Phan Tấn Hải
Tuệ
Sỹ Đạo Sư.
Sách & Poster
Đó là một cuốn sách sẽ còn được nhớ tới nhiều
thập niên sau. Trong đó, nhiều bài văn, bài thơ vẫn sẽ còn được trích dẫn ngay
cả nhiều thế kỷ sau. Để ghi lại một thời hậu thống nhất đầy máu lửa kinh hòang
của dân tộc Việt Nam, bằng các dòng văn và dòng thơ của một thiền sư không chịu
khuất phục trứơc cường quyền – bằng chính tâm hồn cực kỳ thơ mộng của Thượng Tọa
Tuệ Sỹ, một thiên tài thi ca và học thuật của Phật Giáo Việt Nam.
Tuyển tập “Tuệ Sỹ Đạo Sư” biên tập bởi Thựơng
Tọa Nguyên Siêu, được in và phát hành bởi Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha
Trang, sẽ ra mắt tại hải ngọai vào tuần này, những ngày giữa tháng 4-2006, giữa
lúc vị thiền sư thi sĩ Tuệ Sỹ vẫn còn bị quản thúc tại quê nhà.
Thực sự, Thầy Tuệ Sỹ không phải là một thi sĩ
theo nghĩa đời thường. Hãy đọc lại bài thơ “Cúng Dường” của Thầy:
Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn.
Đây thực
sự không phải là thơ. Các dòng chữ trên đã vượt qua những gì ngôn ngữ loài người
có thể chuyên chở. Đó chính là hoa từ cõi trời thả mưa vào ngục tối, để một nhà
sư nhặt chữ lên và cúng dường Phật. Đó không phải là chữ, mà chính là nứơc mắt,
là nỗi đau đớn của cơ thể khi cầm chén cơm lên và là nỗi thương xót khi thấy thế
gian đầy máu hận, và rồi vị sư này thốt lời cảm ân đức của Đấng Thế Tôn… Bài
thơ Cúng Dường chữ Hán này mang sức mạnh bất tử của các dòng kệ trong những
nghi thức tụng kinh.
Bản dịch:
Đây bát cơm tù con kính dâng
Cúng dường Đức Phật đấng Tôn Thân
Thế gian chìm đắm trong máu lửa
Lệ nhỏ không lời, lòng xót thương.
(Tuệ Sỹ Đạo Sư, trang 91)
Thầy Tuệ Sỹ vừa tròn sinh nhật thứ 63 trong những
ngày đầu tháng 4-2006. Nhưng những gì mà đời người hữu hạn, Thầy đã cầm bút lên
và đã trở thành vô hạn. Những phương trời mộng vô hạn đó, không một song sắt
nhà tù nào giữ nổi. Các cõi thơ vô hạn đó, không một kềm tỏa nào làm thế tục
hóa nổi.
Điều nổi bật trong 346 trang của “Tuệ Sỹ Đạo
Sư” hiển lộ rõ là không có một chút giận dữ, căm thù nào vương vấn trong ngòi
bút của Thầy Tuệ Sỹ. Ngay cả khi dặn dò cho thế hệ đi sau, lời của Thầy Tuệ Sỹ
cũng vượt hẳn những tranh chấp thế gian, dù rằng Thầy vẫn còn đang trong vòng
lao lý thế gian, để gìn giữ một hướng đi xuất thế gian. Bài “Thư Gửi Các Tăng
Sinh Thừa Thiên, Huế” (trang 154) viết ngày 28-10-2003, Thầy Tuệ Sỹ gửi từ Quảng
Hương Già Lam, Sài Gòn, đã viết:
“Các con thương quý,
…Thế hệ của thầy, những thanh niên trang lứa
được nuôi dưỡng để dựa vào chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ, được
giáo dục để biết hận thù giai cấp. Nhưng may thay, giòng suối Từ vẫn âm thầm
tuôn chảy, để xoa dịu những đau thương mất mát; để hàn gắn những đổ vỡ điêu tàn
của dân tộc. Các con lớn lên trong thời đại thanh bình, nhưng các con lại bị
ném vào giữa một xã hội mất hướng. Quê hương và đạo pháp là những mỹ từ thân
thương nhưng đã trở thành sáo rỗng. Các bậc cao tăng thạc đức, một thời đã đánh
thức lương tâm nhân loại trước cuộc chiến hung tiền, đã giữ vững con thuyền đạo
pháp trong lòng dân tộc; nay chỉ còn lại bóng mờ, và quên lãng.
Thế hệ các con được giáo dục để quên đi quá khứ.
Nhiều người trong các con không biết đến Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất
là gì; đã làm gì và cống hiến những gì cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, hòa
bình dân tộc, trong những giai đoạn hiểm nghèo của lịch sử dân tộc và đạo pháp
của đất nước. Một quá khứ chỉ mới như ngày hôm qua mà di sản vẫn còn đó nhưng
đã bị chối bỏ một cách vội vàng….
Người xuất gia, khi cất bước ra đi, là hướng đến
phương trời cao rộng; tâm tính và hình hài không theo thế tục, không buông mình
chìu theo một giá trị hư dối của thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi
cường quyền bạo lực. Một chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại;
đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy, mà ngay có người đời
nhiều kẻ còn vất bỏ không tiếc nuối để giữ tròn danh tiết. Chớ khoa trương bảo
vệ Chánh pháp, mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho Ma vương,
là nơi tụ hội của cặn bã xã hội. Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất
là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục,
mua danh bán chức. Xưa kia, khi vua chúa bắt sư tăng cúi đầu nhận tước lộc của
triều đình để làm tôi tớ cho vương hầu, chư Tổ đã sẵn sàng đặt đầu mình trước
gươm bén, giữ vững khí tiết của người xuất gia, bước theo dấu chân vô úy, vô cầu,
của các bậc Thánh Đệ tử, được gói gọn trong thanh quy: Sa môn bất kính vương giả.
Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen
tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian, nhưng không tự đánh chìm trong dòng
xoáy ô trược của thế gian. Các con hãy tự rèn luyện cho mình một tín tâm bất hoại;
một đức tính dũng mãnh vô úy; nỗ lực tự huân tập trí tuệ bằng văn, tư, tu để
nhìn rõ sự tướng chân ngụy, để thấy và biết rõ mình đang ở đâu, đang đi về đâu;
không nhắm mắt phóng càn theo cỗ xe lộng lẫy bên ngoài nhưng rệu rã bên trong,
đang lao xuống dốc dài không định hướng.
Mỗi thế hệ có vấn đề riêng của nó, do những biến
thiên của xã hội chung quanh, do những biến cố dao động mang tính thời đại. Thế
hệ của thầy thừa hưởng được nhiều từ Thầy Tổ, nhưng chưa hề báo đáp ân đức giáo
dưỡng cao dày trong muôn một. Chỉ mới tròn ba mươi tuổi, đã phải khép lại cổng
chùa, xách cuốc lên rừng, xuống biển, cũng mưu sinh lao nhọc như mọi người. Rồi
lại vào tù, ra khám, lênh đênh theo vận nước thăng trầm. Sở học và sở tri cũng
cùn mòn theo tuổi đời, năm tháng. Duy, chưa có điều gì thất tiết để điếm nhục
tông môn, uổng công Sư trưởng tài bồi. Một chút niềm tin chưa hề thoái thất, chỉ
mong cùng chia xẻ với thế hệ kế thừa. Một thế hệ đang trưởng thành để khởi tô
ngọn đèn Chánh pháp giữa một đất nước thấm nhuần phong hóa…”
Bức thư trên ngay lập tức đã mang tính bất tử,
dù bị nhà nứơc CSVN ngăn cấm nhưng đã được lưu giữ và phổ biến rộng rãi trong
giới Tăng Ni Phật Tử. Không một cuốn sách nào trong nứơc in lại lá thư gửi các
tăng sinh trẻ đó, nhưng âm vang của các dòng chữ đã in sâu vào tâm của bất kỳ
Phật Tử nào một lần được nghe qua. Đó là sức mạnh của chân lý, của Phật Pháp.
Thầy Tuệ Sỹ, người một thời mang án tử hình, đã và đang khắc chữ vào dòng lịch
sử dân tộc và Phật Giáo bằng chính cuộc đời Thầy. Từng việc làm, từng lời nói,
từng dòng chữ của Thầy đều không hề xa lìa hạnh Bồ Tát.
Thiên tài thi sĩ triết gia Phạm Công Thiện năm
1994 đã viết về Thầy Tuệ Sỹ trong bài nhan đề “Kỷ Niệm 50 Năm Sinh Nhật Tuệ Sỹ
— Buổi Chiều Nắng Hạ Đọc Thơ Tuệ Sỹ,” trích như sau:
“…vừa là thi sĩ vừa là thiền sư đạo sĩ vừa là
nhà hành động nhập thế với tinh thần “vô công dụng hạnh” của bậc Bồ Tát, hành động
tích cực mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng. Vì
không tham vọng ích kỷ mù quáng cho nên mới nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì
không bị kẹt dính vào tham, sân và si của thế tục cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng.”
(Tuệ Sỹ Đạo Sư, trang 120)
Thầy Thích Nguyên Siêu trong bài viết “Thượng
Tọa Tuệ Sỹ, Trí Siêu Những Thiên Tài Lỗi Lạc”
từ nhiều năm trứơc đã ghi nhận về Thầy Tuệ Sỹ như sau:
“…Là vị giáo sư gương mẫu, nồng cốt của Đại học
Vạn Hạnh, mà cứ mỗi lần gặp nhau thăm hỏi, những người đồng nghiệp đều gọi Thầy
là “chú Sỹ” vì Thầy còn quá trẻ.
Thầy phụ trách dạy tại Đại học Vạn Hạnh chương
trình Triết học Tây phương, văn học Đông Phương, luận đề Phật giáo: triết học
Tánh Không, Trung Quán luận, A Tỳ Đạt Ma, đại cương Thiền Quán…. Mặc dầu ở vào
lứa tuổi đôi mươi, nhưng Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ trong nền văn hóa,
giáo dục của nước nhà và Thầy đã xuất sắc hơn trong lãnh vực ngôn ngữ: sinh ngữ
và cổ ngữ. Thầy tự học, rèn luyện lấy chính mình vì vậy mọi người ai cũng kính
mến, thán phục và có nhiều bạn vong niên dưới mái trường Đại học Vạn Hạnh…
…Vì tất cả các tác phẩm trước tác, dịch thuật
của chư Tổ, như là sách gối đầu giường của Thầy, còn Tam Tạng kinh điển, bộ Đại
Tạng, chẳng bộ nào mà Thầy không dở đọc. Người viết đã học với Thầy, sau đó
cùng Thầy làm việc dịch thuật Trung A Hàm, Kinh Pháp Cú, tuyển tập Nikàya A
Hàm…. qua những năm 75-77 tại Viện Cao Đẳng Hải Đức Nha Trang và 80-84 tại Tu
Viện Quảng Hương Già Lam cũng là nơi thư viện Vạn Hạnh (Võ Di Nguy, Phú Nhuận)
mới thấy được khả năng, trí nhớ trác tuyệt của Thầy. Kinh, luật, luận, Tam Tạng
giáo điển, hầu như Thầy nằm lòng tự kiếp nào. Có lẽ trong lòng sinh tử vô tận,
đã có bao đời Thầy đã là Thiền sư, Pháp sư, Luận sư, cho nên mỗi khi hỏi đến những
pháp số, ý kinh, nghĩa luận trong Đại Tạng, Thầy đều dở đúng số trang, số quyển,
số dòng. Phải làm việc chung với Thầy mới biết được tính cần mẫn, ý chí kiên
quyết, tự lập để xây dựng cho chính mình của Thầy.
Hầu như bất cứ thời điểm nào Thầy cũng học,
cũng nghiên cứu, cũng nghiền ngẫm, cũng đọc kinh điển, thi văn, kinh thi, kinh
dịch, triết lý, thi ca; cũng tự học âm nhạc: dương cầm, vĩ cầm; cũng tự tập viết
chữ Nho: chữ Thảo của Vương Hy Chi; đọc thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha….
Thầy sống thanh bạch, đơn sơ, đêm ngày miệt mài, trầm mình trong thế giới tâm
linh, tư tưởng, triết học, thi ca, ngôn ngữ, nên không còn thời giờ nghĩ đến
cách ăn mặc, bề ngoài như kẻ khác. Do vậy, trên người của Thầy, luôn luôn với bộ
áo nhật bình 4 vạt úa mầu với thời gian, dài tới dưới đầu gối, khi dạy học cũng
như lúc ra ngoài. Dáng người tuy nhỏ nhắn, nhưng khối óc thì vĩ đại, thông minh
thiên phú…
…Trước ngày 30/4/1975, quân đội Việt Nam Cộng
Hòa đã rút lui, bỏ ngõ trên các tuyến đường quốc lộ I, chẳng có ai kiểm soát, thành
phố Nha Trang bỏ trống, các phi đội, khu trục Không quân ở phi trường Nha Trang
được lệnh bay vào phi trường Phan Rang để từ đó mang bom ra dội Cầu Xóm Bóng, cắt
đứt đường tiến quân của Bắc Việt. Thì lại một lần nữa Thầy và anh em học Tăng
làm nghề cứu thương, xuống bệnh viện toàn khoa Nha Trang, những bệnh nhân nào
hơi khỏe mạnh, hay đi đứng được thì đã di tản, còn lại những bệnh nhân nặng thì
vẫn nằm đó, vì lúc đó không còn bác sĩ, y tá trực nữa, mạnh ai nấy lo liệu, bệnh
viện, trường ốc, cư xá, chợ búa như nhà không chủ. Trong cảnh nước mất nhà tan
này, Thầy lại lăn xả vào vùng lửa đạn để cứu giúp đồng bào, an ủi bệnh nhân,
thương binh, trẻ mồ côi lạc mất gia đình cha mẹ, để bồi đắp tình thương trong
cuộc đời khổ lụy này.
Trước tình thế mới đầy rối ren, khủng hoảng,
chưa biết phải xử trí như thế nào, ngay tối hôm đó, anh em học Tăng gặp Thầy tại
thư viện, quây quần bên nhau, mong tìm phương pháp giải quyết, có anh em đề nghị
Thầy nên di tản, chúng ta không thể ở lại viện được nữa. Khi ấy, anh em cứ ngỡ
là Thầy sẽ đồng ý, chấp nhận cho anh em tự do đi, hay là đi cùng đi tập thể,
nào ngờ Thầy nhìn tất cả anh em, rồi nói bằng giọng cương quyết: “Tôi vẫn còn
đây, thì anh em cũng phải ở đây, quê hương và đất nước này còn cần đến anh em
nhiều hơn nữa. Chúng ta không thể trốn chạy khi dân tộc, đạo pháp đang gặp cảnh
điêu linh.” Qua lời nói khẳng khái đó, ai nấy đều nhìn nhau mà bàng hoàng.
Trong cái bàng hoàng thầm kính phục tấm lòng sắc son, hy sinh đời mình để chia
xẻ nỗi tang thương vận nước. Một con tim nóng hổi đang ấp ủ, che chở hàng triệu
con tim đang thiếu máu.
Đây là thời điểm đánh dấu sự quyết định dứt
khoát của Thầy là phải ở lại trên mảnh đất quê hương này. Dân tộc, đạo pháp còn
cần sự có mặt của Thầy. Ngày nào dân tộc còn lầm than, quê hương còn khốn khổ
thì ngày đó còn có những đôi tay, khối óc như Thầy để cày xới, gieo rắc hạt mầm
yêu thương, để vơi đi sự thù hận, để thấy trên quê hương còn có những bông hoa
tươi thắm tô điểm, thêm hương, khởi sắc giữa cánh đồng hoang, lau sậy gầy guộc.
Thầy là hiện thân của đóa hoa tình thương nguyện ở lại để thọ nhận thương đau
cùng với cái thương đau của dân tộc, nguyện dấn thân vào nơi khốn cùng, của cơn
phong ba bão tố để đưa con thuyền đạo pháp đến bến bờ bình yên. Sự ở lại của Thầy
mang nhiều ý nghĩa của một tâm hồn đạo sĩ, thi sĩ, văn nhân, và tự tình con dân
nước Việt. Là mấu chốt, là yếu điểm vàng son của chặng đường lịch sử dân tộc và
đạo pháp. Thầy ở lại vì còn hàng triệu người ở lại…”
Đó là hạnh nguyện của bậc Bồ Tát: bước vào địa
ngục với chúng sinh…
Nhạc sỹ Hoàng Quốc Bảo trong bài viết “Đêm Sâu
Tuệ Sỹ” sau khi về Việt Nam tham vấn Thầy Tuệ Sỹ nhiều năm trứơc đã viết về Thầy:
“…Hóa cho nên cái Bi của bậc đại Từ rộng lớn
trùm khắp thiên hạ, tùy thuận vào cái đau chung của thiên hạ, vẫn đau đáu, mà vẫn
vô chấp, vô trước. Trí huệ sâu rộng như biển, nên dưới lớp sóng gió loạn cuồng
kia, nước vẫn thanh tịnh thể tính. Vẫn vô quái ngại, viễn ly điên đảo mộng tưởng.
Thật như thế nên nhiều học Tăng để sống còn, tránh né được sự dần sàng của chế
độ, đã chẳng thốt nên thành lời ví cái ông thầy tu gầy ốm yếu nọ không biết sợ
quỷ thần, là Kim cang bất hoại rồi… đấy sao.” (Tuệ Sỹ Đạo Sư, trang 269)
Bây giờ thì nhạc sỹ Hoàng Quốc Bảo đã rời bỏ
luôn miền quan ngoại, đầu năm 2006 đã từ Mỹ về Lâm Đồng xuất gia làm một nhà sư
trong dòng Thiền Trúc Lâm. Có phải cũng là “tùy thuận vào cái đau chung của
thiên hạ” chăng?
Ân đức của Thầy Tuệ Sỹ đã tưới nhuần các tâm hồn
nghệ sỹ như thế. Và sau này, nhạc sỹ Trần Quan Long cũng đã phổ thơ của Thầy
thành các đĩa CD Tuệ Ca, trong đó người viết nhiều bài thơ cúng dường Thầy là
nhà thơ Diệu Trân.
Riêng bản thân ngừơi viết bài này, tuy chưa từng
gặp mặt nhưng trong lòng lúc nào cũng nhìn Thượng Tọa Tuệ Sỹ như một vị Thầy của
mình từ nhiều kiếp lâu xa. Một lần, được một cư sĩ từ Na Uy giới thiệu vào học
lớp Duy Thức Học do Thầy Tuệ Sỹ giảng cho giới cư sĩ trên PalTalk. Khóa học
không kéo dài vì hoàn cảnh, nhưng các bài giảng còn lưu ở mạng
http://phatviet.com/ vẫn là một kỷ niệm lớn. Đó là một hình ảnh cảm động: người
xa từ hải ngoại, nơi tự do không chi kềm tỏa, ngồi bên máy vi tính lắng nghe một
vị sư từ giữa vòng vây ngồi giảng dạy Phật Pháp. Một chữ cũng là Thầy, nửa chữ
cũng là Thầy; huống gì là các bài giảng Duy Thức cực kỳ vi diệu. Tuy người viết
chưa đủ cơ duyên để học đầy đủ về bộ Thành Duy Thức Luận, nhưng lòng cực kỳ vui
mừng vì kiếp này đã gieo được duyên lành cùng một vị Đạo Sư, một bậc Đại Thiện
Tri Thức — Ngừơi không hề rời bỏ địa ngục, khi còn một chúng sinh nơi đó.
Nơi đây, xin chép lại hai dòng kinh để cúng dường
Thầy Tuệ Sỹ và khắp pháp giới chúng sinh:
“Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm…”
Và trong cõi đó, có những vị đã bứơc vào cuộc
đời ngũ trược ác thế không phải vì nghiệp, mà vì tâm nguyện không lìa bỏ chúng
sinh. Nơi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một trong các vị Bồ Tát như thế. Người như thế, việc
như thế, hạnh như thế.
NGUYÊN GIÁC PHAN TẤN HẢI
(Trích trong tập bản thảo chưa xuất bản “Khoảnh
Khắc Chiêm Bao” với tấm lòng trân trọng tất cả những người đã đem chữ nghĩa, âm
nhạc, hội họa để làm đẹp hơn cho cuộc đời, cùng lúc là để làm sáng tỏ ý nghĩa
Phật pháp – Lời Thưa).
No comments:
Post a Comment