thường, to ra, và như bị trì xuống nặng hơn bởi sức hút
của trọng trường.
Âm thanh ghê rợn, nặng nề và mạnh bạo. Nặng nề và mạnh bạo đến nỗi giả như hắn chụp
bắt và đập chết được nó thì hắn có cảm tưởng như ngắt một đóa hoa từ một cành
hoa bằng
chì.
Hắn
đã từng nghe thứ âm thanh dai dẳng ấy “vào những thời điểm khác.” Thí dụ vào
hôm hắn
chết lần đầu. Đó là lúc – khi hắn trông thấy cái xác chết – hắn nhận ra đó là
xác chết của chính
mình. Hắn nhìn cái xác, thò tay ra sờ. Nhưng hắn không có cảm giác đang bị sờ
mó, nó hoàn
toàn trống rỗng, không hiện hữu. Quả thật hắn là một xác chết và hắn cảm thấy
cái chết đang
tới với thân xác tuy còn trẻ nhưng bệnh hoạn của hắn. Không khí bên trong căn
nhà đông cứng,
như thể có xi măng đổ vào đầy kín, và ngay chính giữa khối xi măng – mọi đồ vật
trong nhà
vẫn nằm yên vị như khi còn là không khí – hắn nằm đó, chỉn chu, gọn ghẽ trong một
cáiquan
tài cũng bằng xi măng cứng nhưng vô hình, trong suốt. Lúc đó hắn đã nghe thấy
cái “âmthanh”
này trong đầu rồi. Gót chân hắn, ôi sao lạnh giá, khoảng cách từ đôi bàn chân đến
đầu kia
quan tài, ôi sao xa cách. Dưới chân hắn, người ta đặt một chiếc gối, bởi thân
xác bé bỏng của
hắn lọt thỏm trong quan tài, họ đã phải dùng vải vóc bày biện bên trong cho đầy
đặn trông được.
Đoạn họ lấy vải trắng phủ lên người hắn và buộc một cái khăn tay xung quanh cổ,
giữ hàm
dưới hắn lại; hắn chết nhưng đẹp.
Hắn
nằm trong quan tài, sẵn sàng đi chôn, nhưng hắn biết hắn chưa chết. Hắn biết rằng
nếu hắn
muốn ngồi nhổm dậy thì hắn vẫn có thể dễ dàng làm được. Chí ít là về mặt “tinh
thần.” Nhưng
chẳng bõ bèn gì. Tốt hơn hắn cứ nằm chết, chết vì “chết,” bởi chết chính là căn
bệnh của hắn.
Đã lâu rồi, ông bác sĩ bảo mẹ hắn:
“Thưa
bà, con trai bà mắc phải một chứng bệnh hiểm nghèo: cậu ấy chết rồi.” Ông ta lại
nóitiếp,
“Thế nhưng, chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để cậu ấy sống bên kia cái
chết.
Những
cơ phận trong thân thể cậu ấy vẫn tiếp tục hoạt động bình thường nhờ vào một hệ thống
tự dinh dưỡng phức tạp mà chúng tôi tin là sẽ làm được. Chỉ những chức năng cử
động là không
làm được thôi, cậu ấy sẽ phải nằm bất động như thế suốt đời. Chúng tôi sẽ theo
dõi thật sát
tiến trình tăng trưởng của cậu ấy, bởi cậu ấy vẫn tiếp tục lớn lên như bình thường.
Nói một cách
đơn giản cho dễ hiểu thì đây là một đời sống trong lúc chết, một cái chết thật
sự và trung thực…”
Hắn
nhớ câu nói của ông bác sĩ nhưng nó lộn xộn lắm. Có lẽ hắn chẳng nghe gì cả và
nó chỉ là thần
trí tưởng tượng của hắn trong lúc thân nhiệt tăng cao do cơn sốt thương hàn gây
nên.
Trong
lúc hắn chìm vào cơn mê sảng. Trong lúc hắn đọc chuyện ướp xác các hoàng đế Ai
Cập.Trong
lúc cơn sốt trở nặng, hắn cảm thấy hắn chính là nhân vật chính diện. Một cái gì
trống vắng
trong cuộc đời bắt đầu. Từ lúc đó trở đi hắn không tài nào phân biệt được,
không thể nàonhận
biết biến cố nào là trong cơn mê sảng, chuyện nào thật ngoài đời. Đó là lý do
vì sao bây giờ
hắn đâm ra hoài nghi tất cả. Có lẽ ông bác sĩ chẳng bao giờ đề cập đến cái “đời
sống trong lúc
chết.” Nó chẳng hợp lý chút nào, đầy mâu thuẫn, và giản dị chỉ là sự đối chọi
nhau đến phi lý.
Và nó khiến hắn bây giờ trở nên hoang mang, chẳng rõ mình đã thật sự chết hay
chưa. Mình chết
đã mười tám năm rồi, có thật thế không?
Lúc
đó – hắn chết năm lên bẩy – mẹ hắn có nhờ thợ đóng hòm đóng cho hắn một cái
quan tài nhỏ
bằng gỗ, loại chôn trẻ con, nhưng ông bác sĩ ra lệnh cho thợ đóng một cái lớn,
loại dùng cho
người lớn bình thường, bởi hắn sẽ tăng trưởng theo thời gian, tuy sự tăng trưởng
suy mòn này
có thể sẽ biến dạng hắn thành một người chết với hình thù quái dị hay một người
sống bất bình
thường. Hoặc cũng có thể vì không tăng trưởng hắn không nhận ra mình đang khỏi
bệnh.
Thế
là theo lời khuyên giải của ông bác sĩ, mẹ hắn yêu cầu đóng một cái quan tài lớn
cho hắn,một
quan tài người lớn, và bà xếp ba chiếc gối dưới chân hắn để trông vào không đến
nỗi quá so
le, xệch xạc.
Sau
đó chẳng bao lâu hắn bắt đầu tăng trưởng bên trong quan tài, và mỗi năm người
ta phải lấy
bớt vải len trong chiếc gối đặt cuối quan tài để hắn có chỗ duỗi chân. Phân nửa
quãng đời của
hắn là như thế. Mười tám năm. (Hắn bây giờ đã hai mươi lăm.) Và chiều cao, hay
đúng hơn, chiều
dài thân hình hắn đã đến mức không thể dài thêm. Người thợ đóng hòm và ông bác
sĩ đã tính
toán không chính xác, kết quả quan tài thừa cả sáu mươi phân. Họ tưởng hắn giống
cha, người
có thân hình hộ pháp cao lớn dềnh dàng. Nhưng hắn không thế, điểm duy nhất hắn
thừa kế
người cha sinh thành ra mình là hàm râu rậm rạp. Hàm râu xanh, rậm, bà mẹ hắn
có thói quen
vén chải râu hắn cho đẹp. Những hôm trời nóng nực hàm râu làm hắn khó chịu vô
cùng.
Nhưng
cái làm hắn khiếp hãi hơn cả, hơn cái “âm thanh” đó, là những con chuột nhắt!
Ngay từ
khi còn bé thơ, không có gì trên đời làm hắn hãi hùng hơn giống chuột nhắt. Và
mùi nến thắp dưới
chân đã thu hút đám vật kinh tởm đó tìm đến. Chúng gặm nhấm áo quần hắn, và hắn
biết chẳng
bao lâu nữa chúng sẽ gặm nhấm chính hắn, ăn thịt hắn. Có hôm hắn trông thấy
chúng: năm
con chuột lông trơn láng, bóng lưỡng từ chân bàn lũ lượt trèo lên chui vào quan
tài gặm thịt
da hắn. Khi mẹ hắn phát hiện thì hắn chẳng còn gì ngoài một đống da bầy nhầy và
bộ xương lạnh
cứng. Hắn kinh hoàng vì lũ chuột ăn thịt mình thì ít, dù sao chăng nữa hắn vẫn
có thể sống tiếp
như một bộ xương khô, mà chết khiếp vì cảm giác kinh hãi lũ vật ấy thì nhiều.
Chỉ cần nghĩ đến
những con vật lông mượt như nhung là tóc tai hắn đã dựng đứng lên rồi, chúng chạy
rúc rích
cùng khắp thân người hắn, rúc mỏ chui vào những kẽ hở trên da thịt, lấy móng sắc
lạnh khều
môi hắn. Một con bò lên mí mắt, tìm cách gặm tròng mắt hắn. Hắn thấy con vật,
nó to lớn khủng
khiếp dị thường, và đang loay hoay tìm cách cắm hàm răng nhọn sâu vào con ngươi
hắn.
Hắn
nghĩ thầm đây hẳn là cái chết khác cho mình và hắn hoàn toàn buông tay phó thác
định mệnh
cho số kiếp đọa đày đang chờ đón. Hắn
nhớ thời điểm hắn trở thành người lớn, hai mươi lăm năm tuổi, có nghĩa là hắn sẽ
không lớn
nữa. Thân hình hắn sẽ rắn chắc, nhân dáng nghiêm trang. Nhưng mai sau, lúc khỏi
bệnh,
làm
sao hắn kể lại cho người khác nghe về chuỗi đời ấu thơ của hắn được. Hắn làm gì
có tuổi thơ.
Tuổi thơ hắn nằm chết mà.
Từ
lúc dậy thì cho đến khi trưởng thành, mẹ hắn chăm sóc hắn kỹ lưỡng lắm. Bà luôn
tay lau chùi
cái quan tài và cả căn phòng nữa cho sạch sẽ. Bà thường xuyên thay hoa trong
bình và mở cửa
sổ hằng ngày cho không khí trong phòng thoáng mát. Thuở đó bà cảm thấy mãn nguyện mỗi
lần bà lấy thước dây đo chiều dài thân hình hắn, bà gật gù thấy vui vui trong
lòng khi thấy hắn
dài ra vài phân. Bản năng thiên bẩm làm mẹ khiến bà vui sướng thấy con mình sống.
Tuy thế,
bà cẩn trọng giữ gìn, không cho người lạ mặt vào nhà. Dù sao đi nữa thì một cái
xác chết nằm
giữa nhà năm này tháng nọ cũng là cái gì không mấy hay ho và chẳng ai hiểu nổi.
Bà là người
có tính chối bỏ sự thật, nhưng chẳng bao lâu bà mất dần lạc quan. Vào những năm
cuối, hắn
thấy nét buồn bã hiện trên mặt bà lúc bà giương mắt nhìn vạch đo cái thước dây.
Con trai bà
hết lớn rồi. Cả mấy tháng trường thêm một mili-mét cũng không. Bà biết rằng từ
giờ phút này
trở đi bà sẽ không quan sát được sự sống hiện hữu bên trong cái xác thân yêu
con bà. Bà sợ một
buổi sáng nào đó thức dậy bà thấy con trai bà “thực sự” đã chết, và có lẽ vì lý
do đó, một hôm
hắn thấy bà khẽ khàng bước đến quan tài rồi cúi xuống ghé mũi ngửi thân hình hắn.
Bà trở nên
bi quan cùng cực. Gần đây bà cũng sao nhãng việc chăm sóc hắn, bà chẳng buồn lấy
thước dây
đo hắn làm gì. Bà biết con bà hết lớn rồi.Và
hắn biết giờ đây hắn “thực sự” đã chết. Hắn biết bởi những cơ phận trong người
hắn trở nên
yên ả, chúng như phó mặc, ra sao cũng được. Mọi thứ đổi thay một cách trái mùa
khác lạ.
Nhịp
đập trước đây chỉ mình hắn nhận ra, bây giờ cũng không còn nữa. Hắn cảm thấy nặng
nề, như
bị sức mạnh vô hình nào lôi kéo về phía nguyên tố của quả đất. Sức mạnh trọng
trường hình
như hút hắn vào cõi vô biên nào đó mà hắn không tài nào kháng cự nổi. Hắn trở
nên nặng nề
như một cái xác chết đúng nghĩa, không thể chối cãi. Nhưng nhờ vậy hắn cảm thấy
bình an hơn.
Hắn chẳng cần phải thở để sống trong cái chết.
Bằng
tưởng tượng, không cần sử dụng đến xúc giác, hắn lần lượt kiểm tra lại toàn bộ
đầu mình
tay chân hắn. Đầu hắn gối trên một cái gối cứng, hơi nghiêng về phía trái. Hắn
tưởng tượng
cái miệng hé mở, bởi có làn hơi băng giá lùa những hạt mưa đá vào cổ họng. Hắn
bị đốn ngã
như một thân cây già hai mươi lăm năm tuổi. Có lẽ hắn cố khép miệng lại. Chiếc
khăn tay giữ
cằm lâu ngày trở nên lỏng lẻo. Hắn không tài nào tự nằm vào vị trí cho đúng, thậm
chí sửa sang
bộ dạng sao cho ra vẻ một xác chết đàng hoàng cũng không làm nổi. Mọi cơ bắp,
tay chân hắn
không còn răm rắp tuân lệnh của thần kinh não bộ như trước đây nữa. Hắn không
còn là
đứa
trẻ bình thường cách đây mười tám năm tự do bay nhảy theo ý muốn. Đôi cánh tay
rã rời, vĩnh
viễn không liền lặn với cơ thể, ép sát vải đệm lót quan tài. Dạ dày rắn như vỏ
cây bồ đào.
Và,
bên dưới là đôi chân, toàn nguyên, chính xác, hoàn tất một cơ thể người lớn tuyệt
hảo. Thân
xác hắn nằm trông nặng nề nhưng bình an, không một dấu hiệu nào cho thấy sự khó
chịu, như
thể thế giới đột nhiên ngưng lại và không ai phá vỡ bầu không khí im lặng tuyệt
đối, như thể
tất cả các buồng phổi trên thế gian đều ngưng thở để sự lặng thinh của vũ trụ
lan tỏa khắp không
gian. Hắn cảm thấy sung sướng như đứa trẻ nằm trên bãi cỏ xanh ngửa mặt mơ mộng nhìn
đám mây trắng lững lờ trôi trên bầu trời xanh buổi chiều tà. Hắn sung sướng lắm
mặc dùbiết
mình đã chết và được nằm vĩnh viễn bên trong chiếc quan tài lót lụa là, vải
vóc. Hắn cảm thấy
trí óc minh mẫn, trong trẻo lạ thường. Nó không như thuở xưa, lúc hắn chết lần
đầu, lúc hắn
cảm thấy vô cùng u tối và chán chường. Bốn ngọn nến đặt xung quanh hắn, cứ ba tháng thay
một lần, ngay lúc không thể thiếu thì bắt đầu tàn lụi. Hắn cảm nhận được cái gần
gũi của bó
hoa đồng thảo tươi đẹp mẹ hắn đem vào buổi sáng hôm đó. Hắn cũng thấy như thế với
bó hoa
huệ, hoa hồng. Tất cả những thực tại kinh khiếp chẳng hề làm hắn mảy may quan
tâm, lo lắng.
Ngược lại là đằng khác, hắn thấy sung sướng nằm một mình trong quan tài, thưởng
thức cái
cô đơn hiu quạnh của chính mình. Nhưng về sau thì hắn có thấy sợ hãi không?
Nào
ai biết được? Thật khó khăn nghĩ tới lúc người ta nện những nhát búa chát chúa
đóng đinh
cái quan tài và nó kêu ken két bởi chẳng bao giờ nó còn hy vọng trở lại kiếp
làm thân cây mọc
giữa rừng xanh. Thân xác hắn, giờ đây bị kéo xuống sâu hơn bởi sức mạnh vô biên
của quả đất,
nằm lệch vẹo dưới lòng đất sốp, ẩm ướt, và trên kia, ba thước đất trên kia, những
người đào
mồ đang nện những nhát cuốc cuối cùng, nghe nhỏ dần, nhỏ dần. Không. Tại đó hắn
cũng không
cảm thấy sợ hãi. Nó chỉ là thời đoạn nối dài cái chết của hắn thôi, một thời đoạn
nối dài tự
nhiên nhất, cho hắn đi vào một trạng thái mới.
Cơ
thể hắn không còn tia hơi ấm nào, tủy xương hắn sẽ đóng băng vĩnh viễn và những
vì sao bé
xíu lạnh giá sẽ chui sâu vào hòa quyện với tủy xương. Tốt đẹp biết bao hắn làm
quen với cuộc
sống mới như một người đã chết! Tuy thế, một hôm trong lúc cố gắng kiểm tra lại
đầu mình
tay chân mà chẳng thấy đâu, hắn cảm thấy bộ áo giáp vững chắc mình mặc bấy lâu
bỗng nhiên
tan rã. Hắn không còn hình thể rõ ràng, chính xác nữa, cái cơ thể hai mươi lăm
năm tuổi tuyệt
hảo của hắn không còn nữa, hắn vô cùng chán nản khi nhận ra thế, nó đã hóa
thành một nhúm
bụi vô hình tướng, vô hình hài.
Những
hạt bụi về sự chết chỉ thấy trong thánh thư. Có lẽ lúc đó hắn mới dấy lên chút
hoài niệm,
hoài niệm vì không còn là một thân xác với những cơ phận hẳn hoi, mà chỉ là một
thân xác
tưởng tượng, trừu tượng, rơi rớt trong ký ức những người quyến thuộc thân quen.
Chỉ lúc đó
hắn mới biết rằng hắn sẽ tỉnh thức và luồn lách theo những đường ống dẫn nhỏ li
ti của cây táo
mà vươn lên, để đứa bé nào đó hái ăn trong một ngày thu. Hắn sẽ biết rằng – và
điều này quả
làm hắn buồn bã – hắn đã đánh mất cái duy nhất của hắn: rằng hắn không là một
người chết
bình thường, thậm chí một cái xác chết tầm thường cũng không.
Đêm
cuối cùng hắn gặm nhấm nỗi cô đơn cùng cực bên trong xác chết của chính hắn.
Nhưng
một ngày mới bắt đầu, mặt trời phả những tia nắng ban mai ấm áp lung linh xuyên qua
khung cửa sổ, hắn cảm thấy da dẻ mềm mại trở lại. Hắn quan sát một lúc lâu. Lặng
yên, chăm
chú. Hắn để làn nắng ấm từ từ phủ trùm lên thân thể. Hắn không thể nào không ngửi
thấy cái
mùi ấy: cái “mùi thối” chắc chắn ở quanh đây. Suốt đêm cái xác chết đã bắt đầu
thối rữa.
Thân
xác hắn đã thối rữa như bất kỳ một xác chết bình thường nào. Không thể nghi ngờ,
không thể
sai, cái “mùi thối,” mùi thịt thiu, bốc lên, càng lúc càng nồng nặc, như xộc
vào khứu giác. Thân
xác hắn đã xình thối từ đêm qua do thời tiết về đêm trở nóng. Vâng. Hắn đã xình
thối. Chỉ vài
tiếng đồng hồ nữa thôi mẹ hắn sẽ vào thay hoa và mùi thối xác chết sẽ làm bà
choáng váng ngay
từ ngạch cửa. Thế rồi sau đó họ sẽ khiêng xác hắn đem đi chôn để hắn ngủ giấc
ngủ thiên thu
lần thứ hai bên cạnh những người chết khác.
Đột
nhiên cơn hoảng sợ bất ngờ ập đến như có ai đâm mạnh lưỡi dao sắc sau lưng. Hoảng sợ!
Cái từ thậm xưng, nhưng đầy ý nghĩa! Lúc này hắn cảm thấy thật sự sợ hãi, với
cái sợ “vật thể”
đúng nghĩa. Nhưng nguyên do nào khiến hắn sợ? Hắn hiểu rất rõ và chính điều này
khiến hắn
sợ: có lẽ hắn không chết. Họ liệm xác hắn vào cái quan tài này, một cái hòm mà
giờ đây hắn cảm
thấy rất êm ái, dễ chịu, và con ma sợ hãi mở toang cánh cửa sổ thực tại cho hắn
trông thấy:
Họ sẽ chôn sống hắn!
Hắn
không thể nào chết được bởi hắn vẫn ý thức thật rõ ràng mọi chuyện, mọi vật: đời
sống quay
cuồng, huyên náo xung quanh hắn. Hắn vẫn nhận ra mùi hương ấm áp của cây vòi
voi từ ngoài
vườn, qua khung cửa sổ, bay vào thoang thoảng quyện với “mùi thối.” Hắn cũng
nghe rất rõ
tiếng nước nhỏ từng giọt tí tách xuống bể nước. Và tiếng con dế trong xó nhà
rung cánh gáy vì
nó ngỡ trời chưa sáng hẳn.
Tất
cả hình như bảo rằng hắn chưa chết. Tất cả, ngoại trừ cái “mùi thối.” Nhưng chắc
gì “mùi thối”
đó là của hắn? Có thể hôm qua mẹ hắn quên thay nước bình hoa và những nhánh hoa
úa héo
sáng nay bốc mùi. Hay có thể đó là mùi con chuột chết do con mèo tha vào phòng
rồi bỏ quên
để nó phình trương xình thối. Không, không đời nào. Nhất định cái “mùi thối” đó
không phải
hắn.
Chỉ
mới đây thôi hắn còn vui vẻ với cái chết của mình, bởi hắn nghĩ là mình đã chết.
Bởi người chết
thì có thể vui với một tình huống vô phương cứu vãn. Nhưng một người sống thì
không thể chấp
nhận mình bị đem đi chôn sống. Biết thế nhưng toàn thân hắn hoàn toàn bất lực,
hắn không
biết phải làm cách nào bảo mọi người rằng hắn còn sống, và đó chính là lý do vì
sao hắn hoảng
sợ, nỗi sợ kinh hoàng nhất hắn chưa từng cảm thấy bao giờ suốt cuộc đời khi sống
cũng như
lúc chết của hắn. Họ sắp chôn sống hắn. Có thể hắn sẽ nghe tiếng đóng đinh lên
quan tài.
Có
thể hắn sẽ cảm thấy cái khinh phù trống rỗng của xác thân nằm trên vai những
người thân thuộc
trong lúc họ cẩn trọng bước từng bước chậm chạp về phía nghĩa trang, và sự kinh
hãi cùng
nỗi tuyệt vọng cứ thế tăng lên theo từng bước đi.
Hắn
sẽ cố ngoi lên, với tất cả sức tàn, trong vô vọng cất tiếng gọi từ bên trong
cái quan tài chật
hẹp tối đen, hắn sẽ đập mạnh vách ván để mọi người biết rằng hắn chưa chết, rằng
hắn đang
bị chôn sống. Vô ích thôi. Ngay cả vào giây phút cuối, mấp mé giữa bến bờ sinh
tử đó, cơ thể
hắn vẫn hoàn toàn không chịu nghe mệnh lệnh của thần kinh não bộ.
Hắn
nghe tiếng động phòng bên cạnh. Phải chăng hắn đang ngủ mơ? Phải chăng toàn bộ
đời sống
một người chết chẳng qua chỉ là cơn ác mộng? Nhưng tiếng đĩa vỡ tắt ngúm sau
đó. Hắn cảm
thấy buồn bã vô hạn và có lẽ tiếng đĩa vỡ làm hắn khó chịu. Hắn muốn tất cả đĩa
bát trên thế
gian đồng loạt rớt xuống sàn nhà vỡ tan tành ngay bên cạnh để hắn ngoi dậy, bởi
chỉ một động
lực vô biên từ ngoài như thế mới kích hoạt được hắn thôi, sức lực trong người hắn
đã cạn kiệt
rồi, không còn lại chút gì.
Nhưng
không. Hắn không nằm mơ. Hắn biết chắc rằng nếu đây chỉ là giấc mơ thì chủ đích
trở về
thực tại đã không thất bại. Hắn đã không tỉnh dậy. Cảm giác mềm mại của lớp vải
bên trong quan
tài, hắn cảm thấy, cùng lúc “mùi thối” trở lại, thối khủng khiếp, thối đến nỗi
hắn đâm ra nghi
ngờ, không biết đó có phải “mùi thối” của chính mình không. Hắn muốn nhìn mặt
bà con dòng
họ trước khi hắn tan rữa, nhưng cảnh tượng một đống thịt thối rữa hiện ra trước
mắt chắc
sẽ làm họ chết khiếp vì kinh tởm. Hàng xóm sẽ xúm nhau bỏ chạy, ai nấy lấy khăn
tay che miệng,
và nhổ nước bọt liên hồi. Không. Không thể thế được. Tốt hơn họ phải đem hắn đi
chôn ngay.
Tốt hơn phải dẹp bỏ ngay “cái đó,” càng sớm càng tốt. Lúc này, thậm chí chính hắn
cũng muốn
vứt đi thân xác mình. Bây giờ hắn biết rất rõ hắn đã chết, hoặc, có sống thì
cũng chẳng đáng
kể, chẳng ra gì. Có khác biệt nào không? Trường hợp nào thì cái “mùi thối” vẫn
ngoan cố bốc
lên.
Với
lần bỏ cuộc này hắn sẽ được nghe lời kinh cầu nguyện, một buổi đọc kinh bằng tiếng
La-tinh
cuối cùng với những người trợ lễ không thành thuộc. Cái lạnh lẽo của nghĩa
trang, toàn đất cát
và xương xẩu, sẽ thấm vào xương tủy hắn, và có lẽ sẽ làm “mùi thối” giảm bớt phần
nào. Có lẽ
– nào ai biết được! – có lẽ chỉ giây phút đó hắn mới được giải thoát ra khỏi
tình trạng hôn thụy,
u mê. Đó sẽ là lúc hắn cảm thấy như đang bơi lội trong mồ hôi của chính mình,
trong vũng nước
nhơn nhớt, đặc sệt, như hắn từng bơi bên trong tử cung của mẹ lúc hắn chưa chào
đời.
Có
lẽ, chỉ lúc đó hắn mới sống.Nhưng
phần nhiều bây giờ hắn chỉ mong chết, mong đến nỗi chắc hắn sẽ chết vì mong đợi mất
thôi.
TYT
(Dịch từ ấn bản Anh
ngữ của Gregory Rabassa, HarperCollins xuất bản, 1991)
No comments:
Post a Comment