Nguyễn Đức Tùng
Nhà thơ Trần Mộng Tú
Sức mạnh của một bài thơ nằm ở các chi tiết.
Các chi tiết này cần phải được tả lại một cách sống động, với những màu sắc, vị
trí, âm thanh, mùi vị của chúng. Đó chỉ là công việc của người làm thơ. Về phía
mình,người đọc thơ cũng làm công việc của họ: bạn phải hình dung được nhân vật ấy,
buổi tối ấy, ngửi được mùi máu, nghe được tiếng đọc kinh, nhìn thấy khung cảnh ấy.
Khiếm khuyết từ một trong hai phía, nếu xảy ra, bài thơ sẽ thất bại.
Em gửi cho anh
ly cà phê buổi tối
mùi ngô non
nướng dưới cột đèn
Bạn tưởng tượng thấy khung cảnh ấy. Chữ của Trần
Mộng Tú giản dị, không bay bổng, nhưng vững chắc, tin cậy. Đó là một bút pháp
có nhiều tính hiện thực. Nhà thơ T.S. Eliot: “trong khi thơ cố gắng truyền đi một
điều gì phía sau điều được truyền đạt bởi vần điệu văn xuôi, thì nói cho cùng,
thơ vẫn là cuộc trò chuyện giữa một người và một người” (1).
Nhưng văn chương dành cho cuộc sống mỗi ngày tự
nó cũng phải làm mới lại mỗi ngày. Đó là
lý do vì sao đôi khi bạn cần nhìn một chữ như lần đầu tiên bạn nhìn thấy nó.
Cũng vậy, bạn tập nhìn một cái cây, người bạn, cột đèn, như lần đầu bạn nhìn thấy.
Sự tỉnh thức hoàn toàn trong giây lát có tính thiêng liêng, nhưng bắt nguồn từ
ký ức. Bạn nhớ những ngày bạn đã sống và những ngày chưa từng, nhưng muốn sống.
Khi chúng ta trải hết những buồn vui của yêu thương, đau đớn của cái chết, chiến
tranh, vết thương và vinh quang của nó, bạn không quên được, và nhớ trở thành
phương cách sống. Một ký ức chỉ làm ta nhớ lại là một thứ trí nhớ đơn giản, máy
móc. Trí nhớ của nhà thơ vượt lên sự nhớ lại ấy, trở thành suy nghĩ, phản ánh,
tưởng tượng, sự lý giải các sự vật. Sống trong thành phố, bạn nhớ thôn quê, sống
ngoài đất nước trong xứ sở thanh bình, nhớ đất nước khốn khổ, đẹp, chia lìa,
cay đắng. Nhưng thơ
Trần Mộng Tú không cay đắng, mặc dù có thể rất
buồn.
Em tặng anh hoa hồng
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh
Anh tặng em bội tinh
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai màu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng
Em tặng anh tuổi ngọc
Của những ngày yêu nhau
Đã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
Em tặng anh mây vương
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời
Anh tặng môi không cười
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động
Anh muôn vàn tạ lỗi
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.
(Quà Tặng Trong Chiến Tranh, tháng 7/1969)
Một người chứng cũng mang trên vai gánh nặng của
các sự kiện, bằng chứng của các câu chuyện kể. Họ không thể bỏ chúng xuống được.
Nhiệm vụ của thơ là nói về chiến tranh và hòa
bình, làm cho người lính trở lại, trò chuyện với chúng ta. Câu chuyện mà họ kể,
tình tự hơn là khuyên bảo, đau xót hơn là hận thù, nói về mình hơn là nói về
người khác chiến tuyến, sẽ giúp người Việt hóa giải không những xung đột lịch sử
mà còn xung đột nội tâm. Trong những bài thơ thành công, Trần Mộng Tú khắc họa
các nhân vật ấy, một xã hội biến mất, một quê hương xa cách ngàn trùng, trở
thành sống động trong lòng độc giả, mang họ trở về nguồn cội. Nguồn cội của người
Việt không phải chỉ là căn nhà, bờ sông, hàng cây, nguồn cội ấy là sự chia sẻ,
lời cầu nguyện, nhu cầu được ngồi xuống bên nhau quanh ngọn lửa mới nhóm chiều
hôm, vườn cũ.
Đốm nhang cháy đỏ như quầng mắt
khói có bay về tận cố hương
vườn người, tôi chiết cành xuân thắm
nhớ quê vết cắt trượt xuống hồn
Thơ Trần Mộng Tú có hai chủ đề: hoài niệm
và cuộc sống hôm nay, hòa quyện vào nhau. Hoài niệm của người Việt hải ngoại
không chỉ là hoài niệm; lòng hoài niệm ấy mang theo những giá trị của một thời
đại, một xứ sở như giấc mộng. Thơ về cuộc sống hôm nay vừa có nghĩa là đương thời,
vừa có nghĩa là cái bình thường, dung dị hàng ngày. Trong thơ chị có nhiều yếu
tố thời sự, nhưng đó không phải là thơ thời sự, vì mọi tin tức của thế giới đều
lọc qua lăng kính cá nhân, chất suy nghĩ của người phụ nữ, đằm thắm. Một người
đầy lòng biết ơn, thương tiếc, nhưng không có gì phải hối hận, mang tấm lòng của
mình đi giữa cuộc đời, đón nhận và đem cho, khổ đau và cầu nguyện, căm phẫn và
tha thứ. Nhà thơ lắng nghe, học hỏi, đặt bàn tay dịu dàng của mình lên một
nhánh cỏ, con thú bị thương, một người đau khổ. Như lên chính sự đau khổ của
mình.
Hãy trả lại cho tôi
Người con trai duy nhất
Trả lại nguyên hình hài
Không mảnh nào được mất
Tôi cất con vào lòng
Chỗ an bình duy nhất
(Gửi những nạn nhân ngày 11/9/2001)
Mối quan hệ giữa thơ và tương lai, cái không
biết, tạo ra phân vân, lưỡng lự. Ý thức về sự mong mang của ý chí, sự ngắn ngủi
của các hy vọng, sự thất bại của tự do, làm cho thơ trở thành một ngôn ngữ bất
bình chưa từng có; ý thức về tính bất bình ấy mang con người đến với đồng loại,
làm cho cái không thể biết trở thành cái được tìm kiếm. Cái nào không thể biết?
Tình yêu, chân lý, vĩnh cửu, cảm giác bất định xô người ta tới gần huyền thoại.
Mặt khác, đi giữa một thời đại tăm tối, thơ cần một ngôn ngữ sống động, ngày
càng mới; cách viết cũ khó đứng được với thời gian. Điều thú vị, và không dễ hiểu,
là Trần Mộng Tú không hô hào cách tân, chữ dùng của chị không mới lắm, thế mà
những bài chị viết nhân các sự kiện vẫn ở lại lâu dài trong lòng độc giả.
Ở tòa báo em làm
những người phóng viên
đang thu xếp ngày mai ra Đà Nẵng
không có ai đi Kiên Giang
làm sao em gửi được cho anh
một nụ hôn vào chiếc bao thư
làm sao em gửi được cho anh
những giọt nước mắt sáng nay của em
vào trong bao thuốc lá
Thơ tự do, lời thuật chuyện tự nhiên gần văn
xuôi, thân mật, ý tình kín đáo mà mãnh liệt. Có người nghĩ rằng bài thơ hay sẽ
mang trong chúng sự hiểu biết, thông thái, những trải nghiệm khó khăn. Nhưng
chính ngôn ngữ thơ phát sinh từ vùng nửa tối nửa sáng, chỗ mờ ảo của kiếp người,
ở vòng giao tuyến của các loại kiến thức khác nhau, vết đứt gãy của trí nhớ. Trần
Mộng Tú viết nhiều, thơ và truyện, tùy bút, và hình như chị viết khá dễ dàng về
các sự kiện; dù nhỏ hay lớn, chúng sẵn sàng có mặt trong thơ chị. Tuy vậy, đó
là hồi tưởng, suy nghĩ trữ tình, nhiều hơn là báo chí, tuyên bố xã hội. Niềm
vui của việc đọc thơ Trần Mộng Tú, tôi nghĩ, là ở tính chất sóng đôi này: trong
sáng, dễ hiểu, nhưng không hời hợt mà phản ảnh những cảm xúc sâu xa. Tất nhiên
không phải bao giờ cũng vậy, thơ chị cũng có những bài chưa chín lắm, tư duy
chưa sâu, hình ảnh lặp lại. Một bài thơ được viết sau một cảm xúc mau lẹ, có
khi là một tác phẩm của tài năng, có khi chỉ là sự dễ dãi của tác giả.
Ngày xưa trong quán nhỏ
Đời không có mùa Đông
Trên môi cà phê ngọt
Trong mắt giọt tình nồng.
Hôm nay trong Quán Lạ
Hai đứa ngồi nhìn nhau
Trên môi cà phê đắng
Trong mắt Giọt Tình Sầu.
Theo Du Tử Lê, bài này được hai nhạc sĩ phổ nhạc,
Nam Lộc, với tựa đề mới Giọt Tình Sầu, và Hoàng Quốc Bảo, với tựa đề Quán
Lạ. Thực ra đây không phải là bài thơ hay, chữ dùng cũ, nhưng nó đánh dấu một
giai đoạn của người Việt lưu vong ngày đầu ngơ ngác gặp nhau trên xứ lạ. Sự cô
đơn, lòng thương nhớ của chị gần với truyền thống văn chương cổ điển. Điều ấy dẫn
đến nguy cơ của một loại thơ đã bị vượt qua, nhưng Trần Mộng Tú tránh được điều
ấy trong nhiều bài, nhiều hơn so với những người viết cùng thế hệ. Về mặt này,
chị làm tôi liên tưởng đến trường hợp Mai Thảo, chữ xưa mà thơ mới, thơ riêng
biệt. Người đọc lắng nghe, đi theo chị, thăm dò những cảm xúc vừa quen thuộc vừa
mới lạ, thích thú. Chị dẫn người đọc đi không quá xa, không quá mạo hiểm, nhưng
bài thơ của chị có một điều gì mới, chị không đi quẩn quanh trong căn nhà của
mình mà thỉnh thoảng bước ra ngoài, đôi khi bất ngờ, có khi bất ngờ đến nỗi
trong chớp mắt bạn ở giữa một thiên nhiên xa lạ. Sự cân bằng ấy, từ những bài đầu
tiên đến sáng tác về sau, trong suốt mấy mươi năm, chị giữ được. Thơ cũng như
văn của chị đầy cảm xúc nhưng là một thứ
cảm xúc được tiết chế, gìn giữ. Tất nhiên chị cũng có những bài thương cảm,
chúng sẽ, như ở các nhà thơ khác, không chịu được sức ép của thời gian. Trần Mộng
Tú làm thơ có vần và thỉnh thoảng thơ tự do; chị không mạnh về lục bát, nhưng
các loại thơ có vần khác đều vững: năm chữ, bảy chữ, tám chữ. Tư duy nghệ thuật
của Trần Mộng Tú thuộc chủ nghĩa hiện đại, nhưng cảm xúc của chị lan cả sang hai
phía, cổ điển và cách tân đương thời. Những thân cây ngã xuống trong cánh rừng
lưu vong
lửa mồi lên bản thảo
sách bừng lên từng pho
trang bìa quằn quại lửa
tàn tro ôi tàn tro
những thân cây ngã xuống
tiếng khóc ngậm câu kinh
tiếng mõ rời rạc gõ
vào cánh cửa tử sinh
(Sau cái chết của Nguyễn Mộng Giác)
Cái chết không xa lạ trong thơ Trần Mộng Tú,
ngay từ những ngày đầu tiên, cái chết của người chồng trẻ tuổi, sau đám cưới một
thời gian ngắn. Cái chết là hình bóng khác của tình yêu đối với cuộc sống, là
ánh phản chiếu của tâm hồn. Tình yêu sống qua khổ nạn của lịch sử, vượt qua thời
gian. Tình yêu nam nữ ấy của Trần Mộng Tú thuần khiết, gần như hoài niệm, sự an
ủi vỗ về ấy có tính cao cả. Có một sự cân đối, thăng bằng, đạt được dễ dàng
trong mỗi bài thơ của chị, một kỹ thuật làm thơ ngày càng ít gặp trong những
nhà thơ hiện nay. Những bài thơ được viết sau này đều tiếp nối hướng đi mà chị
vạch ra từ nhiều năm trước, từ tốn, khoan thai, xa lạ với việc làm mới táo bạo,
đi thẳng vào các ý tưởng trung tâm, dùng một ẩn dụ lớn, nói một điều mà chị muốn
nói.
Đêm mùa đông gọi anh bên bếp lửa
Sáng mùa xuân em khóc trước hoa đào
Đôi khi chúng ta nghe được tiếng gọi ấy, vào
quá khứ, tiếng khóc ấy, trước hiện tại. Chúng ta nghe được một cách rõ ràng đến
nỗi ta tưởng rằng việc ấy không có gì khó nhọc. Tôi không biết Trần Mộng Tú làm
thơ ra sao, nhưng tôi tin chị dành nhiều thì
giờ cho mỗi chữ, mỗi câu, hồn nhiên mà cân nhắc. Chị biết dung hòa các nhịp điệu,
mặc dù không phải khi nào cũng thành công trong việc làm cô đọng các ý tưởng,
nén chặt hình ảnh, mài dũa câu thơ sắc sảo hơn nữa. Tôi ít tìm thấy trong thơ chị
nỗi bi quan, chán nản. Nỗi buồn trong thơ Trần Mộng Tú là nỗi buồn mênh mang,
thế sự, triết lý, hơn là sầu bi cá nhân. Đó là một nỗi buồn đã được chưng cất
và trình bày một cách tiết chế. Thơ chị không trúc trắc mà mượt mà, giọng nói của
thơ dịu dàng mà sáng rõ. Tôi ít thấy những điểm mờ, sự chập chờn của các thế giới
đa sắc, sự đa nghĩa, trừ trong vài bài thơ như sau đây.
Em gọi trong lồng ngực đáng thương của mình
Ôi anh!
Ôi anh!
Ôi anh!
Buổi chiều
em trở về
chiếc xích lô vẫn còn đầy gió.
Thơ Trần Mộng Tú là sự kết hợp giữa một tâm hồn
nồng nhiệt và chất giọng thanh đạm. Chất giọng của một người gồm hai yếu tố: từ
ngữ và giọng điệu. Thơ chị mang theo những suy tư về một xã hội tự do không còn
nữa, những trải nghiệm mới trên đất nước mà chị chọn làm quê hương thứ hai. Chị
tỏ ra tự tin giữa hoàn cảnh hội nhập mới, làm chủ số phận mình, hài lòng hay tạm
hài lòng về điều kiện sống; những thao thức của chị như vậy hướng nhiều hơn về
một cuộc đời khác, đã qua, một hệ thống khác, ước vọng khác. Những ước vọng ấy
có mặt từ xưa, trở đi trở lại, mỗi ngày một bồi đắp, mỗi ngày một làm mới, như
hồi ức tự chúng mở ra thành cánh cửa, như đòi hỏi tự chúng vang lên thành tiếng
chuông. Bốn mươi năm sau bài thơ trên, tháng tư, 2009, trong bài “Có Phải Tôi
Không?” Trần Mộng Tú viết:
Có người gửi tôi tấm hình trên mạng
cô gái Sài gòn áo trắng khăn tang
đi trong Sài gòn bốn mươi năm cũ
cô gái trong hình có phải tôi không
Ô hay tự nhiên tại sao tôi nhận
Sài gòn cả trăm cô gái giống tôi
cả ngàn khăn tang trên đầu goá phụ
góa phụ còn hồng một vệt son môi
Ô hay tại sao tự nhiên tôi chối
Sài gòn ngày ấy trắng toát khăn tang
những cô trẻ lắm mắt đầm đìa lệ
theo tay ai dắt đi vào nghĩa trang
Sài gòn bây giờ khói nhang đã tắt
góa phụ ngây thơ tóc đã phai xanh
Nhà thơ sống trong thế giới hỗn loạn, bạo động,
chị từng đến đó, đã trở về, đã quay lại, ngày một nhu mì hơn, ngày một thông
thái hơn, nhưng lúc nào cũng vậy, sở hữu một ngôn ngữ chừng mực, trong sáng,
không phải không có khi xúc động quá, nhưng đầy lòng biết ơn, yêu dấu, cái nhìn
lãng mạn đối với cái đẹp.
Mùa đông trắng giữa mái nhà
Câu thơ trắng giữa hồn ta vô đề
Bông hoa trắng giữa đam mê
Mối tình trắng đến lời thề bỗng phai
Chúng ta chấp nhận thay đổi, tin rằng sống là
thay đổi, đó là một phần của cuộc đời. Cuộc đời như cuốn sách được viết mỗi
ngày một chương, mỗi lúc một dòng, chưa được viết xong, nhưng không một thứ gì
sẽ hoàn toàn mất đi, chúng được tình yêu giữ lại bằng cách này hay cách khác. Thơ
đuổi theo cái đẹp của tình yêu, nhưng không lạc đường. Trần Mộng Tú không đi
sâu quá vào cánh rừng đen tối bí ẩn của con
người, nhưng chị tới đó, đứng lâu ở bìa rừng, lắng nghe tiếng động từ vô thức, dung
hết khả năng của ngôn ngữ để hiểu biết, kể lại, nhớ lại, để giải thích trước hết
cho mình về một thế giới đau khổ, cuộc phân tranh phi lý, một dân tộc bạo động
và đáng yêu, không ngớt làm chị ngạc nhiên, đau xót. Vì vậy thơ sẽ trở lại với
đời sống, dù đôi khi nó nhuốm màu huyền bí. Có một sức mạnh, một lực, trong bài
thơ của Trần Mộng Tú chảy suốt như dòng suối, mang theo bốn mùa, giá lạnh và ấm
áp, băng vỡ, réo rắt.
Hãy tưởng tượng ra em
Ở một căn nhà lạ
Mình em một ngôn ngữ
Mình em một màu da
Mình em một màu mắt
Mình em một lệ nhòa
Hãy tưởng tượng ra em
Ở nơi không định tới
Em tủi như chim khuyên
Khóc trong lồng son mới
Hãy tưởng tượng ra em
Ở một thành phố khác
Em buồn như nước sông
Khóc chia giòng tan tác
Hãy tưởng tượng ra em
Ở một vùng đất mới
Em như hoa sầu đông
Khóc mùa xuân không tới
Hãy tưởng tượng ra em
Một đời sông cát lở
Một cuộc tình hư hao
Một hồn đầy mảnh vỡ
Em không còn là em
Xin chàng đừng yêu nữa
Đó là bài thơ chị viết khi mới đến Hoa Kỳ.
Trong thơ Trần Mộng Tú, bên cạnh chủ nghĩa hiện thực, thứ chủ nghĩa hiện thực
chân phương và kinh điển, vẫn thấp thoáng hình ảnh huyền ảo. Trong thơ chị mối
liên hệ giữa thơ và đời sống, giữa đời sống và tình yêu, là mối liên hệ bền chặt
như xác thịt, nhưng không dung tục. Có một sức mạnh của cảm xúc từ dòng đầu đến
câu cuối như tiếng hát của loài chim quý, sống sót sau bão táp. Trần Mộng Tú ít
khi làm thơ chính trị, nhưng những bài thơ trữ tình của chị bàng bạc cảm xúc đối
với thế sự. Thơ chị là một ngôn ngữ quy ước, mặc dù những năm sau này còn pha
tính chất văn nói và đời thường ít nhiều. Đó là một ngôn ngữ ước lệ nhưng không
sáo rỗng, một ngôn ngữ đẹp nhưng không xa rời trần thế, tinh lọc, giàu có, buộc
người ta dừng lại lắng nghe.
Bây giờ cha như trang sử
con vẫn ngạc nhiên mở ra
cha giống tấm bản đồ cũ
con ngửi mùi đất quê nhà
Trần Mộng
Tú lấy không gian để đo khoảng cách chia xa, để đo nỗi niềm cố xứ, ký ức về một
nền tự do. Không gian của chị chính là khuôn mặt tâm lý, là sự phản chiếu đời sống
bên trong, nhưng không phải bao giờ cũng vậy. Cũng có một xung đột giữa những
giá trị cố hữu và bảng giá trị mới trong cuộc sống hôm nay.
Sao bây giờ
cái chết của một người da đen
một người có tiền án không lấy gì là lương hảo
bởi một cảnh sát da trắng
lại làm cả thế giới
chao nghiêng
Tôi nghĩ đó là hình ảnh
của một cách giết
cách giết kỳ thị
thản nhiên
đếm từng phút
kẻ chết dưới gối mình
Không thể nói trong một câu là xong mọi chân
lý về một sự việc xã hội, vì tính phức tạp của đời sống. Chúng ta không nhìn thấy
nhân loại, chúng ta chỉ nhìn thấy một người, chúng ta không nhìn thấy giai cấp,
chúng ta chỉ gặp một người da đen, chúng ta không nhìn thấy cuộc xung đột ý thức
hệ, chúng ta gặp một người lính ngã xuống bên đường. Thơ của Trần Mộng Tú là
nghệ thuật hiện thực trộn lẫn những yếu tố lãng mạn. Thơ chị kiệm lời. Tuy
nhiên sự ít lời chỉ trở thành một tính chất quý báu khi nào các chữ được nén lại,
và khoảng trống giữa chúng có thể tháo tung ra được thành những không gian rộng
lớn; nếu không, một bài thơ ngắn chỉ là một bài thơ ngắn. Ở nhiều bài thơ có sự
tăng dần về tiến độ và sau đó giảm dần như cấu trúc của một truyện ngắn, bên cạnh
sự mô tả của tác giả đôi khi có lời của nhân vật, nhưng thơ chị là một thứ mô tả khách quan phối
hợp với những xúc cảm cá nhân.
“Từ lúc rời căn nhà đầu tiên là bụng mẹ đi ra,
ngẫm lại thì tôi đã ở không biết bao nhiêu ngôi nhà, tôi không muốn đếm nữa.Tôi
đi suốt từ miền Bắc đến miền Nam nước Việt, từ quê hương Việt Nam tới nước
Hoa Kỳ. Nghĩ lại mà bàng hoàng. Sao mà dời đổi
nhiều thế, sao đi xa thế nhỉ?”(truyện ngắn-
TMT) (2)
Khoảng năm 2010 tôi bất ngờ nhận được món quà
của nhà thơ Trần Mộng Tú từ Hoa Kỳ, đó là cuốn lịch mỗi tháng in một đoạn thơ của
chị, in thủ bút, rất đẹp. Tôi treo cuốn lịch trong phòng làm việc, thỉnh thoảng
đọc lại, dần dà hiểu hơn về thơ của một tác giả lúc ấy còn xa lạ với tôi. Tôi
nhìn ra ở chị nụ cười bao dung, lối sống thanh nhã, gần văn chương. Những bài
thơ chinh phục độc giả của chị là sự phối hợp của nhiều yếu tố: từ ngữ, xúc cảm,
nhạc điệu, hội họa, suy tưởng, thời thế. Một bài thơ hay chứa đựng những điều
không thể nói được bằng lời, giữ cho nó sự giàu có bí ẩn. Mà không phải chỉ có
thế, ngay những bài thơ mà ý nghĩa của chúng được khai phá cùng kiệt, thì khi bạn
đi khỏi một thời gian, trở lại, cũng thấy như trở về nhà cũ, cũ mà thay đổi, có
lưu luyến có vui sướng, bạn tìm thấy một điều gì mới trước đó bạn không biết.
Trần Mộng Tú là một trong vài nhà thơ hải ngoại viết đều đặn, sung sức, tiếp
tục cái cách mà các nhà thơ Âu Mỹ thường làm,
tức là viết ngay cả trong những năm lớn tuổi, một điều hiếm thấy ở người Việt.
Chị trải qua nhiều thăng trầm, tuy vậy, vẫn giữ cho mình cái tình đằm thắm đối
với cuộc đời.
Trên chiếc xe ca đó
nhồi nhét bao con người
đi tìm vùng đất hứa
có đàn ông đàn bà
có người già em bé
xác thân đã nẫu chín
thành nước và bốc hơi
ứa ra cùng hy vọng
nhỏ giọt xuống mặt đường
Chuyến xe thảm kịch của người Việt năm nào.
Không phải bao giờ thơ cũng cần đến tiết kiệm, vì khác với thông tin, thơ không
phải là các mật mã. Sự duyên dáng của cách nói, giọng điệu, vẻ đẹp của các chữ,
cách phát âm của chúng, sự tương tác giữa các chữ bên nhau hay các chữ đồng vị.
Những chữ ít quan trọng, hư từ, trong văn nói ngoài đời đôi khi không có ý
nghĩa lắm, trong thơ chúng bỗng thành những chữ đặc biệt, tạo liên kết. Sự thân
mật trong bài thơ là mối quan hệ giữa tác giả và người đọc, mối quan hệ ấy
không phải bao giờ cũng dễ dàng. Trong các nhà thơ hiện đại, đó là mối quan hệ
chính thức, đứng về một phía, trong khi ở các nhà thơ hậu hiện đại, mối quan hệ
mang nhiều sắc thái hơn, từ thân mật đến lạnh lùng, thù địch, từ một phía thành
hai ba phía. Mối quan hệ giữa tác giả và người đọc trong thơ Trần Mộng Tú giản
dị, đó là khuynh hướng nhìn sự vật từ một phía, đồng lòng, đồng ý, có sự chia sẻ
từ ban đầu. Thành công của Trần Mộng Tú không
phải ở những cách tân táo bạo về từ ngữ, cách đảo câu đảo chữ, mà là những ý tưởng
sáng lấp lánh, hình ảnh bất ngờ, cái mới của ý tưởng. Ở chị cảm xúc và tư tưởng
đi liền với nhau. Tuy nhiên là một người sống giữa những thay đổi, từ trong nước
ra hải ngoại, cách viết của chị không thể không thay đổi. Đôi khi tôi bắt gặp một
cách thích thú những chữ lạ, hình ảnh lạ, đó là cách phá vỡ sáng tạo, thuyết phục.
Giữa những câu thơ vần điệu mềm mại, tự nhiên, có những câu đứng lại, tách ra,
lạ hóa, gây liên tưởng.
Sao anh còn trẻ thế
Sao em còn trẻ thế
Sao tình yêu hai ta còn trẻ thế
Lại lăn vào
Một cuộc chiến già nua
Có khi chị bộc lộ nỗi cay đắng, sự nghi ngờ,
tâm trạng lo âu. Những khi như thế tôi thấy chị gần với người đọc, xao xuyến
hơn, sống động hơn. Vui buồn của chị trở thành vui buồn nhân thế. Em nghe nói
hòa bình
Trên những tờ nhật báo
Em nghe nói hòa bình
Trên miệng người lãnh đạo
Em để lòng khờ khạo
Ôm giấc mơ hòa bình
Mong chiến tranh chấm dứt
Anh giã từ đao binh
Tin về từ trận tuyến
Anh chết giữa chiến trường
Ôi giấc mơ khờ khạo
Chỉ còn là đau thương
(Tháng 7/1969)
Thơ Trần Mộng Tú có nhiều bài như bài hát ru,
litany. Litany có phải là một thể loại thơ hay không thì tôi không chắc, nhưng
đó là một bài thơ bạn có thể đọc lại nhiều lần, ngâm, các câu có một số chữ bằng
nhau, cấu trúc cân đối, du dương, ý tưởng bất ngờ. Đó là sự pha trộn giữa thơ và
nhạc, vì vậy có những đặc điểm của cả hai. Trần Mộng Tú dùng các chữ thuần Việt,
dễ hiểu. Trong thơ, chân thực là một ưu điểm, nhưng chất phác thì không phải. Một
ngôn ngữ trí thức thường trừu tượng, một ngôn ngữ bình dân có tính cụ thể. Trần
Mộng Tú là một nhà thơ đô thị, chị viết về cuộc sống của người dân thành phố
nhưng ở chị có một tình yêu vô bờ đối với thiên nhiên. Giữa đô thị và thiên
nhiên, Trần Mộng Tú tái lập sự hòa điệu, đánh mất, xác lập trở lại. Trong khoảng
giao hòa hai thứ ấy, thơ chị phảng phất khuynh hướng sinh thái học. Ngày trước,
kể từ thơ mới, thơ đi từ cái ta đến cái tôi, kêu gào đòi hỏi cái tôi. Sau năm 1975,
ở một số nhà thơ, ít nhất là ở hải ngoại, chúng ta thấy khuynh hướng đi từ cái
tôi đến cái ta. Nhưng ở Trần Mộng Tú thì không.
Tôi xa người như xa mùa xuân
Ngực tôi còn đọng chút hương trầm
Mảnh trời trong mắt còn xanh biếc
Người đã mơ hồ như vọng âm
Tôi xa người như xa cơn mưa
Tóc tôi còn ướt đến bây giờ
Nhớ tôi người có châm điếu thuốc
Nhớ tôi người có đi trong mưa
Tôi xa người như xa quê hương
Những dấu thân yêu mất cuối đường
Người nhặt hộ tôi hoa dĩ vãng
Lau giùm dòng lệ ở vết thương
Người đọc có thể cùng lúc sống hai cuộc đời,
cuộc đời của cá nhân và cuộc đời của tác phẩm văn chương. Đó là sự diễn dịch của
văn bản đạt tới tự do cao độ. Mỗi lần đọc, bài thơ có một ý nghĩa khác, có một ảnh
hưởng khác lên người đọc, vào lúc ấy người đọc hôm qua không còn là người đọc
hôm nay. Âm điệu cũng chưa phải là tất cả, chúng bao giờ cũng đến cùng một lúc
với một câu chuyện được kể lại. Câu chuyện là một sự việc đã từng xảy ra trong
thời gian, và được nhớ lại, và điều này là quan trọng nhất, mỗi lần nhớ lại là
một lần khác nhau, biến đổi.
Đã lâu quá anh không về gõ cửa
lồng ngực em. Trái đỏ vẫn còn nguyên
ôi có phải mùa xuân đang nhóm lửa
tay lạnh thế này ai sưởi cho em.
Táo bạo mà kín đáo. Những bài thơ hay của chị
là những bài gây ấn tượng chúng được viết một cách tự phát, ngẫu hứng; có lẽ là
một trong những đặc tính của chủ nghĩa lãng mạn, vốn nhấn mạnh đến các nguồn “cảm
hứng” (inspiration) trong thơ ca. Như một hệ quả của điều vừa nói, sự uốn nắn
câu chữ, phép tu từ dày đặc làm mất vẻ tự nhiên, vì vậy không được khuyến
khích. Thơ Trần Mộng Tú ít có thủ pháp đẽo gọt như thế. Chị viết hầu hết là thơ
có vần, nhưng ở những câu buông vần lỏng lẻo, dài ngắn khác nhau, thể tự do, chị
thể hiện tính ngẫu cảm, tự nhiên, bay bổng.
Bây giờ thì mẹ đã đi thật xa
Ngôi nhà cũ con trở về chiều nay không thấy mẹ
Con đi chung quanh căn bếp nhỏ không nghe tiếng
bát đũa cười
Con mở cửa từng căn buồng ngày xưa của mấy đứa
nhỏ và căn buồng của mẹ
Lối kể chuyện tỉ mỉ, từ tốn. Khúc quanh của
bài thơ, sự xung đột hoặc tính kịch như vậy nằm ở sự thay đổi nội dung truyện kể,
những phát hiện bất ngờ, một ẩn dụ mới lạ hơn là dưới sức chảy của ngôn ngữ. Sự
ngạc nhiên, cái bất ngờ, là một loại năng lượng đẩy bài thơ đi, không xuất hiện
nhiều lắm trong thơ Trần Mộng Tú. Ngược lại sự phát hiện tinh tế, nguồn xúc cảm
lớn lao bên dưới bài thơ, tính chân thực của xúc cảm ấy là điểm mạnh của thơ chị.
Em không còn là em
Xin chàng đừng yêu nữa
Con người không làm chủ hoàn toàn số phận của
mình, không chọn lựa nơi sinh ra và lớn lên, không tham dự vào những quyết định
đã được chọn lựa bởi người khác, trước đó nhiều năm, nhưng cá nhân chịu trách nhiệm
về hành động của mình trong hiện tại.
Con và hoa cúc vàng
vào nghĩa trang thăm Mẹ
dưới những hàng cây phong
cả hai cùng lặng lẽ
Thơ như haiku. Bài thơ là một sự vật, không phải
một biểu tượng. Cách đọc thơ nghiêng về quy nạp hơn diễn dịch, đi từ cái riêng
đến cái chung, hơn là từ cái chung đến cái riêng. Thơ Trần Mộng Tú đặt ra câu hỏi:
Tôi là ai, tôi sống với ai, tôi sống cuộc đời này như thế nào. Văn chương tất nhiên
không phải là câu trả lời cho những câu hỏi ấy, nhưng chúng làm cho chúng ta tiến
gần lại câu hỏi, ngày một gần hơn, làm cho đời sống trở thành sự tra vấn liên tục.
Trần Mộng Tú có một sự chú ý đặc biệt đối với các chi tiết, nhạy cảm với sự bất
công, dung tục, với tội ác. Chị đi qua lịch sử như một nhân chứng, chị viết như
một người quan sát ở khoảng cách gần. Tất cả những yếu tố trong bài thơ đều hướng
tới sự kết thúc, tức là tái tạo những cảm xúc từ khi bắt đầu bài thơ, làm cho
người đọc sống lại trải nghiệm. Sự kết thúc ấy hoặc có khuynh hướng gây ngạc nhiên,
uốn cong một câu chuyện, hoặc nâng cao một ý nghĩa, làm bền
vững hơn những suy nghĩ của người đọc. Thơ Trần
Mộng Tú có kiểu kết thứ hai. Các hình ảnh trong thơ là ví dụ về những ý tưởng
không thể diễn tả bằng lời, tác động lên người đọc, chuyển họ từ trạng thái
không biết thành đồng cảm.
Anh đến với em vào ngày hạ chí
ngày mặt trời tình tự với đêm
buổi chiều trên cao buổi chiều không cúi xuống
sao bóng anh ngã xuống bóng em
ngày hạ chí thân thể anh như đuốc
anh kéo mặt trời xuống thắp sáng em
những tia lửa rắc cả vào trong áo
ngày tham lam không nhường chỗ cho đêm
Trần Mộng Tú sống theo những giai đoạn lịch sử
của người Việt, giai đoạn Việt Nam cộng hòa, giai đoạn lưu vong và hội nhập ban
đầu, trải qua thăng trầm như đa số đồng bào khác ở hải ngoại. Thơ Trần Mộng Tú là
thơ trữ tình - nhân chứng. Chị nặng về mô tả hiện thực, tư duy thơ bám chặt vào
đời sống, nhưng thiếu một chiều sâu triết học, chất siêu hình. Tình cảm đằm thắm,
mới đọc tưởng quen nhưng đọc kỹ, thấy lạ.
Những bài thơ thành công nhất vẫn là thơ viết
về mình, viết cho những cảnh đời của mình. Ở Trần Mộng Tú có sự liên tục giữa
quê nhà và lưu vong, giữa cuộc chiến tranh đã qua và hòa bình, giữa một xã hội
nay không còn nữa và những lý tưởng hôm nay của chị. Sự liên tục ấy là hết sức
độc đáo, cần được bảo toàn mỗi ngày.
Bằng cách nào?
Em gửi cho anh
chiếc lá bàng cuối thu Hà nội
hồi chuông giáo đường
buổi sớm tinh mơ
góc phố Nhà Chung có bầy sẻ nhỏ
một con rất gầy
đứng hót ngu ngơ
Em gửi cho anh
tơ tầm mới dệt
giăng từ Hàng Đào đến phố Hàng Bông
khúc lụa trắng ngả sang
mầu nguyệt bạch
sợi dệt ngang như mây vắt
trăng rằm
Em gửi cho anh
ly cà phê buổi tối
mùi ngô non
nướng dưới cột đèn
mảnh than nhỏ sưởi mùa thu
sắp hết
hơ gót chân ai
hồng giữa phố đêm
Em gửi cho anh
chiếc kiềng bạc trạm
đang khoe mình
làm mới phố Hàng Gai
ảnh mẹ chụp mấy mươi năm về trước
cổ có đeo
một chiếc giống thế này
Em gửi cho anh
đất trời Hà nội
để anh nhớ về thành phố
tuổi thơ
nơi hạnh phúc là một viên kẹo bột
được bạn chia cho trong một lúc
không ngờ.
Trong thơ trữ tình, chị có lối kể chuyện và mô
tả sự việc khéo léo. Qua thơ Trần Mộng Tú, những thế hệ sau tìm thấy khuôn mặt
người Việt những năm cuối thế kỷ hai mươi, đầu thế kỷ hai mươi mốt. Tôi nghĩ mỗi
bài thơ của chị là một căn phòng chiếu sáng, trên bàn có tách trà, lọ hoa thanh
nhã, ngoài vườn tiếng chim hót, bài thơ trở thành cuộc trò chuyện thân mật, tuy
không phải hoàn toàn vô sự. Đôi khi giữa những câu thơ, dội lại tiếng sóng cồn
cào, từ xa, từ bên trong rất sâu của đời sống có một câu chuyện bí ẩn chưa được
kể, cuộc hôn nhân chưa thành tựu, cuộc chiến tranh chưa chấm dứt. Bạn muốn bước
vào, bạn gõ cửa. Đôi khi cửa mở, đôi khi khoá im ỉm, không người. Bạn nghĩ, bạn
sẽ trở lại.
Thân thể em
soi gương đã cũ
trái đất ôm
mấy chục vòng quay
Sao
vuốt ve anh
mỗi ngày một mới
Có phải mỗi ngày.....anh đổi một bàn tay
Chúng ta hiểu đời sống thường xuyên thay đổi,
sinh ra và mất đi, có rồi không. Bạn trở nên khiêm tốn trong giây phút trước
cái chết, trước sự đau khổ của người khác. Bài thơ của chị khai mở những cảm nhận
giác quan, có tính vật thể, sau những đau thương, con người hồi phục. Thời gian
hồi phục có khi lâu dài, nhưng chúng ta sẽ hồi phục, đang trên đường đi tới đó.
Đôi khi, thời gian dừng lại ngoái nhìn, chờ đợi chúng ta. Trần Mộng Tú khép
kín; tiếng nói của chị lặng lẽ, nhưng đó không phải là sự cô độc, hoặc nếu cô độc
thì đó không phải là sự cô lập, tách rời khỏi thế giới, nối kết. Tương thông và
cô độc ở người nghệ sĩ có mối quan hệ phức tạp; người nghệ sĩ cần sự riêng tư
sáng tạo, cần đời sống nội tâm để làm giàu những chất liệu nghệ thuật nhưng họ
cũng sống giữa đám đông, trong dòng chảy lịch sử, cùng than khóc số phận đất nước.
Thơ Trần Mộng Tú không đạt tới cái cùng cực, cái chênh vênh, sự cực đoan, mê cuồng,
thực ra đôi khi cũng cần thiết trong nghệ thuật. Chị có niềm tin tôn giáo,
nhưng chị không làm thơ chỉ để ca tụng đấng tối cao. Thơ Trần Mộng Tú đi giữa một
thế giới bên ngoài đầy biến động và một thế giới nội tâm an tĩnh. Cuộc đời
riêng của chị có thể trải qua những bi kịch, chị đã chứng kiến chiến tranh và tội
ác. Hình ảnh của người đàn ông đầu tiên trong đời, người lính ngã xuống trên
chiến trường, được chị kể lại đây đó, có lẽ là một vết thương không bao giờ
nguôi, vết thươngcá nhân và vết thương đất nước, cuộc đời của họ là bi ký của
Việt Nam. Sự gắn bó của Trần Mộng Tú với đời sống là sự gắn bó có tính nghệ thuật.
Chị giao tiếp với cuộc đời bằng ngôn ngữ thơ ca, thấu hiểu và an ủi, tra vấn và
thương yêu, và sẽ được nhiều người trong chúng ta, kể cả những thế hệ về sau,
nhớ lại thông qua ngôn ngữ ấy.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
(Đọc Thơ - Bài 28)
CHÚ THÍCH:
(1) While poetry attempts to convey something
beyond what can be conveyed in prose rhythms, it remains, all the same, one
person talking to another (T. S. Eliot, The music of poetry, 1942).
(2) Sơ lược tiểu sử Trần Mộng Tú (tóm tắt từ
nhiều nguồn): sinh tại Hà Đông ngày 19 tháng 12 năm 1943, theo gia đình di cư
vào Nam, sống tại Sàigòn. Năm 1968, chị làm cho hãng thông tấn Associated Press
tại Sàigòn. Ngày 21-4-1975, Trần Mộng Tú di tản đến Mỹ, sau đó định cư tại tiểu
bang Washington, tiếp tục làm việc cho hãng Associated Press. Trần Mộng Tú cộng
tác với nhiều báo và tạp chí như Làng Văn, Văn Học, Văn, Thế Kỷ 21, Diễn Đàn Thế
Kỷ, Da Màu, Văn Việt. Năm 1999,
thơ của Trần Mộng Tú được đưa vào sách giáo
khoa ở một số trường trung học ở Hoa kỳ. Từ năm 2000, viết truyên nhi đồng trên
nhật báo Los Angeles Times. Từ 2002 đến 2005, chủ bút nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình.
Trong ban chủ trương của Diễn đàn thế kỷ online.
No comments:
Post a Comment