Mấy ngày hôm nay, buổi sáng nào cũng mù mịt sương. Mùa
Thu ở đây như gợi lại một nỗi niềm nào. Lái xe trên đường, trong cái mù mịt của
đất trời thấy mình như sống lại một thuở nào, ở không gian thời gian nào tuy
thật xa nhưng trong giây phút hiện tại lại thật gần gũi. Cái tâm trạng bềnh
bồng, của tiềm thức chơi vơi trong buổi sáng hôm nay như dẫn từng bước chân trở
về, thuở xa xưa, ngày vừa trên hai mươi tuổi.
Lớn lên ở Sài Gòn, cả một thơ ấu nghịch phá, cả một khung
trời mơ mộng. Những ngã tư, những con hẻm, những cổng trường, những mầu hoa Mùa
Hạ, những xao xác lạnh cuối năm, tất cả đã thành kỷ niệm. Của một thành phố mà
tưởng như chứa cả một phần đời sống của mình. Rồi tuổi đôi mươi, rời khỏi ghế
giảng đường vào lính. Thì một thành phố, tuy heo hút sơn cùng thủy tận, nhưng
lại chan chứa những kỷ niệm của những chàng lính trẻ, ngông nghênh vào đời
tưởng như nắm cả vũ trụ trong tay. Sống ở đó, để thấy nhớ sài Gòn. Nhưng khi
đổi về Biên Hòa gần Sài Gòn thì lại nhớ lại thời gian đã qua. Không nuối tiếc
nhưng đầy bâng khuâng, và cái không gian se lạnh, cái đêm khuya mưa dầm, cái
buổi sáng mù mịt, tất cả trộn lẫn để thành một phong vị khó tả.
Năm tôi lên phố vừa qua cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi,
tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm trường đời
nên thường phản ứng trước những chướng tai gai mắt và theo suy nghĩ của nhiều
vị chỉ huy, tôi là một đứa ba gai cần phải hành hạ để cho vào khuôn phép. Ở đâu
cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy và khi ở đây
lập không đoàn thì cũng là một trong những người khai sơn phá thạch của đơn vị.
Pleiku là thành phố của lính, lại mang nhiều nét thơ mộng
nhất trong đời những người lính xa nhà
Thời gian ở thành phố biên trấn này chỉ hơn hai năm mà
sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm sấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà
vẫn vui. Lãnh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng
lang thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao nhiêu đứa
bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân xác đã
thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây, có sáng mù sương, thấy đời
mệt mỏi như chiếc xe dodge già nua ì ạch leo đầu dốc. Dù rằng tôi lúc ấy chỉ
vừa hơn hai mươi tuổi.
Ngày lên Pleiku, có một bài thơ tôi đã làm như tiên đoán
được cái không gian của biên tái, của những câu thơ như Lương Châu Từ của Vương
Hán thời thịnh Đường xa xưa. Pleiku có khác nào Lương Châu, cũng là quan ải để
trấn giữ biên cương. Ngày xưa thì ngăn giặc Hồ, giặc Mông. Ngày nay, thì canh
chừng ba biên giới, với những trận đánh ác liệt mùa khô hàng năm tiếp diễn… Bài
thơ ấy, làm vào một đêm trước khi sáng mai lên trực thăng vào phố núi.
“Ừ mai tao lên
Pleiku
Đêm căm hơi đá ngày
mù núi xanhUống say quên mộng quẩn quanh
Về nơi gió cát cũng đành cuộc chơi
Ừ mai cánh vỗ ngang trời
Ngóng thiên thu một cõi đời tịnh yên
Máu xương mãi chuyện ưu phiền
Còn đâu tiếng gọi cho em miệt mài
Ừ mai súng khoác lên vai
Ngẩn ngơ phố núi những ngày đao binh
Chắc đâu rượu uống một mình
Trong thân phiêu bạc nhục vinh nửa vời
Ừ mai thương bóng trăng trôi
Chim quên vẫy mỏi cuối trời chiến tranh
Uống đi mai hát quân hành
Nghe trong hơi bốc long lanh mắt người…”
Tuổi trẻ, ngây thơ và bốc đồng. Tưởng rằng, mình như một hiệp sĩ thời xưa đi vào nơi gió cát. Thơ cũng nghênh ngang kiểu “túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tuổi trẻ, ơi những giấc mơ của ngày chân không chấm đất cật chẳng đến giời. Có phải là giấc mơ chung của những người lính trẻ chúng tôi.
Pleiku, một thành phố nhỏ heo hút ở cao nguyên, nhờ thơ
và nhạc, đã thành một nơi chốn đầy thơ mộng. Thành phố ấy, có những tương phản
kỳ lạ. Chiến tranh đã làm phố núi ấy có một bộ mặt, khi thì lãng mạn thơ mộng
với những tà áo dài nữ sinh đi học buổi sớm mai nhưng cũng có lúc đầy nhục dục
xác thịt. Con đường từ phố đến camp Holloway đầy những quán rượu và những cô
gái phấn son lòe loẹt. Và, thành phố cũng đầy những sắc lính. Những người từ
mặt trận trở về, đốt tiền mua vội một đêm vui rồi sáng mai trở lại miền gió
cát. Những người lính đồn trú ở đây, ráng làm quen với cuộc sống ở vùng nắng
bụi mưa sình, trong một giây phút nào, cũng nao nao vì những tà áo trắng buổi
sáng trong sương mù Pleiku, tìm thấy một chút thơ mộng trong đời để làm kỷ niệm
Pleiku, những cuộc tình có thực đầy dông bão của những người lính và những cô gái
giang hồ. Nhưng Pleiku cũng có những êm ái thánh thiện của tình học trò áo
trắng và người lính dạn dầy trong khói lửa. Pleiku có con đường đầy quán rượu
cho lính G.I. viễn chinh nhưng cũng có con đường có hai hàng cây cao vút rợp
bóng lá và những tà áo học trò tung bay theo nắng.
Người làm thơ, có lúc cũng cảm khái vì cái không gian,
thời gian của thành phố ấy. Mưa cũng là cái mưa đặc biệt, mỗi mỗi hạt mưa như
chứa đựng cả những nỗi niềm của tất cả những địa phương xa lạ thu góp về. Nắng
cũng là cái nắng không phải của một nơi chốn nào khác, nó mang đến cái hanh hao
khó chịu nhưng cũng trong màu nắng ấy lấp lánh những tình cảm thầm thì khó tả.
Lạnh cũng chẳng phải là cái lạnh lẽo bình thường mà hình như cỏ cây, đường phố,
núi non, ở đây cũng se mình và chia sẻ chung vui buồn với con người.
Trong giây phút hiếm có trong đời, cảm xúc đã làm ngôn
ngữ tăng thêm lôi cuốn và tạo nhiều ấn tượng. Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân
của cuộc chiến, làm thơ như một cách thế sống, đã coi công việc viết như một
phần của đời người. Sống ở Plei ku và viết những bài thơ để gửi Plei ku. Thơ
ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động
bềnh bồng của tâm tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc
dáng một chàng cuồng sĩ.
Đọc bài thơ “Hoa Quì Vàng Lạnh Pleiku”, tự nhiên tôi như
người trở về thời gian ấy, không gian ấy. Trở về những ngày tuổi trẻ, của những
giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi. Cái lạnh, chưa hẳn là lạnh
lẽo Mùa Đông, mà còn chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của Mùa Hạ. Lạnh ở bên
ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên trong. Sương mù ban đêm trên đỉnh cao
nhìn về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm nhìn vời vợi.
"Đứng trên núi thấy
hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt
lạnh mấy nghìn năm Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Đã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó”.
Tôi cũng đã sống ở Pleiku gần ba năm. Thời gian ấy trong hơn tổng số bẩy năm ở lính của tôi chắc là đáng kể và đầy chật những điều đáng nhớ. Ngày đầu tiên khi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong óc của Kim Tuấn, Du Tử Lê, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn. Thơ tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm, của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực. Nặng tê.
Đọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn tôi chỉ thấy có hai
câu nói về mầu hoa quì vàng. Thế mà cái mầu sắc hoa man dã ấy chỉ một nét
thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Mầu vàng, có khi là mầu vàng lạnh, nhưng
có khi là mầu nóng chói chang của nắng.
“Phố núi kia ơi,
một đời phố lạnh.
Lạnh hoa vàng, núi
đỏ, thác đèo cao.”
Hoa quì vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa
cúc, tôi đã nhìn thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Mầu vàng,
mênh mang trên những ngọn dồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất. Hoa
quì, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt
ngàn dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng
khó quên cho cảm xúc. Ơi hoa quì, mầu vàng không phải kiêu sa như mầu hoàng cúc
của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của thiên nhiên. Hèn
chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa quì vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp,
như Kim Tuấn.
Người thơ kể chuyện của mình, một câu chuyện có lẽ rất
quen tai của những người lính thú. Cũng đi xuống, đi lên, cũng loay hoay bồn
chồn như những chàng gà trống…
“Đời lang bạt của
một người lính thú
Sáng hôm qua tôi là
người thiếp ngủ Đi một mình lên xuống phố mù sương
Phố núi kia ơi, phố có con đường
Lên xuống dốc tìm không ra bạn hữu
Không có bạn tôi làm sao uống rượu
Tôi làm sao sống nổi một ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy
Nhìn gã lính không khác gì gã lính”.
Không có bạn tôi làm sao uống rượu. Tôi làm sao sống nổi một ngày đây. Nghe như một câu nói thường ngày, không có chất thơ mà sao nghe tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của người thơ đã lên cao độ, và, nỗi lạnh lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có nỗi nhớ mong, có niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ lưu lạc ở đâu?
“… Tôi vận rủi làm một người lãng đãng
Ngó mông hoài khuất
bóng của người em Sáng hôm nay đời sống thật bình yên
Sao phố lại đuổi đi người yểu điệu
Vườn đá tảng bàn chân em huyền diệu
In gót hồng lên lớp bụi đời tôi
Là từ khi tôi hạnh phúc rong chơi
Và quên lãng con thú mù phẫn nộ
Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ
Một hàng đèn sáng lạnh cõi bi hoang”.
Bài thơ thứ hai tôi đọc để nhớ Pleiku là của Nguyễn Xuân
Thiệp, bài “Pleiku, Tháng Ba 1974”. Ba mươi năm trôi qua, nhưng ngày tháng đó
vẫn còn sinh động. Thơ, không ghi chép lại nhật ký ngày tháng mà sao đầy dấu
viết của một quãng đời. Ngày ấy, lửa cháy đỏ. Ngày ấy.
Người thi sĩ kể chuyện một mình. Đâu cần ai hiểu, chỉ để
nỗi niềm loang vào sương đêm thành nỗi nhớ mịt mùng.
cơn sốt của trái chín và cánh đồng
trận gió hung trưa ngày ấy
cầm bút viết. đồi
hoa quỳ vàng
tháng ba xuống khu
rừng. bóng quạ rung những nhánh cây màu tàn lửa
tiếng thét hư không. chiều rượt qua ngàn”
Những hình ảnh
đan vào nhau với những liên tưởng tiếp nối. Ảnh tượng có khi như không liên
quan nhau, chỉ là những nét phác sơ lược nhưng lại làm nổi bật được một không
gian đầy biến động. Đồi hoa quỳ vàng, khu rừng, bóng quạ, nhánh cây màu tàn
lửa, tất cả như chìm đắm trong nỗi bàng hoàng của thế thời. Cơn bão lửa dậy lên
từ hoang vu.
“tháng ba, chân
trời chớp tía
những chuyến xe lên
đường, cơn mưa chợt đến rào qua mái nhà, bàng hoàng. mưa ngưng bặt
đêm. những căn nhà gỗ sáng đèn.
tháng ba. trên đồi vông nở
tôi trở về thị trấn tháng ba
những sợi dây trời cắt đau trí nhớ
cườm tay em nhỏ máu hè xưa”.
Xa rồi những ngày thơ mộng. Gần lắm rồi những nỗi kinh hoàng. Cái linh cảm của một cuộc địa chấn là cái linh cảm chung của những người như những con chuột đang cuống cuồng trong rọ. Thị trấn sẽ thành biển lửa, nay mai. Sẽ đầy những cuộc chia ly đầy nước mát. Thảm họa sụp xuống, như cơn hồng thủy đến.
“… vò nát chiếc khăn. và đừng khóc
chiều nay. chớp bể mưa nguồn
chia tay nhau. sương phụ
người đi. râu bám bụi đường
tháng ba. em. những căn nhà gỗ
ánh đènkhuya. vệt máu hè xưa
đừng tiếc chiếc khăn tay ngày ấy
sẽ bay trong lửa
hoàng hôn
tháng ba. cơn giông
rền mặt đất.”
Đọc xong hai bài
thơ, tôi như người hụt hơi. Đời sống, như một hơi khói nhẹ, loãng bay vào hư
không. Tự nhiên, thấy lòng mình chùng xuống những kỷ niệm. Những bài thơ. Thuở
đã xa. Ngày còn trẻ. Và hoa quì vàng, cái màu vàng loang sắc nắng của buổi nào,
bây giờ có còn vương trên núi đồi không? Cái sắc màu hỏa hoàng trong những buổi
chiều nhạt nắng ấy sao nhức nhối ký ức. Thị trấn ấy, như câu thơ Vũ Hữu Định:
“Phố núi cao phố
núi trời gần
Phố xá không xa nên
phố tình thân
Đi dăm phút đã về
chốn cũ Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
Nên mắt em ướt và tóc em ướt
Da em mềm như mây
chiều trong”.
Thơ về Pleiku thì nhiều, nhiều lắm. Kim Tuấn,
Diên Nghị, Du Tử Lê, Võ Ý, Lê Bá Định, Lâm Hảo Dũng… đã trải lòng mình lên
thành những rung động thật với nơi chốn mà mình đã qua hoặc gắn bó. Pleiku,
nhắc đến nó để nhớ lại một thời lửa đạn. Và, nếu có người sưu tập thành một
tuyển tập có chủ đề về nơi chốn ấy, chắc sẽ có một quyển sách cả ngàn trang mới
mong đầy đủ hết thơ văn của những người hoài vương vấn với mưa sình nắng bụi
cao nguyên.
NGUYỄN MẠNH TRINH
(Nguồn: Hôi Quán
Phi Dũng)
No comments:
Post a Comment