Ngu Yên cùng Đoàn Minh Đạo
Ngu Yên & Đoàn Minh Đạo
Thi phẩm Trầm Tích Biển
Đọc tập thơ của Đoàn Minh Đạo, Trầm Tích Biển, lòng không khỏi có đôi
điều băn khoăn. Tôi biết thơ ông khá lâu qua mạng gio-o.com, nhưng chỉ mới gặp
một lần tại quận Cam, khoảng hai năm trước. Sau buổi ăn chiều và ly cà phê,
chúng tôi chia tay, ông để lại cho tôi ấn tượng một người làm thơ trầm tư và tử
tế với văn chương. Một người có căn bản triết học, thơ của ông mang tư duy về đời
sống với ngôn ngữ riêng vừa ngoạn mục vừa khó hiểu.
Đọc thơ ông thấy được sự cẩn trọng chọn lựa từ vựng và dàn trải câu
cú. Không có nhiều tứ thơ lạ nhưng ngôn từ diễn đạt tứ thơ mang tính đặc thù của
Đoàn Minh Đạo: nhiều từ ghép tạo ra từ mới; nội dung của từ có chiều sâu của ý;
nét của từ có khi trí thức, có khi bóng bẩy; không khí của từ dựng nên mơ hồ,
trữ tình và ít chạm hiện thực.
Ví dụ một đoạn thơ:
Thổ lộ cùng
em tiếng vang tờ kinh khuya khoắt
Người hát
mơ hồ thánh nhạc phố xưa
Thành phố
Diêm Hồ
Chuông đổ
hoang mang
Bánh xe lăn
trên tuyết phủ ký ức thảo trang
Thời ra đi
và thời trở lại
Thời gieo
trồng và thời gặt hái
Thời ban
phát và thời thu gom
Thời yêu
đương và thời trả nghĩa…
(Trích Thời Trút Mùa Hương.)
Người đọc có thể cảm nhận một tâm sự trong kỷ niệm, có khả năng cảm động
nhưng lại trình bày một cách lãng đãng, không gần cũng không xa, tạo ra cảm
giác chập chờn về những gì ông muốn nói. Nếu chú ý về những cụm từ chạy gập ghềnh
và hoa sắc trong những câu thơ, đó là phong cách văn bản của ông.
Thay vì băn khoăn một mình, tôi có định email hỏi ông đôi điều ngắn ngủi
về sáng tác và về lối vào thế giới thơ riêng của Đoàn Minh Đạo.
Ngu Yên:
Anh Đoàn Minh Đạo, anh có thể cho chúng tôi biết đôi điều về cách sáng
tác riêng của anh, điều gì đã khiến anh chọn một loại ngôn ngữ thơ, mang sắc
thái khác thường như vậy? Đây là một thử nghiệm? hoặc chủ trương? hoặc một quan
niệm về ngôn ngữ thơ? Nói một cách khác, ý thức về ngôn ngữ thơ của anh là gì?
Đoàn Minh Đạo:
Cám ơn anh Ngu Yên, anh là người đầu tiên mà tôi nhận trả lời chuyện
thơ văn. Vì tôi không tự coi mình là nhà thơ, dù trước đây tôi có làm thơ và chỉ
giữ riêng cho mình. Với tôi giờ đây được
rãnh rỗi, cái thói quen ngày cắm đầu vào chữ từ tám đến mười tiếng đồng hồ
không lành mạnh lắm, mỗi giờ phải ngưng để múa may thể dục chút đỉnh. Vậy thì dù tôi không vịn câu
thơ mà đứng dậy, nhưng quả thơ là cây gậy chống đột quỵ và tai biến của tôi lúc
này. Để trả lời thẳng vào câu hỏi của anh là không cố ý mà tôi tự nhiên dùng “một
loại ngôn ngữ thơ, mang sắc thái khác thường” theo ý anh! Đời ta sống, cảm nhận và nhất là tư duy bằng
ngôn ngữ (S.I. Hayakawa), vậy ngôn ngữ có nhất thiết chỉ là tiếng nói tương
giao thường ngày hay hiện đại thôi không ? Khi thơ là ngôn ngữ về chính ngôn ngữ,
tiếng nói của tiếng nói, cảm nhận trong thơ là “đa trạng” như đời sống, có
nghiã trong một ngày cùng lúc chúng ta sống với ngôn ngữ của gia đình, của sở
làm, của học đường, của thị trường, đường phố,…
ngôn ngữ văn học của Homer, Shakespeare, Nguyễn Du, Rumi, Goethe..hay
Stevens, Hass, Walcott, Levine, Basho, Tô Đông Pha, Bắc Đảo, hay Bùi Giáng…..từ
cổ đại đến hiện đại, từ Tây sang Đông thế thì mọi thứ ngôn ngữ cùng vang trong
ta ở đây và lúc này. Cũng như ngôn ngữ Cung oán Nguyễn Gia Thiều vang lên trong
cú phone của chúng ta tối qua! Do đó ngôn ngữ thơ tôi hình thành như một cố gắng
cưu mang tiếng vang vọng đồng bộ giọng nói ấy trong mình.
Đoạn thơ anh đưa ra trên trong bài thơ cảm nhận về thời gian như nỗi
khắc khoải muôn đời của con người ai cũng có lúc đối diện. Chúng ta tư duy về
thời gian theo Heraclitus, St. Augustine, Bergson hay Heidegger, hoặc Einstein
hay Hawking… có đôi lúc ta lắng theo thời gian Đông phương qua mùa tiết
như Xuân sinh Hạ trưởng Thu liễm Đông
tàng.. riêng đoan thơ anh nêu trên nó vang trong nhịp tinh thần sách Giảng Viên
Ecclesiastes như những biến đổi của đời sống mà anh đã biết, và tôi đưa vào đó
chút sắc thái tình nghĩa gần gũi với ta. Xin cho phép tôi khỏi phải giải thích
thêm về thơ mình.
Tôi rất thú vị với nhận định và cách nắm bắt của anh khi đi vào thơ của
một người qua câu hỏi về ngôn ngữ thơ mà người đó sử dụng. Mark Strand Thi sĩ
Công huân Hoa Kỳ 1990 khi nhận định về tính đặc thù của ngôn ngữ thơ, theo ông dù cho đó là từ ngữ bình thường qua bài thơ nó cũng đã biến thành xa lạ. Trong bài thơ mọi
từ đều quan trọng ngang nhau nó hiện hữu trong tiêu điểm tuyệt đối và có sức nặng
hiếm khi đạt được trong tiểu thuyết. Từ ngữ trong tiểu thuyết phụ thuộc vào phần
lớn hành động và xây dựng nhân vật để thúc đẩy cốt truyện diễn tiến. Trong bài
thơ ngôn ngữ chính là hành động. Do vậy vì sao mà
bài thơ kiến lập tức thời dù chỉ mới
trong một đôi dòng mà người đọc kinh
nghiệm có thể chỉ ra ngay liệu bài thơ mình đọc có đạt được mức lão luyện nào
hay không (That is why poems establish themselves right away - in a line or two –
and why experienced readers of poetry can tell immediately if the poem they are
reading possesses any authority).
Ngu Yên:
"....thơ
là cây gậy chống đột quỵ và tai biến của tôi lúc này", lời
nói này cho thấy anh đã nhận thơ là một phần đời còn lại. Liệu anh có nhận người
đọc thơ như nhận thơ? Tôi hỏi câu này vì thơ của anh không dễ đọc. Thứ nhất,
anh dụng ý rất nhiều trong từng câu. Có khi chen lấn những tư tưởng triết học,
những nhân sinh quan Đông Tây; có khi lại ẩn dụ những sự tích, những câu chuyện
"túi khôn nhân loại". Thứ hai, những câu thơ của anh không có tính
liên tục, ít khi giải thích lẫn nhau. Kể cả khi nói đến những tình cảm thuần
túy. Với hai điểm then chốt này, khiến cho người đọc mang cảm giác lạc lõng
ngay khi đọc vài câu thơ đầu. Hơn nữa, đa số bài thơ của anh có khuynh hướng
dài, nghĩa là quá khổ bình thường của thơ Việt, đã quen thuộc. Điều này càng
khiến cho người đọc ngán ngẩm. Phải là một người yêu thơ mang cá tính tìm tòi đất
lạ, du thám những nơi hiểm hóc, mới đọc thơ anh toàn bài, toàn tập. Tôi tin anh
cũng dư biết điều đó.
Có lối đi nào dẫn vào cõi thơ của anh dễ dàng không? Hỏi một cách kỹ
thuật hơn, Khi bài thơ đã hoàn tất và anh đã chọn để đưa đến người đọc, thông
thường anh xây dựng bài thơ ra sao? Nếu một người đọc muốn thưởng ngoạn bài thơ
của anh, nên bắt đầu từ đâu? Hoặc nên đọc thế nào? Anh nói trước, rồi tôi sẽ kể
cho anh và độc giả, cách tôi đọc thơ của anh.
Đoàn Minh Đạo:
Nếu tôi nói mình làm thơ và không cần ai hiểu và cảm thông là nói dối
và mâu thuẫn! Tôi chỉ tự giới hạn mình trong nhu cầu cảm thông ấy; nếu được vài
người đọc và chấp nhận mình với sự rộng lượng cũng là quá đủ và may mắn. Ai chẳng
muốn mọi người hiểu mình, thích mình, làm sao có được ? Nhưng nếu ta thử nghĩ
trong tình yêu, khi chỉ có một người yêu ta thôi mà sao ta nhìn quanh thấy cứ
như cả nhân loại yêu ta ! Vậy một cũng là quá đủ phải không ? Như trên tôi xin miễn phải giải thích về thơ
mình, thực tình có gì để giải thích. Còn đọc thơ thế nào là tùy người, tuy cũng
có thể đưa ra vài cách đọc, nhưng tựu trung theo tôi cũng như nhiều người thì đọc
thơ cần chậm rãi, không vội để có thể nắm bắt cảm nhận được ngôn ngữ. Nói vậy
làm khó mình vì cũng lại ông Thi sĩ Công huân Mark Strand trên kia nhận xét
trong thời buổi của fast food người
ta nhai nuốt ngồm ngoàm mười giây một miếng thì làm sao tiêu thụ chậm lại được
ngay cả với thơ hở trời ?
Anh hỏi tôi lối dẫn vào thơ thì tôi có thể thưa anh là mỗi người có
cách và con đường của mình tôi không dám lạm bàn. Khi thói quen sử dụng ngôn ngữ
qua nghĩa ngữ đã phủ lên hầu như mọi dụng công của nó thì thơ lại thõng tay vào
chốn nhân gian này bằng cái mơ hồ của ẩn dụ, cái hàm hồ của nghĩa lý, cái lãng
đãng phù phiếm nếu có thể nói vậy vì thơ cũng bất lực trước đứa trẻ đói như “Buồn
nôn” của ông Sartre thôi. Nếu thơ dùng ngôn ngữ như một người dùng văn écrivant thì
mọi chuyện đã đơn giản hơn nhiều, nhà thơ ở đây cũng giống nhà văn vì theo Roland
Barthes trong khi người dùng văn tin rằng ngôn ngữ mình chấm dứt mọi
mơ hồ, thiết lập một giải thích không thể đảo ngược, một thông tin không thể chối
cãi thì trái lại nhà văn écrivain hiểu rõ ngôn từ tự nội do lựa chọn cũng như công việc, khơi mở
tính hàm hồ dù tưởng chừng không lưỡng lự, ngôn ngữ ấy lại phô ra mâu thuẫn
như một khoảng lặng im ghê gớm khi giải
đoán, vì vậy chẳng còn di ngôn nào hơn là phát biểu sâu sắc sau đây của Jacques
Rigaut: Ngay cả khi tôi xác quyết, thì tôi vẫn còn tra vấn.(… alors que pour l'écrivain,
on l'a vu, c'est tout le contraire : il sait bien que sa parole, intransitive
par choix et par labeur, inaugure une ambiguïté, même si elle se donne pour
péremptoire, qu'elle s'offre paradoxalement comme un silence monumental à
déchiffrer, qu'elle ne peut avoir d'autre devise que le mot profond de Jacques
Rigaut : Et même quand j'affirme, j'interroge encore." Roland Barthes, Essais critiques, « Ecrivains et écrivants ». 1960).
Theo tôi nghĩ không gì bằng tập
thói quen đọc thơ mỗi ngày một chút dần dà cùng với tìm hiểu thêm ta sẽ nhận được
những hân thưởng (enjoyments) mà thi ca sẽ cho ta. Joel ConarroeSix
American Poets: An Anthology
kể khi ở đại học một ông thầy khuyên sinh viên trong lớp là làm sao mỗi người
hàng ngày cố gắng đọc một bài thơ, thậm chí vài dòng cũng được, và nếu giữ được
luôn chắc cuộc đời chúng ta sẽ khác lắm. Do đó nếu đọc một bài thơ không cảm và
chẳng hiểu và bạn không đủ kiên nhẫn với nó thì bỏ qua đi, vì nó không hiểu ta
hoặc ta chưa cảm được nó. Đọc thơ mà thích ngay là một cái thú, còn giang hồ
bao năm với thi ca, mà tự nhiên “phải lòng” một bài thơ thì bài thơ ấy phải đặc
biệt lắm; chắc không có bài thơ của họ Đoàn này rồi. Rất cám ơn nhận xét và ghi
nhận của anh. Thơ tôi không có gì rắc rối lắm đâu, nó như những mảnh sứ vỡ tôi
gom lại và kết dính thành một bức
tranh tường tòa nhà; có thể anh thấy thiếu liền lạc có tính mosaic
nhưng nhìn đại thể có chủ đề. Như khi tôi đọc:
Quả cau nho
nhỏ,
Cái vỏ vân
vân
Nay anh học gần,
Nay anh học gần,
Mai anh học
xa
Mấy câu rao nam này có vẻ không liền lạc lắm, nhưng nó đẹp và ta cảm
thấy như một Intro cho đoạn sau vô
cùng hóm hỉnh phải không anh?
Anh lấy em
từ thuở mười ba
Đến năm mười tám em đà năm con
Ra đường thiếp hãy còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Đến năm mười tám em đà năm con
Ra đường thiếp hãy còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Vui thôi mà!
Ngu Yên:
Qua hai câu trả lời của anh, tôi nhận ra, anh rất khẳng định thơ khác
với văn. Đã là người đọc, hầu như ai cũng đồng ý sự khác biệt này. Tuy nhiên
cái khác biệt giữa văn và thơ là cái gì? Có phải là cái mà người đời gọi là
"thi vị"; nói nôm na là "mùi thơ", nói kỹ thuật là "bản
sắc thơ"? Nếu tôi hỏi anh, "mùi thơ" riêng hoặc "bản sắc
" riêng của thơ anh là gì? Anh có thể giúp tôi tìm hiểu sâu đậm hơn không?
Đừng ngại nói về thơ của mình, không ai có thể biết thơ rõ hơn tác giả. Nói về
thơ mình không phải để khoe khoang mà để chia xẻ cùng những ai yêu mến thi ca,
muốn tìm hiểu thơ anh. Trong tinh thần đó, hãy nói về thơ của Đoàn Minh Đạo,
giúp cho ít nhất một người, là tôi, hiểu thêm thơ anh.
Đoàn Minh Đạo:
Chắc là anh không bắt tôi giải thích thơ mình đâu. Vì trước hết tôi
không có khả năng đó, còn giả dụ như nếu có thì sau khi mày mò minh chứng , biện
minh cho ý nghĩa nào đó của bài thơ mình viết sẽ không khỏi có bạn đọc bỉu môi
cho là khéo vẽ chuyện, lại áo thụng tự vái mình nữa thì hỏng to! Ấy là chưa kể
nhiều cái cung cách giới thiệu thơ hiện nay ta đọc có cảm tưởng lạc lõng hoặc rối
rắm vì chẳng nói gì về bài thơ mà chỉ là xưng tụng nhau như anh thấy chẳng lợi
ích gì. Cho nên bản thân tôi thích tìm đọc những biên khảo thơ có tính giáo
khoa hoặc kinh điển hơn, để học hỏi sử dụng như một công cụ giúp mình tìm vạch
cho mình một lối đi trong đường rừng văn học. Ngoài ra có những biên khảo thơ
nhằm mục tiêu khác như khi Heidegger minh giải thơ Hölderlin hoặc Roman Jakobson cùng
Claude Lévi-Strauss phân giải Les Chats của Baudelaire chẳng hạn;
đó là cái nhìn triết học hoặc thi học có thể giúp số người chuyên môn, nhưng lại làm
hoang mang người đọc thơ bình thường, chẳng lẽ mỗi bài thơ lại kết cấu, hàm ngụ
ly kỳ đến thế sao? Nếu chưa cần, tôi nghĩ mình khoan đọc Elucidations of Hölderlin’s
Poetry (Minh giải thi ca của
Hölderlin) của Heidegger mà chọn đọc How to
Read and Why (Đọc thế
nào và tại sao)
của Harold Bloom vì trong đây tác
giả trình bày cách đọc qua những kinh nghiệm cụ thể của ông với một số
sáng tác phẩm văn học giá trị cống hiến ta một mẫu mực đọc nghiêm túc.
Trong sáng tác tôi nghĩ nhà thơ thưởng rải ngôn ngữ mình ra như những
viên sỏi đánh dấu đường đi, những sự kiện, những cảnh quan, những diễn biến…
đây tiếng sáo diều của quá khứ, nọ cơn giao động của địa chấn, kia những bức
tranh vẽ graffiti, và này hương thảo
rosemary ngày qua … một lối mòn mời gọi ta về quá khứ, đưa ta dồn dập vào bão lửa
chiến tranh , cứ vậy đi mãi cho đến khi cùng đường trở về lại ngôi nhà của ngữ
điệu gom lại hành trình ấy, những viên sỏi ấy, ngôn ngữ ấy là dấu vết nói theo
René Char, nó mang cái riêng tư, cái làm cho ngôn từ ấy thành thơ như dấu vết
sau cuộc ma sát của băng hà để lại bên sườn núi, dấu vết chứ không là vật chứng
“Một nhà thơ phải để lại những dấu vết
trên lối mình qua, chứ không phải là chứng cứ. Chỉ có dấu vết mới tạo được mộng
mơ.” (Un poète doit laisser des traces de son passage, non des preuves. Seules
les traces font rêver. René Char.) Vây
đâu là vết đâu là chứng cứ, điều này là câu hỏi ám ảnh người làm thơ:
Cánh cửa mở
toang sự sống
Bước chân
nào qua ngưỡng nhân sinh
Tình yêu là
bờ tường mênh mông ảo hóa
Đất đá
trong ta một niềm thô phác
Thấm mộc mạc
ngãi trầm
Ngưỡng mộ
em nữ thần tư tế
Ai đã đóng
lại khu vườn ngôi đền năm đó
Đầy dấu bay
trên tường và cửa sổ trên cao
Em vút lên
như cánh chim mầu nhiệm
Qua hết rừng
Xuân lũng suối
Dung nhan lấp
từng khoảnh khắc
Bất chợt
lòng tím ngát ngàn mây
Những trưa
ngày mênh mông
Khi mặt trời
đứng trên thiên đỉnh
Con chim lửa
băng giông tố điên cuồng
Trở về tìm
nơi an trú
(Trích Là Cuộc Viếng Thăm.)
Làm sao đuổi theo được con hỏa điểu thần thoại này, ngôn ngữ thơ che dấu
hay xóa đi như đường bay và khi bắt được cánh chim thì đường bay cũng mất! Vây
nói theo như Umberto Eco văn bản phải
khơi mở cho người đọc nhiều ý nghĩa khác biệt. Trong khi đi tìm ý nghiã của văn
bản ta đồng thời nhận ra tính đa dạng, mông lung của nó ngoài ý nghĩa mà tác giả
mong muốn đặt định, điều này làm văn bản luôn sống động và phong phú.ối với ông
một văn bản sáng tạo như cái chai trôi dạt trên mặt biển được tác giả tung vào
không gian đọc. Trong một văn bản sáng tạo như tiều thuyết hay thi ca nhà văn
kiếm cách nào để nói lên tính chất bất
trắc của đời sống vậy (Un texte créatif est comme « une bouteille
à la mer » que l'écrivain jette dans l'espace de la lecture. Dans
un texte créatif, comme un roman ou un poème, l'écrivain cherche à «
représenter la vie dans son inconsistance ». Umberto Eco et l'art de la création
littéraire).Vậy thưa anh, tôi nghĩ sách vở và trường học đã
cho ta những kiến thức cơ bản có công năng giúp ta mở ra những chân trời mới
riêng tư của mình khi đọc văn bản, trước cái lung linh biến ảo của sáng tạo thì
đâu là cách hiểu đúng? Trước cái mênh mông đa dạng đó ai dám cả
quyết mình đã nắm được sự thật thưa anh Ngu Yên? Dù chỉ là sự thật của một văn
bản ? Đáng lý ra nếu phải giải thích một
bài thơ thì không gì hay hơn như thi sĩ Bùi Giáng là hãy làm một bài thơ khác,
cũng đúng thôi mà !
Ngu Yên:
Thật ra, đây không phải là bài phỏng vấn, chỉ là một cuộc chuyện trò,
trao đổi ngắn qua emails, sau khi tôi đọc tập thơ của nhà thơ Đoàn Minh Đạo.
Tôi tạm dừng cuộc trao đổi "thi vấn" này ở câu hỏi cuối cùng: Xin anh
giải thích tựa đề Trầm Tích Biển?
Đoàn Minh Đạo:
Thưa anh giản dị thôi vì đó là tên một bài thơ trong tập. Trong lúc
tôi đang chuẩn bị cho in tập thơ thì lại trùng vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố
30 tháng Tư. Một trong những hệ lụy của sự kiện này là cuộc vượt thoát tìm tự
do lớn lao và bi tráng nhất trong lịch sử dân tộc. Như anh thấy bìa tập thơ là
bức tranh Vượt thoát của nữ họa sĩ
Ann Phong cùng triển lãm ở Little Saigon trong dịp này, chị đồng ý cho tôi dùng
ảnh làm bìa sách. Ngoài sự mến mộ đối với tài năng của họa sĩ Ann Phong thì
tình cờ tôi cũng chia sẻ trong thơ tôi hai thông điệp lớn trong hội họa của chị
là tôn vinh Tự Do và bảo vệ môi trường sống. Hiện nay thời gian cũng tạm đủ để
mọi tình cảm và suy tư của chúng ta lắng xuống như những trầm tích của biển;
trong tâm cảm này chúng ta cần trả về cho lịch sử diệm mạo chân thực của nó để
vững lòng bước tới không mặc cảm vì một tương lai tốt đẹp của dân tộc. Cám ơn
anh về cuộc trao đổi này.
Xin cảm ơn anh Đoàn Minh Đạo đã đưa tôi thăm viếng quanh lề cõi thơ Trầm
Tích Biển. Những người bắn cung giỏi nhất trong lịch sử nhân loại đều có thể bắn
trúng hồng tâm và tim người khác nhưng chưa hề có ai tự bắn trúng tim của mình.
Ngược lại, người làm thơ, phải bắn tim mình trước khi làm tim người khác chảy
máu. Điều này không có gì bí mật nhưng khó làm. Vì vậy, một trong những cách đọc
thơ là tìm đến những giây phút thi sĩ tự bắn trái tim mình để chia xẻ những ý
tưởng và cảm xúc của tác giả. Nếu chia xẻ được tâm trí của thi sĩ trong một bài
thơ, tức là trái tim người đọc trở thành hồng tâm bị bắn trúng. Tôi tìm đến đọc
thơ qua căn bản trúng tim.
Thơ có thơ khó hiểu, thơ dễ hiểu, thơ khó cảm và thơ dễ cảm. Không hẳn
lúc nào những cặp thơ này cũng đi chung với nhau nhưng thông thường phải hiểu rồi
mới có thể cảm được. Gặp bài thơ khó, chẳng những phải đọc nhiều lần và mỗi lần
đọc nên từ tốn và yên tĩnh. Thật ra, không cần phải hiểu toàn vẹn bài thơ vì có
những chi tiết, những đoạn thơ mang nhiều ẩn ngữ hoặc tứ thơ ẩn dụ, khó chiết
giải. Dễ hiểu nhất là đọc "hình ảnh" trong câu thơ và "hình ảnh"
phối trí của bài thơ. Hình ảnh dễ thấy dù tưởng tượng, hơn là ý tưởng vô hình.
Hình ảnh dễ gây xúc động trực tiếp hơn là chữ nghĩa. Dễ cảm nhất là lắng nghe
tiếng nói của thi sĩ nói với họ, không phải nói với người khác. Tự nói với mình
bao giờ cũng thành thật hơn; khi có niềm đau, sẽ cảm động hơn; khi có nỗi niềm
sẽ sâu sắc hơn.
Đừng nhắc nữa
màu quỳnh nở rực lan can mùa Hạ
Đừng đợi
nhau dưới mái hiên mưa
Đừng cất
vang âm điệu xưa lời tình ca cũ
Đừng rở lại
bài tình thơ một thủa thảo trang
Đừng hoang
mang về tình yêu định mệnh
Đừng quên
phong lữ thảo rợp đỏ lửa tình
Đừng xóa phấn
tử đinh hương hoang dại bên đường
Khi yêu
thương ta chỉ còn là nỗi nhớ.
(Trích Trầm Tích Biển)
Và tôi đến với thơ Đoàn Minh Đạo trên lối đi này.
Ngu Yên
Houston
ngày 8 tháng 5 năm 2015.
No comments:
Post a Comment