CÂY QUẾ GIỮA RỪNG
Nguyễn Xuân Hoàng, Sổ tay tháng 3, 2000 cho rằng “Nguyễn
Đình Toàn là một trong những nhà văn được yêu mến nhất của Sài Gòn trong những
năm trước 1975.”
Phải hay không tùy nơi mỗi người đọc, nhưng để làm nên một
tên tuổi Nguyễn Đình Toàn, những hàng chữ đó phải có riêng một sắc thái, ghi
lại được trong lòng người đọc một hình ảnh.
Những ai đã từng quen biết giao tiếp, có lẽ sẽ nhận ra phần
nào hình ảnh của NĐT nơi Không Một Ai.
“Giấc ngủ trở nên ẩm ướt, đôi khi tôi không phân biệt được
những gì mình đang nhìn và nghe thấy là trong lúc thức hay mê ngủ. Những tiếng động gõ mãi vào tiềm thức, đôi
khi chợt tỉnh dậy trong đêm khuya, nghe cùng một lúc tiếng mưa gió bên ngoài và
những tư tưởng, thân thể ngỡ trôi trong cõi mù mịt nào, ngỡ như mình đã
chết. Mưa trong cõi trong và cõi ngoài
dìm tâm trí hẳn vào cơn ảo giác. Thân
thể cùng một lúc nhẹ tênh như chiếc bong bóng trôi trên mặt nước hắt hiu những
lau sậy, ao ước được thay đổi, thay đổi cái bầu không khí đang thở, thay đổi
những nỗi mờ ám đang bám trên các vật dụng nhìn thấy hằng ngày, thay đổi cách
sống, thay đổi cái nhìn…
…Tiếng người ho, kêu la trong các dãy nhà thấp. Vẫn cái mùi hôi ẩm mốc, của cái chết, những
vết thương tấy sưng… Những đệm giường
cáu ghét loang lổ, bao nhiêu người đã nằm, đã chết, bao nhiêu người còn sống…”
(Không Một Ai, 9, 74-75, trích dẫn bởi Tạ Tỵ)
Chính hình ảnh tự thân đó cũng là một vết cắt vào cuộc sống,
vì NĐT thường để lại nỗi bất an thê thảm trong lòng người đọc khi gấp
sách. Hoặc đó là nỗi vui mơ hồ không tên
của một cái chuyện cỏn con: cô gái nghe người ta gợi ý muốn hỏi cô làm vợ_gợi ý
thôi, không hỏi thẳng, và chính cái mơ hồ đó nuôi niềm vui và nỗi xôn xao của
một cái gì sắp đến (Giờ Ra Chơi); hoặc đó là sự thất lạc chính mình, chính cái
điều mình tha thiết: Hà của Ngày Tháng đi mua sắm cùng Vinh chuẩn bị cho một
cuộc chia tay, nhưng một lúc sao quay lại chỉ thấy còn có mình, Vinh đã biến
mất; hoặc đó là tuổi già của mình, của đám đông mà mình tự thấy trước:
“Không, không phải chỉ là cái ham muốn thông thường của dục
vọng, nhưng hình như nó đã làm rung rinh cả nỗi bi thương bưng bít trong lòng
ta cùng với cái chết.
…Đã từ lâu ta ngắm đời sống, và đời sống diễn ra trước mắt
ta trong sự ngó nhìn im lặng đó, diễn ra lặng lờ như ở bên kia một tấm kính
trong, không còn một hoạt động nào bên trong nữa, ta muốn nói phía bên này tấm
kính. Đứa con gái đã lạc vào cái chỗ kín
bưng của ta bên này và khua động lên, làm ta không còn kịp nhận ra phương hướng
của mình nữa…
…Không lẽ con không hiểu được, không bao giờ có thể hiểu
được nỗi đắng cay trong lòng ta, không phải chỉ là sự nặng nề trong một cái
thân thể đã tàn tạ nhưng chưa thỏa, nhưng mà vì ta còn muốn hút lấy cái đời
sống còn đầy nơi con, cái đời sống mà ta đã kiệt quệ, cái đời sống chỉ có thể
lấy từ một người khác, cái đời sống không còn có thể truyền tiếp nữa, như con
ong hút lấy mật của một bông hoa, điều đó chắc con không biết được, đời sống ta
hiện giờ như ngọn đèn cháy trong không…”
Đêm Lãng Quên, trang 23-35, trích dẫn của Tạ Tỵ.
Không thê thảm méo mó hay sao, những hàng chữ đó? Tạ Tỵ, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, cho
rằng “Nguyễn Đình Toàn đi vào văn chương không với tư thế kẻ nhàn du. Mỗi bước chân như in đậm vào mặt đất sự khó
nhọc, vất vả của kẻ tìm đường…”
Nếu chữ là người, thì nơi Ngày Tháng đặc sệt suy nghĩ tâm tư
của NĐT về cuộc sống: cuộc đời vô nghĩa,
những cái hạnh phúc nhất hay khổ đau nhất, hay gì gì đó của sự sống là vô
nghĩa, chỉ có phút giao hòa thể xác là có ý nghĩa nhất, linh thiêng nhất, không
chừng là duy nhất, của sự sống, và tất cả mọi hiện hữu trong cõi đời này (luôn
cả sự giao hòa ấy) đều chỉ để khẳng định một giá trị tuyệt đối: cái chết. Nhân vật của NĐT luôn mang nỗi bất an, một nỗi lo mình không
tạo được một kỷ niệm một sự thân yêu nào giữ mình dính liền với mặt đất_ hoặc
với một ai đó. Bên cạnh, là nỗi ám ảnh
vong thân, mất quê hương. Những suy nghĩ
về mình đâu đó rồi cũng dẫn tới số phận quê hương, căn phần của cả một dân tộc,
một mảnh hồn chung. Đây là một điều mâu
thuẫn biểu lộ ra từ cái viết. Có thể nào
một người hoài nghi sự sống, sự hiện hữu của mọi điều từ bản thân cho đến từng
cái li ti mình nhắc đến, lại lo vong thân, lo mất quê hương? Có thể nào một người cho mọi sự là vô nghĩa
lại tôn thờ những giây phút giao hòa?
Nơi những hàng chữ, NĐT cho thấy một tâm hồn lãng mạn lồng trong
tiếng kêu tuyệt vọng thê thảm của ngày lập lại đời lập lại.
Ở Ngày Tháng con người
NĐT hiện ra rõ nhất: vừa sống vừa
yêu vừa nghi ngờ tất cả, có lẽ điều tinh tuyền nhất thật nhất chính là cảm xúc,
dù nó mơ hồ và biến mất còn nhanh hơn sự sống.
Và, chính nơi Ngày Tháng mà con người thực của NĐT
phản bội vai trò nhà văn mà chính ông chọn lựa: NĐT
trong thực chất là một nhà thơ, chỉ là một nhà thơ, phải là một nhà
thơ. Mọi trang văn xuôi ông đã viết một
cách khó nhọc đều chỉ để nói tiếng nói của một hồn thơ, cái nhìn của một hồn
thơ. Hồn thơ đó nói “ở cái mùi tanh hăng ngửi thấy,” “đời sống ứa
nhựa hay cái chết tự vắt mình,” NĐT có cách nói diễm ảo như những lời thơ của
Tagore, của Neruda, mà chính ra mình có thể tìm thấy ngay trong Ngày Tháng hình
ảnh của “bông hoa lửa ướt” (“anh hôn trên đó và anh cho tôi cảm tưởng nó là
bông hoa của đời tôi”) hay “khi thần chết đến gõ cửa, tôi sẽ không để hắn về
tay không,” hoặc mang chút Sagan “trên tay anh tôi ngửi thấy mùi của thân thể
tôi.”
Ngày Tháng cũng không thiếu cái dự cảm về sau, cái cảm nghĩ
phải sống thêm khi đời đã hết của 1968 lập lại trong Đồng Cỏ 1973, và thực sự,
mọi dự cảm đều chỉ là mặt biểu hiện của một con người quá mẫn cảm, ý thức quá
rõ cảm xúc và suy nghĩ của mình cũng như thấy tận đáy hồ nước của cuộc đời với
mình là cọng rong buồn trôi nổi. Nguyễn
Đình Toàn lưu lại nơi chữ viết những nỗi mệt nhọc chán chường, những lời tình
tự một mình.
Nơi cái viết, phải đâu NĐT trau chuốt văn hoa, phải đâu lúc
nào cũng tràn đầy súc tích. Nhưng chính
ở những câu lủng củng khúc khuỷu hay những màu mè cố tình nhấn mạnh (“Mưa trong
cõi trong và cõi ngoài” (Không Một Ai), “[anh] ấy đã chết thật ở trong tôi và ở
ngoài tôi” (Ngày Tháng)) mới thấy sức nặng của những trăn trở dằn vặt… Chỉ cần đọc những trích dẫn của Tạ Tỵ thôi,
cũng thấy rằng ở bất cứ truyện nào cũng có thể nghe ra cái chán chường, cái
chiều kích bất an thê thảm của cuộc sống.
Và như vậy phải chăng tiểu thuyết Nguyễn Đình Toàn monotone và khô kiệt
vì đã quá chắt gạn? Tạ Tỵ nói:
“đọc văn Nguyễn Đình
Toàn, không thể đọc mau, đọc lướt, mà phải đọc trong lúc tâm hồn thật thanh
thản và có khoảng thời gian rộng trước mặt, người đọc mới thấu triệt được hết
cái hay của văn chương. Văn của Toàn
không mang theo dòng gió hay bão táp… Có
người nói, văn Nguyễn Đình Toàn nặng vì chuyên chở quá nhiều ý nghĩ”.
Đó chính là cái mà Nguyễn Mạnh Côn bực bội:
“nghĩ ngợi nhiều quá, đào xới nhiều quá… Tôi muốn nói Toàn phải mở rộng suy tư để mở
rộng con đường sáng tạo. Toàn cũng không
thể vội quá, chắt gạn nhiều quá, vì như thế có thể làm khô cạn bất ngờ những
ngọn suối đem chất liệu cho tác phẩm.”?
Nhưng Nguyễn Mạnh Côn cũng như Mai Thảo đều phải công nhận,
Nguyễn Đình Toàn viết trước hết là viết cho chính mình, đi một mình một con
đường cho dù có bạn đồng hành hay không, có người thông cảm hay không.
Một mình, như cây quế giữa rừng. Có lẽ không ai hiểu Nguyễn Đình Toàn hơn
Huỳnh Phan Anh:
“Có thể nhà văn chỉ có một tác phẩm để viết và viết rất
nhiều lần trên chính tác phẩm đó. Có thể
nhà văn chỉ là kẻ đi trên chính những bước chân của mình. Viết và viết lại, viết lại mãi không thôi một
ý tưởng chưa hoàn thành, một tác phẩm hoài hoài dang dở. Phải chăng tác giả đã viết Ngày Tháng trước
tiên chỉ để viết lại một tác phẩm đã viết rồi, thí dụ, Con Đường. Do đó, đọc Nguyễn Đình Toàn, cũng như đọc Mai
Thảo, đọc Thanh Tâm Tuyền tức là đọc lại một lần nữa (=một lần khác) một tác
phẩm đã đọc, để một lần nữa yêu mến tác phẩm đó như một sự sống, không như một
cái gì đã chết. Đọc Nguyễn Đình Toàn gặp
lại một đời sống, một kinh nghiệm về đời sống với những câu hỏi những gian
nguy: đời sống như một cản trở đời sống.” Huỳnh Phan Anh, Đọc Ngày Tháng, Văn
số 125, phát hành ngày 1 tháng 3, 1969
“…Sau cùng, người ta đọc Ngày Tháng cũng như người ta viết
Ngày Tháng: trong sự mệt mỏi (của ngôn từ? của đời sống?).” (Đã dẫn).
Ai ăn mới biết, quế nó cay!!!
RIÊNG MỘT CON ĐƯỜNG
Cây quế giữa rừng, chỉ một mùa tang là hương là sắc tan.
(Phạm Duy, trường ca Con Đường Cái Quan).
Cả một rừng hương sắc ấy, không chỉ quế chỉ trầm, đã tan; mọi thứ cỏ cây
cùng chung số phận. Nhưng có lẽ cũng nên
dừng lại, nhìn lại con đường mà NĐT đã đi một mình ấy, để thấy rằng dù sao,
cũng ngẫu nhiên, cái mà Nguyễn Mạnh Côn nói_ngẫu nhiên chỉ là kết quả chứ không
phải khởi xướng, cái mùa tang ấy về sau này lại là điều tái ông thất mã cho
riêng Nguyễn Đình Toàn.
Nhìn vào con đường của văn nghệ, Nguyên Sa (MBHCVN) đã chỉ
ra:
“Đứng trong thế giới văn nghệ Tây phương, anh ‘dấn thân’ là
‘dấn thân’ luôn, anh ‘vị nghệ thuật’ là ‘vị nghệ thuật’ luôn. Anh ‘tả chân’ cứ ‘tả chân’ cứ ‘tả chân’ mãi,
anh ‘hiện sinh’ liên tục ‘hiện sinh.’
Văn nghệ của ta không có như thế…
Tôi cho rằng cứ ‘dấn’ hoài thì mệt lắm…”
Nguyễn Đình Toàn có vẻ cũng thấm mệt với cái chán chường
tuyệt vọng (không còn có thể tuyệt vọng chán chường hơn!!!!) Càng về sau, những truyện mà Tạ Tỵ liệt kê
những năm 1970, 1971 càng ít mang cái thê thảm nội tâm, những con chữ ít đi những
chắt gạn của suy tư. Bây giờ NĐT viết
gần với xã hội hơn dù giọng văn không đổi (đã rằng mình đi một mình một con
đường!!). Những câu chuyện tình, NĐT chỉ
viết chuyện tình, vẫn mang những âm điệu riêng của tình yêu, những lời tình yêu
tuôn ra từ mạch sống. Nhưng bớt thấy
cùng đường, hết thấy cái sân sâu cô quạnh gọi mời mình gieo thân xuống cho nát
tan khối trăng trắng nho nhỏ nơi đầu, bớt thấy ngày lập lại không lối ra, bớt
thấy người cất tiếng gọi người mà chẳng gieo được một âm vang. Những năm bẩy mươi, trong tiếng nhạc loạn
cuồng của hippy của nhạc trẻ, trong cái te tua của quần áo, cái hốt hoảng bỏng
rát của lửa chiến tranh, dường như NĐT cũng đã phải nhảy qua một mạch sầu khác
chứ không thể cứ tà tà chầm chậm sầu đời trong một cõi riêng biệt mù tăm.
“Cầm bằng như tất cả
mọi sự rồi cũng tan tành mây khói cả, cầm bằng như cuộc đời được xếp đặt đúng
như ý anh, cầm bằng như kẻ trước người sau ta đều không gặp mặt, và đời chỉ
ngắn ngủi như một hơi thở, tại sao mình lại không tìm cách kéo dài những cái
phút tạm gọi là hạnh phúc cụ thể đó”
(Không Một Ai, 155, trích dẫn bởi Tạ Tỵ)
1973, Nguyễn Đình Toàn hoàn tất Đồng Cỏ và Áo Mơ Phai. Không hẹn, mà cả hai truyện đều mang cái dấu
ấn của mất mát, một đã mất và một sẽ mất, vì thời cuộc.
A ha, nhà văn chân đã chạm đất, không còn làm người đi trên
mây. Cô Phụng bây giờ không chỉ săm soi
ý nghĩa cuộc đời cô đang sống. Cô còn
phải gom góp và tạo thêm để chuẩn bị cho ngày sẽ mất những cái cô đã từng săm
soi tra gạn. Nhìn bao quát, Đồng Cỏ như
báo hiệu NĐT đã chán cuộc chơi, như đã đến lúc phải rẽ một con đường khác, nếu
còn muốn viết. Và Áo Mơ Phai chính là
cái vẫy chào kết thúc một cuộc chơi, cái đỉnh của nghiệp viết.
Không phải vì giải thưởng.
Hãy lùi ra và nghĩ lại. Tại sao
bây giờ, gần hai mươi năm sau, nhà văn mới viết xuống cái ám ảnh về một thành
phố đã mất? Là cái dự cảm sắp mất nhắc
nhở thêm nỗi đau đã mất? Đã tới lúc phải
đóng cái triện vào tập hồ sơ kỷ niệm hằng mở tung dang dở và gấp lại? Sau hơn mười năm viết lách, sau những lời tràn
lan khó nhọc chán chường bây giờ tuôn ra một mạch những giòng sương trắng êm mơ
về một kỷ niệm cũ? Closure, nhà văn đã
đóng cánh cửa quá khứ hằng đi theo giành sự sống với hiện tại. Nơi Áo Mơ Phai, nhà văn hình như giã từ cuộc
chơi trở về nguồn cội quê hương của chính con người mình, một nhà thơ với giòng
máu lãng mạn luôn chảy trong huyết quản.
Chính khi đọc những đoạn trích từ Áo Mơ Phai của Huỳnh Phan
Anh mà mình nhận ra cái chất thơ trong
câu văn của NĐT, một câu thơ viết dài.
“Tháng sáu chưa hết nhưng mùa Thu đã đầy hơi lạnh. Buổi chiều im trong căn phòng bước ra tới của
Tòa Đô Chính, Quang đã có thể trông thấy sương mù trên mặt hồ Gươm.”
Phải nói rằng rất nhiều đoạn, khi đọc tách ra khỏi toàn
truyện, đều có thể mang đến cho mình cảm nghĩ đây là một bài thơ viết dài bằng
văn xuôi.
“Những hàng cây xa tít tắp dọc theo các khu phố trong một
ngày, trong một chiều, bao nhiêu lá tưởng như biến thành hoa hết, bởi tất cả đã
vàng óng, rồi cũng trong một chiều khác, những khóm lá như tấm áo của thành phố,
phai thêm một lần nữa trút khỏi cành như những giấc mơ rời bỏ những vầng trán
khô cằn, giống như những sợi tóc rụng khỏi những cái đầu đau ốm.”
Đọc, với những âm vang ngân nga trong đầu sẽ nghe được cái
âm điệu thơ của những đoạn văn đó.
Câu hỏi ban đầu, Áo Mơ Phai được giải thưởng vì lý do gì,
vẫn còn đó cho ban chấm giải, đó là vấn đề của họ. Nhưng riêng với người đọc, họ có thấy nó xứng
không? Thử nhìn bằng ý kiến của Nguyên
Sa (MBHCVN).
“Tác phẩm độc đáo có những đặc tính gì?... Không có tiêu chuẩn chính xác tuyệt đối
nào… Không có một giải đáp, một câu hỏi
dứt khoát nào. Có nhiều, câu đầu tiên có
thể là: nó phải nói lên điều gì chưa ai nói bao giờ. Và ‘điều chưa ai nói bao giờ’ đó, trước hết
là đề tài mới… Những tác phẩm… được kể
là ‘mới’ thường được hướng về một trong hai loại đề tài mà tôi tạm gọi là đề
tài lớn và đề tài cá biệt.
Đề tài lớn có hai loại: tình yêu và chiến tranh…
Đề tài cá biệt nói lên điều chưa ai nói bao giờ… Khi một tác giả đã chọn một đề tài cá biệt
nào đó để xây dựng tác phẩm thì không ai có thể trở lại đề tài ấy được
nữa. Nói đến đề tài ấy người ta nghĩ
liền đến tác giả ấy. Nó là nhãn hiệu của
tác giả.
…Nhưng để làm mới, để khám phá một đề tài thật sự độc đáo,
yếu tố quan trọng hơn bất cứ sự phối hợp tinh tế nhất, thông thái, công phu
nhất có lẽ là sự sống thật… Đề tài ấy
phải là sự sống thật của nó, phải được bột phát từ đáy sâu cuộc đời và tâm hồn
người sáng tạo… không phải chỉ vì ý muốn làm mới.”
Áo Mơ Phai hình như có đủ những yếu tính mà Nguyên Sa bàn đến. Sống với Hà Nội bằng trọn tâm hồn và suy
tưởng, NĐT đã soi rõ và làm hiển lộ chiếc áo thời tiết của Hà Nội. Không còn ai muốn nói đến và chắc không thể
nói hơn NĐT về chiếc áo thời tiết mù sương ấy của Hà Nội nữa. Xuân Diệu đã mất một phần, Hà Nội đã thêm một
dáng vẻ, thêm được áo mơ phai, và người đọc, người yêu quê hương yêu mến phần
đất ấy, được tất cả. Xứng không? Quá đi chứ.
Và như vậy, sau Áo Mơ Phai có vẻ là con đường văn chương của
NĐT phải rẽ qua ngõ khác. Nguyễn Đình
Toàn nói như vầy: “[đối] với nhà văn mỗi cuốn sách là một kinh nghiệm thử cách
viết. Áo Mơ Pha là lần thử thách thứ 13
hay 14 gì đó, mỗi sự thử thách là một kỹ thuật mới. Mỗi tác phẩm đã viết ra như một que diêm đã
được đốt cháy, nhà văn có bổn phận phải sáng tạo. ” Và nói như vậy rồi, cái cổng ra đã thấy gần
trước mắt, chỉ còn vấn đề chọn lối đi nào.
Đã có người chọn dùm, cho cả miền Nam. Chính qua giấc ngủ mười năm, con người thực
của NĐT được dịp sống lại với ước mộng cũ: “Trước khi trở thành nhà văn tôi mơ
trở thành nhà soạn nhạc hay ca sĩ.” A
ha, Nguyễn Đình Toàn. Nhà văn đã đi con
đường khó nhọc của văn chương để đến với cái ước mộng trong tầm tay của thuở
ban đầu. Cái thuở nhạc chủ đề.
Nghe lại một số bản ghi âm chương trình nhạc chủ đề cũ, nghe
lại cái giọng nhão mềm với những lời ươn ướt khói sương tôi nhớ những 8, 9 giờ
đêm nằm trong mùng nhìn ánh trăng chiếu qua song cửa sổ nghe chương trình thi
văn tao đàn qua cái ra dô nhỏ nơi đầu gối của Ba. Một không khí, một niềm cảm xúc, của thời tạm
gọi thanh bình, của hậu di cư của hậu chia cắt, của làn gió nhẹ sau nắng hè
gay, khi những bông daisy đã bén mầm nở bung theo chiều nắng ấm trên những
khoảng đất khô trống của miền đất mới định cư, cái không khí thanh bình dẫu tạm
bợ nhưng như một hy vọng vững bền với một cơ ngơi vừa đủ kín gió sương và những
cuộc đời bắt đầu tất bật cho một sự cắm rễ…
Nguyễn Đình Toàn đã cất cái tiếng mềm mỏng hơi nhão, đọc những lời thơ
xuôi song song với một bài hát. Trên bề
mặt nó là văn chương, là những lời thơ tụng.
Ở bề sâu lắng, nó là một cách cảm nhận mà NĐT đã chia sẻ.
Tồn tại qua thời gian là một note nhạc câm mà NĐT đã gieo
xuống cho mỗi bài hát, mỗi giọng hát mà ông tuyển chọn. Tồn tại một note nhạc câm ấn định ra một cách
thế nghe nhạc, khi người ta áp tai vào radio hay nghe riêng trong phòng hay
bằng loa riêng, chỉ để nghe một mình những lời thủ thỉ không phải cho
mình!!! Những ca khúc ấy và những giọng
hát ấy, sau khi đã vào chương trình nhạc chủ đề thì trở thành một bộ ba, với NĐT
viết lời dẫn ngay trên dương cầm rồi ghi âm ngay tại chỗ, và ca sĩ chân trần
trước micro phone hát với nhạc công. Cái
bộ ba lời dẫn_bài hát_giọng hát, rồi cũng thành những note nhạc câm trên con
đường thiên lý.
Bây giờ, sau một mùa tang, sau giấc ngủ mười năm, Nguyễn
Đình Toàn không còn làm một keynote, note khởi đầu trước khi một ca khúc được
hát lên, note định ra hợp âm nào sẽ làm nền cho ca khúc. Những note nhạc câm của lời dẫn nay thành
hàng trăm ca khúc, kêu lên tiếng khổ đau của một giai đoạn lịch sử. Đau mất quê hương, đau chia cách, đau phụ bạc
nhau như một ân tình. Đau mình phải đánh
mất chính mình để tồn tại, đau một vết chàm tự vẽ,…, you name it!!!!
Nhạc NĐT không cao siêu âm nhạc, nó chỉ là một công cụ cho
tác giả, cho mình, cất tiếng khổ đau, những tiếng khổ đau thật văn chương. Mình gặp nó hay nó bắt được mình đều mang
cùng một kết quả_giọt nước mắt tuôn.
Giòng máu lãng mạn tuôn ra theo note nhạc, những chắt gạn
của suy tư của ngôn từ thơ nay trở thành ca từ.
Từ thức lạc trần, Nguyễn-Đình-Toàn-nhà-văn đã đi hết cuộc
rủi may, đã chơi trọn cuộc chơi. Là thơ,
là văn, là nhạc, cái gì NĐT cũng làm một cách rất cá biệt, như mảnh chai trong
cát mịn, như đá cuội trên đường đất khô, làm khó chịu những bàn chân muốn đi
trên một con đường êm, muốn đi theo những lối quen. Và vất vả cho những kẻ phải đi lại trên con
đường riêng ấy!!
Nhưng tôi vui lòng ngậm ngải tìm trầm, dẫu khói vương nơi
mắt.
Khói trầm.
Khói trầm cay đôi mắt.
Lưu Na
09/24/2012
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dương Nghiễm Mậu.
Tuổi Nước Độc. 1965.
Truyện dài của Dương Nghiễm Mậu, mẫu bìa của Văn Thanh, do
tập san Văn xuất bản lần thứ nhất. In tại nhà in riêng của Văn, xong ngày
28-01-1966. Ngoài ấn bản thường, có in riêng 50 cuốn đặc biệt trên giấy trắng
mịn dành cho tác giả và nhà xuất bản. Giấy phép xuất bản số 4809/LCBC3/XB, Sài
Gòn ngày 15-11-1965. Giá 20đ. Bản điện tử do talawas thực hiện dưới sự cho phép
của tác giả.
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=13548&rb=08
Đoàn Xuân Kiên. Có
một thế hệ văn học mới cũng đang “đoạn tuyệt để lên đường”?
http://ttntt.free.fr/archive/dxkthehevanhocmoi.html
Huỳnh Phan Anh. Đọc
Ngày Tháng.
Văn số 125, ngày 1 tháng 3, 1969.
Huỳnh Phan Anh.
Nguyễn Đình Toàn qua Áo Mơ Phai.
Văn Học, ngày 10 tháng 2, 1974.
Mai Thảo. Chân dung
mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam.
Nguyên Sa. Một Bông
Hồng Cho Văn Nghệ
NXB Trình Bày, Sài Gòn, 1967. Bản điện tử do talawas thực
hiện.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8832&rb=08
Nguyễn Đình Toàn. Ngày Tháng. 1968
An Tiêm xuất bản lần thứ nhất, ngoài những bản thường còn in
thêm 20 bản trên giấy quý dành riêng cho tác giả và nhà xuất bản. In tại Đăng
Quang, 734A Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Giấy phép số 755 BTT/NT/NHK/QN ngày
27.4.1968. Bản điện tử do talawas thực hiện.
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=11795&rb=0501
Nguyễn Đức Tùng.
Những kỷ niệm của tôi về văn học miền Nam. Apr 29, 2004
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=957F251E105B1A776774BC2058C3DAB7?action=viewArtwork&artworkId=9149
Nguyễn Hiến Lê. Hồi
Ký, tập II. Nhà xuất bản Văn Nghệ,
California, USA. 1990
Nguyễn Mạnh Côn. Đọc
sách mới. Con Đường_tác giả: Nguyễn Đình
Toàn, người đọc: Nguyễn Mạnh Côn.
Văn, ngày 15 tháng 10, 1965.
Nguyễn Vy Khanh. Thế
Kỷ Tiểu Thuyết I và II. 2001
www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16160
www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16161
Nguyễn Xuân Hoàng. Sổ
tay tháng 3, 2000.
http://vanmagazine.saigonline.com/HTML-N/NguyenXuanHoangST/STNguyenXuanHoang200003.php
Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt
văn nghệ hôm nay. 1972
Lá Bối ấn hành lần thứ nhất. Bìa của Đinh Cường. In xong tại
Việt Hương ấn quán, 34 đại lộ Lê Lợi, Sài Gòn ngày 29-1-1972. Giấy phép SPNHT
số 4452 BTT/PNHT, ngày 20-9-1971. Ngoài những bản thường có in thêm 50 bản trên
giấy quý dành riêng cho nhà xuất bản và bạn văn của tác giả. Nhà xuất bản Lá
Bối. Lô 0, số 121, Chung cư Minh Mạng, Sài Gòn 10. Giám đốc sáng lập: Nhất
Hạnh. Thư từ xin đề ông Võ Thắng Tiết. Giá: 800đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Thanh Tâm Tuyền. Bếp
Lửa. 1973
Thanh Tâm Tuyền. Bếp lửa. Tiểu thuyết. Ấn bản chung quyết,
kèm Tựa lần in thứ hai (1965), Tựa lần in thứ tư (1973) và Bạt của Huỳnh Phan
Anh. Bìa tranh sơn dầu “Bích đào” của Thái Tuấn. Kẻ Sĩ xuất bản lần thứ tư 4100
ấn bản quý trên giấy trắng dày. Sài Gòn, tháng 3 năm 1973. Giấy phép số
582/PTUDV/PHBCNT/KSALP ngày 19-3-73. In tại nhà in Quốc Ấn, 324 Phan Thanh
Giản, Sài Gòn. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Thanh Tâm Tuyền. Mù
Khơi 1970.
Kẻ Sĩ xuất bản lần thứ nhất, giấy phép số 3727/BTT/PHNT,
ngày 03-9-70. In tại ấn quán Cẩm Hoa, số 339, đường Bến Phú Lâm, Chợ Lớn. Ngoài
những bản thường, có in thêm 50 bản đặc biệt trên giấy trắng dành riêng cho tác
giả và nhà xuất bản. Bản điện tử do talawas thực hiện.
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=10611&rb=0302
Thụy Khuê. Văn Học
Miền Nam. Oct 2007
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=14810
Tràng Thiên. Sinh
Hoạt. Qua cá hàng sách. Chị Em Hải của Nguyễn Đình Toàn.
Bách Khoa số 125 ngày 15 tháng 3, 1962.
Trần văn Nam. Các
thời kỳ Văn Học Miền Nam 1963-1975. Apr
01, 2011
http://namkyluctinh.org/a-vhbkhao/tvnam-VanHocMienNam%5B63-75%5D.pdf
Việt Tấn Xã. Phỏng
vấn Nguyễn Đình Toàn về tác phẩm Áo Mơ Phai.
Văn Học, ngày 10 tháng 2, 1974.
Những bài viết cũ của Nguyễn Mạnh Côn, Huỳnh Phan Anh,
Nguyễn Đình Tuyến, Tràng Thiên, và bài Phỏng vấn Nguyễn Đình Toàn do nhà thơ
Thành Tôn sưu tập được copy lại ở phần phụ lục.
vậy cùng tìm hiểu thêm về vòng tay trầm hương và định nghĩa nhé
ReplyDelete