Ngô
Thế Vinh
Hình 1: trái, thầy giáo
Trần Hoài Thư (1967) ở tuổi 25 khi mới chuẩn uý
về làm trung đội trưởng
thám kích sư đoàn 22 Bộ binh. [nguồn: “Nhà văn Việt Nam”
của Lương Trọng Minh];
phải, nửa thế kỷ sau nhà văn Trần Hoài Thư (2017) ở tuổi 75
đang ngồi khâu Di sản
Văn học Miền Nam dưới tầng hầm căn nhà 719 Coolidge Street,
Plainfield, New Jersey
07062, là địa chỉ Thư Ấn Quán, cũng là toà soạn Thư Quán Bản Thảo.
[ nguồn: ảnh THT tự chụp
từ video với iPhone 5; Chân Dung VHNT & VH, Việt
Ecology Press 2017 ]
LỜI DẪN NHẬP: Trần Hoài Thư (THT) là một tên tuổi có trong danh sách các
tác giả của Tuyển Tập Chân Dung VHNT & VH II, nhưng cũng để thấy rằng đây
là một chân dung văn học rất khó viết, do đã có quá nhiều người viết về đủ mọi
khía cạnh của THT. Hơn thế nữa cuộc đời và sự nghiệp của THT quá phong phú nên
với một bài viết dù chỉ là phác thảo cũng vẫn là một thiếu sót. Gần đây, qua
bao nhiêu biến cố dồn dập trong cuộc đời Trần Hoài Thư, đã đến lúc không thể
không có một bài viết về người bạn văn, như một tấm thiệp mừng 50 năm ngày cưới
– 50th Gold anniversary của đôi vợ chồng Nguyễn Ngọc Yến – Trần Hoài Thư, một
“đám cưới nhà binh” của thế kỷ, với rất nhiều hạnh phúc cùng với nhiều khổ đau
khi cả hai sắp bước vào tuổi 80. Cũng nhân đây, có một gợi ý với các bạn trẻ
trong và ngoài nước đang chuẩn bị luận án tiến sĩ văn học, thì chân dung văn
hoá của Trần Hoài Thư cùng với nỗ lực phục hồi Di Sản Văn Học Miền Nam 1954 –
1975 là một đề tài vô cùng phong phú và hấp dẫn, rất xứng đáng để các bạn khám
phá và dấn thân vào. Các bạn cũng không còn nhiều thời gian – nói theo cách ví
von của nhà văn trẻ Trần Vũ, chiếc kim đồng hồ trên tay anh Trần Hoài Thư đã chỉ
12 giờ kém 5 phút sắp qua nửa đêm và chỉ sau năm phút phù du đó, khi Trần Hoài
Thư trở thành “người của trăm năm cũ”, tất cả sẽ bị lớp bụi thời gian mau chóng
phủ mờ.
TIỂU
SỬ TRẦN HOÀI THƯ
Trần
Hoài Thư tên thật Trần Quí Sách, sinh ngày 16/12/1942 tại Đà Lạt. Tuổi thơ bị
thất lạc cha, theo mẹ sống khổ cực ở thành phố Nha Trang, có một thời gian sống
trong cô nhi viện Bethlehem Hòn Chồng. Sau khi được đoàn tụ với thân phụ – là một
ông đồ còn mặc áo lương đen, THT mới được theo học trường Quốc Học Huế, rồi vào
đại học Khoa học Sài Gòn. Từ năm 1964-1966 là giáo sư Toán đệ nhị cấp trường
trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ tỉnh Quảng Tín (nay đã sát nhập vào tỉnh Quảng
Nam).
Năm
1967, nhập ngũ khóa 24 SQTB Thủ Đức. Phục vụ tại đại đội 405 Thám kích sư đoàn
22 Bộ binh. THT bị thương 3 lần. Lần đầu tiên do một viên đạn AK VC bắn vào ngực
trái khi đơn vị anh tới tăng viện cho mặt trận Quy Nhơn trong Tết Mậu Thân
1968, THT phải nằm Quân Y viện Quy Nhơn một thời gian. Hai lần sau đều là những
vết thương miểng do lựu đạn trong hai cuộc giao tranh khốc liệt trên chiến trường
Bình Định: một trên ngọn đồi Kỳ Sơn với 4 sĩ quan tử trận 2 sĩ quan còn lại bị
thương trong đó có THT, một trên trận địa xứ dừa Bồng Sơn. THT rời đơn vị Thám
kích sau 4 năm với 3 chiến thương bội tinh, rồi về làm phóng viên chiến trường ở
vùng IV nơi anh mới có một người vợ đồng bằng – Ngọc Yến là một cô gái Cần Thơ
mê văn anh, cho tới ngày 30/4/1975.
MỘT
MỐI TÌNH VĂN CHƯƠNG
Trần
Hoài Thư khởi sự viết văn từ năm 1964, có lẽ sớm hơn. Truyện ngắn đầu tay Nước
Mắt Tuổi Thơ được đăng trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn. Ngoài Bách Khoa, những
năm sau đó THT còn cộng tác với Văn, Văn Học, Đời, Bộ Binh, Thời Tập, Vấn Đề,
Khởi Hành, Ý Thức...
Không
biết cô gái Cần Thơ Nguyễn Ngọc Yến bắt đầu đọc và hâm mộ Trần Hoài Thư từ bao
giờ. Trên Tạp chí Sóng Văn (1997), Ngọc Yến cho biết: “cũng vì yêu mến văn
chương, nên duyên văn nghệ đã đưa chúng tôi gặp nhau, và nhà văn Nguyễn Lệ Uyên
là ông mai”. Từ trước đến nay, tôi vẫn đinh ninh anh Lê Ngộ Châu chủ nhiệm Bách
Khoa là ông mai. Qua Đỗ Nghê, tôi đã liên lạc được với Nguyễn Lệ Uyên, và anh
đã mau mắn trả lời tôi ngay trong đêm qua một email [viết ngày 05.05.2021]:
“Chuyện
là thế này: hồi học Sư Phạm Đại học Cần Thơ (1968), lúc làm hồ sơ nhập học bị
trễ mấy ngày, bị làm khó. May sao gặp chị Yến làm ở phòng Hành Chánh của Viện
nói giúp với ông Khoa trưởng. Sau đó thì thân nhau, bởi chị cũng biết tôi có võ
vẽ mấy truyện ngắn trên Văn, Khởi Hành... mà chị thì mê văn chương, đọc nhiều,
các tạp chí văn học chị hầu như ít bỏ sót, nên chúng tôi coi như chị em, chị lớn
hơn tôi 7,8 tuổi. Những dịp nhận nhuận bút, tôi thường chở chị đi ăn món gì đó.
Rồi trên số Văn chủ đề Những cây bút trẻ, lại có truyện của tôi và anh Trần
Hoài Thư. Khi nhận nhuận bút, tôi mời chị đi ăn bún bò Huế ở quán ông Ba Mập
ngoài Bình Thủy, trên đường đi Long Xuyên. Ăn, chị hít hà, chảy nước mắt và
khen ngon. Trong lúc ăn, chị hỏi tôi có biết, quen anh THT không, có nhận xét
gì về truyện anh Thư. Tất nhiên là quen nhiều, vì ảnh, từ Quy Nhơn hay vào chơi
với anh em văn nghệ Tuy Hòa năm ba hôm, thường thì ăn uống rồi ở lại nhà tôi.
Thâm
tâm, tôi chỉ nghĩ chị hỏi để hiểu rõ thêm về một tác giả, nhưng không ngờ, chị
mê truyện anh Thư, mê các nhân vật khốn khổ của ảnh, như hiện thân của một THT
được bê nguyên xi vào truyện rồi yêu cả truyện và người viết! Tới cuối năm 69 đầu
70, nhóm sinh viên chúng tôi thực hiện chương trình ca nhạc, đọc, ngâm thơ hàng
tuần ở giảng đường lớn, chị mới biểu lộ tình cảm thật của chị đối với anh Thư.
Chị hỏi tôi gia cảnh, sinh hoạt cá nhân, tính tình... Vậy là đã rõ. Tôi ra sức
vẽ vời anh THT còn hay hơn truyện tôi viết. Tôi sơn phết anh Thư cho tròn trịa
hơn một chút, bặm trợn, lãng mạn như cụ Hemingway một mình giữa biển khơi. Tối
đó, tôi viết cho anh Thư đến 4, 5 tờ pelures về chị Yến. Kể thật về điều tai
nghe mắt thấy, về nhan sắc, tính tình của chị trong gia đình gia giáo (ông cụ
thân sinh chị là GS Tổng Giám thị trường Trung học Phan Thanh Giản). Với anh
THT, tôi viết thư nói đây là một mẫu người lý tưởng để làm vợ, anh đừng để mất
cơ hội. Chị Yến thì gần, gặp nhau hai chị em nói chuyện thơ văn, tán dương ông
anh Qúi Sách, khuyến khích chị viết thư làm quen với các nhân vật của ảnh. Sau
vài ba lần như vậy, tôi nói thẳng với chị: Anh Thư là một người tuy không hoàn
hảo, nhưng sẽ là người chồng tốt…” [hết trích dẫn]
Từ
đó địa chỉ Tòa soạn Bách Khoa, trở thành hộp thư để cô gái miền Tây làm quen và
liên lạc với người lính lang bạt Trần Hoài Thư. Sau đó Bách Khoa cũng là điểm hẹn
cho lần gặp gỡ đầu tiên của hai người. Rồi trong một chuyến về phép ngắn ngủi,
Thư có hẹn lần đầu gặp Yến ở Bách Khoa. THT vui bạn bè nên trễ buổi hẹn với Yến.
Khi Đỗ Nghê chở Thư tới 160 Phan Đình Phùng thì Yến đã giận bỏ đi. Và cũng
chính anh Lê Ngộ Châu đã tất bật đuổi chạy kịp theo Yến đưa trở lại toà soạn gặp
THT. Những kỷ niệm trân quý với anh Lê Ngộ Châu là điều mà mãi sau này THT
không bao giờ quên. Rồi không lâu sau đó hai người nên duyên vợ chồng. Thư đã
làm lễ thành hôn với Yến ngày 18/6/1971.
Nguyễn
Lệ Uyên viết tiếp: “Cuối cùng, như duyên tiền định với tô bún bò Huế cay xè tôi
đãi chị, hai người hẹn hò nhau ở tòa soạn Bách Khoa, đến tháng 6,1971 hai người
làm đám cưới; khi ấy tôi đang ở quân trường Thủ Đức, nhận được thư chị viết mấy
dòng ngắn: Chị và anh Thư cưới nhau, ngày... tháng... năm... Em gắng lấy giấy
phép về dự, không anh chị buồn".
Đúng
là một “đám cưới nhà binh” tại Sài Gòn không thể nào đơn giản hơn, chỉ với mươi
người bạn nơi một căn nhà trong xóm Bàn Cờ, không có rước dâu cũng không có cả
nhẫn cưới.
Một
tuần lễ sau, ngày 23/6/1971 Cơ sở Xuất bản Ý Thức tổ chức một buổi ra mắt sách
cho Trần Hoài Thư với tác phẩm đầu tay “Những Vì Sao Vĩnh Biệt” có Trần Phong
Giao thư ký toà soạn Văn tới tham dự.
TIỂU
ĐĂNG KHOA ĐẠI ĐĂNG KHOA
Trong
tờ Văn 181 tháng 07/1971, nhà văn Trần Phong Giao viết: “Người xưa coi đại đăng
khoa là thi đỗ, tiểu đăng khoa là cưới vợ. Đối với người cầm bút trẻ thời nay,
phải “xếp bút nghiên theo việc đao cung” thì đại đăng khoa không còn là thi đỗ,
mà (có lẽ vậy) là có tác phẩm được in. Cây bút trẻ Trần Hoài Thư viết rất nhiều
hiện nay, qua cả tiểu lẫn đại đăng khoa, cùng lúc. Ngày 18 tháng 6, anh đã làm
lễ thành hôn với cô Nguyễn Ngọc Yến tại Sài Gòn trong vòng thân mật. Ngày 23
tháng 6, vào hồi 19 giờ 30, Cơ sở Xuất bản Ý Thức vừa tổ chức một buổi tiếp tân
trình diện tập truyện đầu tay của Trần Hoài Thư “Những Vì Sao Vĩnh Biệt”. Tiểu
đại đăng khoa xong, Trần Hoài Thư vội vã lên đường trở về đơn vị ở Quân khu II.
Lính chiến chỉ có một tuần nghỉ phép. Chạy ngược chạy xuôi, không có tuần trăng
mật, cũng như không kịp đem sách mới đi tặng anh em bà con. Vui vậy đó! Nhân dịp
vui mừng này, chúng tôi xin có lời cầu chúc đôi bạn Thư -Yến một hạnh phúc bình
dị, lâu dài và bền chặt, Cũng xin cầu chúc tác giả “Những Vì Sao Vĩnh Biệt” sẽ
sớm có thêm nhiều tác phẩm mới khác, những tác phẩm não tuỷ và tinh tuỷ."
Một
năm sau, đứa con trai đầu lòng Trần Quí Thoại cũng là đứa con duy nhất chào đời.
Đôi uyên ương Thư-Yến cho dù qua bao thăng trầm, họ đã có một cuộc sống lứa đôi
hạnh phúc bình dị, lâu dài và bền chặt cho tới bây giờ, đúng một nửa thế kỷ
(1971 – 2021).
Hình 2: Chủ nhiệm Lê Ngộ
Châu và báo Bách Khoa,
người chọn đăng truyện
ngắn đầu tiên Nước Mắt Tuổi Thơ
của Trần Hoài Thư trên
Bách Khoa 1964.
Hình 3: phải, nhà văn Trần
Phong Giao Thư ký Toà soạn báo Văn
[ photo by Lê Phương
Chi, Tin Sách Hội Bút Việt ]; giữa, bản tin trên
báo Văn số 181, tháng
7/1971 loan tin THT cưới vợ: tiểu đăng khoa, và
THT ra mắt tác phẩm đầu
tay: đại đăng khoa; trái, bìa cuốn Những Vì Sao Vĩnh Biệt
do Nhóm Ý Thức xuất bản
1971. [tư liệu Thư Quán Bản Thảo]
Sự
thực tác phẩm đầu tay của Trần Hoài Thư là cuốn Nỗi Bơ Vơ của Bầy Ngựa Hoang
cũng do cơ sở Ý Thức xuất bản năm 1969, tại Phan Rang một tỉnh lỵ nhỏ của miền
Nam, dưới hình thức “phổ biến hạn chế” theo cái nghĩa không qua kiểm duyệt. Mẫu
bìa 2 màu do Lê Ký Thương vẽ, bản kẽm bìa làm từ Cliché Dầu Sài Gòn, được in
typo bằng máy đạp / pedal thô sơ, và in 2 lần, mỗi lần cho một màu chồng lên
nhau. Ruột sách thì in ronéo và khi thực hiện trên giấy stencil, được chị Kim
Phương bạn của Nguyên Minh canh lề bằng chân sao cho giống bát chữ typo. Đợt đầu
100 ấn bản được ra mắt và phát hành từ nhà sách Huy Hoàng Nha Trang, cũng là
quê hương tuổi thơ nghèo khó của Trần Hoài Thư. Và kết quả Nỗi Bơ Vơ của Bầy Ngựa
Hoang đã được độc giả miền Nam đón nhận trong sự ngạc nhiên và thích thú.
Như
vậy, Những Vì Sao Vĩnh Biệt phải được kể là tác phẩm thứ hai của Trần Hoài Thư
nhưng là tác phẩm thứ nhất hoàn toàn được in theo kỹ thuật typo.
Les
Trois Mousquetaires – Ba Chàng Ngự Lâm ít nhiều có “hệ luỵ” với cuộc đời Trần
Hoài Thư, từ trái: Lê Ký Thương, người vẽ bìa cho tác phẩm đầu tay Nỗi Bơ Vơ của
Bầy Ngựa Hoang của THT do Ý Thức xuất bản (1969), Nguyễn Lệ Uyên, “ông mai” xe
duyên cho đôi uyên ương Ngọc Yến-THT (1969), Đỗ Nghê người chở THT tới buổi hẹn
đầu tiên của Ngọc Yến-Trần Hoài Thư tại toà soạn Bách Khoa (1970). [tư liệu Đỗ
Nghê, hình do Cao Kim Quy vợ Lê Ký Thương chụp tại nhà LKT 09.05.2021]
PHÓNG
VIÊN CHIẾN TRƯỜNG VÙNG IV
Trần
Hoài Thư sống sót sau 4 năm trong một trung đội Thám kích, với 3 lần bị thương,
được coi như một phép lạ. Sau khi lập gia đình, Trần Hoài Thư đã nghĩ tới dừng
chân lại. Phải được sống và tiếp tục được viết như một nhân chứng. Rồi bằng một
cách thế không giống ai, không tuân theo hệ thống quân giai, một lỗi rất nặng về
quân kỷ, Trần Hoài Thư tự viết một thư riêng cho vị tướng cao cấp nhất trong Tổng
cục Chiến tranh Chính trị, với nguyện vọng vẫn được ở trong quân ngũ nhưng chuyển
ngành sang làm một phóng viên chiến trường. Trong phong thư riêng ấy, có những
trang báo, những bài viết, những tác phẩm đã xuất bản và dĩ nhiên cả những tin
tức liên quan tới ba lần bị thương cùng với các huy chương.
Không
phải chờ đợi lâu, một sự việc lạ lùng nhất đã xảy ra. Trần Hoài Thư đã viết báo
tin ngay cho Yến: “Không thể tưởng tượng cho một kẻ xuất thân từ đơn vị hai quản
trị mà tờ sự vụ lệnh vẫn còn ghi: sĩ quan đương sự phải phục vụ ở đơn vị tác
chiến, xa trục lộ giao thông. Nhưng cái công điện đánh lên từ Tổng cục Chiến
tranh Chính trị, cho biết Tổng cục chấp thuận ý nguyện của anh và hỏi anh muốn
về nơi nào: vùng I, II, III, IV hay thủ đô. Dĩ nhiên anh chọn vùng IV nơi có Yến,
người nữ độc giả của anh, và nay trở thành người vợ mới cưới của anh. Có lẽ anh
may mắn hơn cả những người may mắn, bởi vì khó có ai được quyền lựa chọn một
đơn vị mình ưa thích trên toàn cõi miền Nam như anh.”
Như
một tự sự, THT viết: “Xin cảm tạ văn chương. Nhờ văn chương mà tiếng chuông
ngân vang, như những niềm vui lẫn tự hào kỳ diệu. Nhờ văn chương mà ta quên đi
thân phận nhục nhằn, nhờ văn chương mà ta thấy ta cao lớn hơn bao giờ.”
Hành
Phương Nam là những dòng chữ mới mẻ của một Trần Hoài Thư khác, của một người
lính đang từ Cao nguyên nay xuống dưới Đồng bằng:
“Phương
Nam. Tôi bắt đầu làm quen với những chiếc xe lôi hay những chiếc xuồng tắc
ráng. Hay những cánh đồng mênh mông bạt ngàn. Hay những rừng tràm rừng đước.
Tôi bắt đầu làm quen với những bãi đầm sình lún ngập đến cổ người. Những hàng ô
môi, những chòm bông điên điển, những lời kinh giảng vang vọng trong đêm trăng,
những tấm lòng hiền như đất, trọng tình trọng nghĩa mà tôi đã gặp. Tôi cám ơn,
rằng cuối cùng Ơn Trên đã cho tôi một cõi nương tựa sau những tháng ngày lênh
đênh trôi nổi… Cánh cửa đã mở ra như Phương Nam đã mở ra, đón tôi. Có mùi thơm
khó có thể quên của bông lúa, hương cau, của mùi đất phù sa lan toả. Cánh cửa ấy
đã được kết bằng những chùm mận trĩu nặng trên cành, rực đỏ giữa màu xanh của
lá. Nơi nào, từ vườn sau nhà, hay bên dòng kênh, hay trước nhà, hay cạnh bờ ao,
hai bên đường quốc lộ, những vườn mận sum suê trái quả. Có trái màu đỏ, có trái
màu xanh, trái ửng hồng. Mời mọc ngọt lịm như đôi môi hồng muốn cắn, no đầy
tròn trịa như bầu ngực con gái thanh tân, bầu bĩnh au au như đôi má ửng hồng của
người gái quê quấn chiếc khăn sọc vằn chèo thuyền xuồng đưa người qua sông
trong một ngày mùa hạ để bắt người khách không muốn về:
Qua
sông mùa mận chín
Tháng
nắng ngại đường xa
Em
ra vườn sau nhà
Hái
mời anh chùm mận
Bông
mận rơi lấm tấm
Da
mận hồng như môi
Ôi
con mắt có đuôi
Má
hồng đào ửng đỏ
Si
em người em nhỏ
Ta
ở mãi quên về
Trái
mận nào dậy thì
Ta
giữ hoài không cắn…
‘NGƯỜI
VƯỢN’ TRẦN HOÀI THƯ
Nhưng
rồi cũng chẳng được bao lâu, tới ngày 30/4/1975 lại một đổi đời. Trần Hoài Thư
bị bắt đi tù cải tạo khi thằng con trai mới 2 tuổi. Cây mận trước sân nhà bông
đã nở trắng, trắng như tóc của bà ngoại nó.
Hơn
4 năm tù khổ sai, mấy tháng đầu bị giam tại Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng cũ,
thuộc huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang; sau đó THT bị chuyển qua trại tù Kiên
Lương, trong một khu đầm lầy còn hoang vắng phía tây bắc tỉnh Kiên Giang gần
biên giới với Cam Bốt.
Kiên
Lương cũng như mọi trại tù cải tạo cộng sản khác, không bỏ tù nhân chết đói
nhưng luôn luôn phải thiếu ăn. Thiếu ăn ngay giữa một vựa lúa ĐBSCL có thể nuôi
sống cả nước.
Nhân
danh nhân đạo, ban quản giáo trại cho phép đám tù nhân được lập thêm toán cải
thiện: trồng rau trái và hái lượm để có thêm chất xanh. Vì Kiên Lương là vùng
trũng [thuộc khu tứ giác Long Xuyên, vùng trũng thứ hai là Đồng Tháp Mười], giữa
mênh mông rừng tràm với rất nhiều tôm cá, cua ốc. Với cơ duyên đó THT tình nguyện
xung phong ngay vào nhóm đi câu, gọi là nhóm chứ đó là thứ lao động mà đám tù
nhân muốn xa lánh: do sợ đỉa vắt và cả vô số trăn rắn trong khu rừng tràm; họ
còn sợ nước phèn ăn da thịt và cả sợ sa chân vào vùng đất lún trong khu đầm lầy.
Do nghĩ rằng chẳng có lối nào mà trốn thoát, nên lính canh trại cũng không cần
phải đi theo canh gác. Với THT đó lại chính là cơ hội để có những khoảnh khắc sống
tự do cho một tên tù thám kích đã quá quen với mưu sinh và thoát hiểm. Chàng
Robinson Crusoe bất đắc dĩ thời hiện đại THT viết: “Tôi thì muốn tránh những
con mắt. Tôi muốn trong rừng tôi có quyền la hét, hát hò, ỉa đái, cười ha hả.
Tôi muốn ôm lấy đời tôi cùng thiên nhiên, mây trắng. Tôi muốn ngồi trên cây
tràm như một con vượn người.”
Do
nguồn cá thì ê hề: cá lóc, cá trê, cá rô… câu được với lưỡi câu tự chế với mồi
trùn, những con trùn béo nhẫy rất dễ kiếm. Người tù khổ sai THT mỗi ngày dễ
dàng “đạt chỉ tiêu” với số ký cá bỏ vào bao cát mang về nộp cho tổ anh nuôi. Dĩ
nhiên phần cá ngon thì anh nuôi phải lựa ra nộp đem cho cán bộ quản giáo, phần
còn lại mới là nguồn chất đạm / protein cải thiện cho anh em.
Hình
ảnh mà THT không bao giờ quên là khuôn mặt đen đủi của Yến bám đầy bụi than mỗi
lần đi thăm nuôi, do phải đi những chuyến xe đò cải tiến chạy bằng than củi.
Rồi
cũng ra tù, THT trở về Cần Thơ quê vợ, với tấm thân xác nặng chưa tới 35 ký lô,
để tiếp tục sống những ngày bị quản chế.
Ban
ngày THT gò lưng trên chiếc xe đạp cũ nát với một thùng mốp cà-rem, đi vào các
làng mạc, sáng chiều lắc chuông bán dạo, làm bầu bạn với đám con nít để kiếm sống.
Cũng chính cái nghề rung chuông mua vui cho con nít ấy đã khiến một ông chủ ghe
cảm kích, hơn nữa ông cũng đang cần một người dò đường mà đó cũng là nghề của
chàng sĩ quan Thám kích THT. Ông cho Thư một vé xuống ghe “miễn phí” vì biết
Thư quá nghèo. Chỉ có một chỗ, nhưng Thư thì còn vợ và một đứa con. Mãi sau này
Thư mới được biết, chính Ngọc Yến vợ anh đã lén lút tìm đến ông chủ ghe năn nỉ.
Ông chủ ghe nói: ‘Chị suy nghĩ lại, chúng tôi không muốn làm anh chị phải chia
lìa’. Nhưng Yến vẫn cương quyết: ‘Tôi sẵn sàng để cho chồng tôi ra đi. Xin ông
cứu giùm ảnh.’
Trần
Hoài Thư viết: “Ở lại hay ra đi? Tôi đã sống trong sự giằng xé ghê gớm ấy. Ở lại
thì ôm nhau mà chết, mà ra đi thì tôi sợ là một lần vĩnh viễn. Tôi đã thấy con
thuyền ấy. Khoảng 20 thước bề dài, thuyền ván mong manh, chỉ dành đi trên sông
sao lại đem nó ra thử với biển sóng hãi hùng?” Chính Yến giục giã chồng không
thể bỏ qua cơ hội mà phải ra đi. THT viết tiếp: “Tôi chấp nhận. Tôi hèn nhát để
chấp nhận. Ích kỷ để chấp nhận.
Rồi
trước khi đi tôi phải đóng kịch, phải làm sao hàng xóm láng giềng biết việc tôi
đào thoát không có sự đồng loã của gia đình. Nếu không Yến sẽ bị đuổi việc, vì
sát bên vách là nhà của một mụ đảng viên. Không ai khác hơn chính bà mẹ Yến, một
bà mẹ quá hiền quá tội, mẹ chưa một lần nói dối, lại là tác giả của vở tuồng cười
ra nước mắt này. Bà khuyên hai con: “Con à, mình phải đóng tuồng. Hai vợ chồng
con giả bộ gây lộn để hàng xóm biết, từ nay hai vợ chồng con mạnh ai nấy đi.
Con hẳn biết, bên nhà hàng xóm là đảng viên.”
Tôi
phải chứng tỏ rằng tôi bỏ bê, phụ bạc vợ con. Vở kịch chỉ có hai diễn viên. Người
chồng và người vợ. Không gian là cái bếp. Thời gian là buổi chiều. Chỉ có chai
đập nồi liệng, tiếng hét tiếng la, tiếng khóc, lớn chừng nào tốt chừng ấy. Với
tiếng của Thư: Tao chán cái nhà này quá rồi. Tao sợ cái nơi này quá rồi. Tao đập
hết, tao phá hết. Rồi với tiếng Yến: Tới nay thì liên hệ giữa tôi và anh kể như
chấm dứt… Vai vợ chồng tôi đóng xuất sắc lắm. Đến nỗi thằng con trai 6 tuổi của
tôi phải sợ hãi khóc oà. Và bà má vợ tôi phải sụt sùi nước mắt. Và chỉ có ba
người biết rõ những gì trong lòng.
Tôi
đi khi con tôi ngủ như một thiên thần. Tôi đi chỉ có một bộ đồ độc nhất. Vợ tôi
đứng đầu ngõ dõi mắt nhìn theo. Sau đó nàng vào lại buồng chúng tôi ôm gối mà
khóc ngất, khóc như chưa bao giờ khóc như vậy.” Và đó là một ngày cuối năm
1979, ngày anh đi cũng là ngày “xả chế”, chúng trả lại anh quyền công dân.
TỰ
DO HAY LÀ CHẾT
Phải
bỏ lại vợ con, Trần Hoài Thư vượt biển trên một chiếc ghe nhỏ đi sông dồn nén
cũng chở được 93 người. Chuyến đi gian truân nhưng cuối cùng cũng tới được bến
bờ tự do, đảo Pulau Bidong Mã Lai.
“Cuối
cùng anh cũng quỳ xuống trên bãi cát để cảm tạ Ơn Trên. Tự do, mơ ước là đây.
Biển bây giờ sao quá êm và quá xanh biếc. Sóng bây giờ sao quá đỗi hiền từ. Anh
quỳ, dù hai tay anh đã che đỡ những cú đánh, cú thoi, cú đá từ người lính Mã
Lai. Anh nhắm mắt lại, không kêu đau, không van xin. Để biết thêm về cái giá của
một cuộc ra đi và thấm thía thêm thân phận của một người không có đất nước.
‘Này đất này là của vua ta, bãi biển này là bãi biển của vua ta… Còn ngươi, một
thằng từ đâu lạc chợ trôi sông, mang bao khổ luỵ phiền toái tới đất nước này.’
…
Cứ chửi, cứ rủa đi anh lính đội chiếc nón bê-rê đen, cầm thêm cây gậy, bên mình
lủng lẳng khẩu súng ngắn. Tự do đâu phải quá dễ dàng như một lần du ngoạn. Bao
nhiêu người đã không may. Bao nhiêu người đã nằm dưới lòng biển. Bao nhiêu người
con gái đã bị hãm hiếp và bị bắt cóc. Và có người con gái tóc dài tung toé, nhảy
ào xuống biển. Còn nữa, còn bao nhiêu người đã lênh đênh trong vô tận của ngày
của đêm, không thức ăn, nước uống, trên những vùng đá ngầm san hô, cá mập… Tự
do hay là chết. Chết hay là tự do. Anh cứ đập tôi đi, nhưng cơn đau bầm của
tôi, bụm máu khạc ra từ cửa miệng tôi, đâu có thấm gì với cái bóng tối mà tôi bỏ
lại. Tôi đã chờ đợi quá lâu, trong ngôi nhà mồ. Tôi đã muốn nhảy xuống biển tự
tử khi nghĩ đến một lần họ bắt tôi trở lại. Bây giờ là ánh sáng rồi. Nó đã rực
rỡ như muôn ngàn hào quang ân sủng. Nó vô hình vô dạng nhưng nó nồng nàn như
mùi thuốc hồi sinh trong phòng cấp cứu. Tôi không buồn hay giận anh đâu. Bởi
vì, tôi sẽ đứng lên, dù run rẩy đi nữa, dù đau tận cùng đi nữa.” (6)
Khi
Tôi Đi Rồi, bài thơ đầy cảm xúc của Trần Hoài Thư khi phải cắn răng bỏ lại vợ
con, lao mình ra biển khơi đi tìm tự do:
"...
tôi ra đi thành thị sau lưng
chào
từ biệt, quê hương mình lần cuối
tôi
có thằng con chưa đầy bốn tuổi*
tôi
có mẹ già tóc bạc tợ sương
tôi
có vợ tôi cay đắng đoạn trường
đêm
nay, đêm nay, trời ơi bỏ hết
khi
tôi đi rồi một là chết biển
hai
là bỏ xứ làm kẻ lưu vong
khi
tôi đi rồi hai bàn tay không
giữa
vùng mênh mông ngàn trùng bát ngát
khi
tôi đi rồi, chắc hồn khó thoát
bởi
quê hương cứ giữ chặt, không buông"
…
(*
Năm 1979, con của Trần Hoài Thư - Ngọc Yến lúc đó 6 tuổi)
Trên
đảo, tuy phải mòn mỏi chờ đợi nhưng là của hy vọng. Khi có phái đoàn Mỹ tới phỏng
vấn, THT được hỏi có gì chứng minh ông là sĩ quan hay lính miền Nam, THT cởi áo
vạch ngực chỉ vết thương đạn với sẹo lớn cắt đứt một núm vú nơi ngực trái; sang
câu hỏi thứ hai ông dự tính làm gì nếu được vào Mỹ, THT nói anh là nhà văn anh
sẽ tiếp tục viết về những nỗi khổ của miền Nam trong và sau chiến tranh. Không
hỏi gì thêm, người Mỹ phỏng vấn tươi cười bắt tay anh và chúc may mắn. Rất sớm
sau đó, THT được đi định cư tại Mỹ, thời gian đầu anh được đưa tới Maryland, sống
tạm bợ tá túc khi thì trong một ngôi chùa nhỏ, khi trong nhà thờ rồi lang bạt
qua nhiều nơi khác nhau sau đó.
NGỌC
YẾN NỖI KHỔ NGƯỜI Ở LẠI
Trước
1975, Ngọc Yến là nhân viên hành chánh của Viện Đại học Cần Thơ, là thư ký của
Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân. Sau 1975, Gs Nguyễn Duy Xuân bị cộng sản bắt
đi tù cải tạo 11 năm, cuối cùng chết tức tưởi ở trại tù Hà Nam Ninh, miền Bắc
Việt Nam.
Chuyện
chỉ được Yến kể lại về sau này, là sau 1975, chức thư ký cho Gs Viện trưởng của
Yến ban đầu được “cách mạng” đánh giá là quan trọng: Ngọc Yến như là “bí thư” của
Gs Nguyễn Duy Xuân, có thể là đối tượng bị thanh lọc để cho đi học cải tạo.
Nhưng do ý kiến “nhân dân”, đám công nhân viên cũ bảo rằng Yến chỉ là một thư
ký hiền lành lo giấy tờ, đánh máy trong văn phòng chứ chẳng có một quyền hành
gì khác, và Yến đã không bị bắt đi cải tạo, không bị sa thải.
Nhưng
vẫn chưa yên, sau khi chồng đi rồi, Yến là đối tượng được chăm sóc của đảng uỷ
nhà trường. Yến luôn luôn được nhắc nhở rằng chồng chị là một tên sĩ quan Nguỵ
phản quốc đã trốn đi, chị hãy quên nó đi để xây dựng cuộc đời mới. Khi ấy Ngọc
Yến là gái một con, còn trẻ đẹp nên có nhiều cán bộ theo bám. Rồi Yến được đảng
uỷ chuẩn bị tác thành cho lấy một tên Đại uý phục viên và cũng là cán bộ của
trường. Đang là công nhân viên, tuy với đồng lương chết đói nhưng Yến cần phải
giữ hộ khẩu với sổ lương thực cho hai mẹ con. Uất hận nhưng Yến không dám dứt
khoát nói không và chỉ xin cho một thời gian nguôi ngoai.
Đầu
năm 1980, khi biết được tin chồng đã đi thoát, Ngọc Yến quyết định bế đứa con
trai chưa đầy 7 tuổi tìm ghe vượt biên, cũng lại là một “chuyến đi chùa” do một
ông chủ ghe có tâm Phật cho đi. Thêm chuyến đi thừa sống thiếu chết với đói
khát nhiều ngày trên biển cả, rồi gặp hải tặc và tiếp theo đó những ngày dài phải
bồng con đi ăn xin nơi một ngôi làng hẻo lánh bên Thái Lan.
TỚI
NGÀY MỘT GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ
Trần
Hoài Thư kể lại, không hiểu bằng cách nào, Đại tá Nguyễn Bé nguyên chỉ huy trưởng
Trung tâm Huấn luyện Cán bộ Xây dựng Nông thôn Chí Linh Vũng Tàu, có được số
phone của THT. Ông báo cho Thư biết là có nhận được một phong thư gửi từ Thái
Lan. Không chờ thư chuyển, Thư yêu cầu Đại tá Bé mở thư đọc qua phone, chỉ có vẻn
vẹn một câu: “Em và con đã tới Thái Lan.”
Nhờ
phước đức ông bà nay anh sẽ lại có một gia đình đoàn tụ. Sắp bước vào cái tuổi
“tứ thập nhi bất hoặc”, THT thấy chỉ có một con đường tiến thân duy nhất là đi
học trở lại. Từ Maryland, theo lời khuyên của một người bạn trẻ gặp được trong
nhà thờ, THT quyết định đưa gia đình sang Philadelphia. Do không có tiền nên phải
thuê một căn phòng giá rẻ trong một khu “slum” phía bắc thành phố, nghèo nàn mất
an ninh, cư dân đa phần gồm nhóm người tỵ nạn Đông Dương như Lào, Cam Bốt và Việt
Nam mới tới. Chỉ có một tay Đại Hàn hảo hớn là dám mở một tiệm Grocery store
nơi đây. Đám tội phạm thường là từ bên ngoài đến, ra vào như chỗ không người.
Có lần ban đêm, thấy cửa hàng Đại Hàn dưới lầu bị trộm phá cửa với các thùng
hàng lớn nhỏ lũ lượt được khiêng ra. THT kêu 911, thì được sở cảnh sát cho biết:
cửa hàng ấy đã có bảo hiểm, họ sẽ được bồi thường, và cảnh sát còn lưu ý là nên
thận trọng, vì nếu tụi nó biết có người báo cảnh sát có thể bị trả thù. Hiểm
nguy rình rập nhưng không có chọn lựa nào khác, gia đình THT vẫn phải tiếp tục
sống trong khu ổ chuột ấy, trong một căn phòng chật hẹp với cửa sổ luôn luôn
đóng kín, có đóng thêm cả đinh nhọn 10 phân làm chông.
Trần
Hoài Thư đi học, vợ đi làm công nhân lắp ráp đồ điện tử với đồng lương tối thiểu.
Thằng con trai thì được ba hoặc mẹ dẫn đến trường và hết giờ học thì nó phải tự
về nhà một mình. Nó còn nhỏ và quá thấp để có thể với tới ổ khoá, vợ chồng Thư
phải kê thêm hai cục gạch để nó có thể vói tới ổ khoá mở cửa vào nhà. THT lúc
đó là sinh viên toàn thời gian ngành điện toán của Spring Garden College, ban
ngày đi học, ban đêm thì làm janitor quét dọn phòng ốc để có thể trang trải cuộc
sống.
Hai
vợ chồng Thư đều biết luật pháp ở Mỹ, cho dù có lý do bận sinh kế đi nữa nhưng
việc bỏ con nhỏ vị thành niên ở nhà một mình là phạm pháp. Vợ chồng vẫn phải
luân phiên gọi điện thoại về thăm chừng con, khi không thấy ai lên tiếng, không
biết chuyện gì xảy ra cho con, Thư phải tức tốc bỏ học về nhà nhưng đa phần là
do nó ngủ quên không nghe chuông reng.
Rồi
THT cũng xong học trình 4 năm, Thư tốt nghiệp điện toán với thứ hạng cao trong
nhóm top five. Khi hãng AT&T tới trường tuyển chọn sinh viên vừa tốt nghiệp
với thứ hạng cao, THT qua được cuộc Interview khó khăn, và ít lâu sau đó được
nhận vào làm cho một chi nhánh của hãng này ở tiểu bang New Jersey. Đó là lý do
gia đình THT dọn về đây, nơi có rất ít người Việt. New Jersey từ nay là nơi đất
lành chim đậu. Ban đầu Thư ở nhà thuê, không còn phải lao động tay chân cực nhọc
như một blue-collar worker, với đồng lương khá hơn hai vợ chồng dành dụm mua được
căn nhà 4 buồng như hiện nay. Rồi thằng Thoại xong trung học, điểm cao nên được
nhận vào trường Y khoa chương trình 7 năm, thuận buồm xuôi gió, nó tốt nghiệp
bác sĩ y khoa.
Trong
công việc của hãng, Thư chứng tỏ rất có khả năng và có sáng kiến, lại giỏi
toán. Như một đầu tư lâu dài, hãng AT&T trả tiền cho Thư đi học thêm bán thời
gian. Sau hai năm, Thư đậu thêm văn bằng Cao học Toán Ứng dụng / Master of
Applied Mathematics. Nghiệp vụ tiếp tục thăng tiến. Khi chi nhánh của Thư được
chuyển nhượng cho hãng điện toán IBM, Thư lên tới chức vụ Project Leader cho tới
khi nghỉ hưu.
Hình 5: từ trái, qua cơn
bĩ cực, sau khi THT tốt nghiệp cử nhân điện toán,
có công việc ổn định của
một white-collar worker, hai vợ chồng Ngọc Yến và
Trần Hoài Thư từ nay bắt
đầu biết thế nào là vẻ đẹp muôn màu của mùa Thu miền
đông bắc nước Mỹ. [
photo by Trần Quí Thoại 1990 Poconos, Pennsylvania ]; phải: Nguyễn
Ngọc Yến và Trần Hoài
Thư trong đám cưới của người bạn trẻ, đã từng đón gia đình THT bước đầu sang
lập nghiệp ở
Philadelphia, khi ấy Ngọc Yến còn rất trẻ, THT mái tóc chỉ mới ngả muối tiêu.
[nguồn: Blog’s Trần Hoài
Thư, ghi chú của Ngọc Yến]
PHỤC
HỒI DI SẢN VĂN HỌC MIỀN NAM
Từ
năm 2001, tuy còn đi làm Trần Hoài Thư đã cùng với người bạn lính Phạm Văn
Nhàn, người bạn văn thuở nào. Hai người sáng lập tạp chí Thư Quán Bản Thảo và
nhà xuất bản Thư Ấn Quán.
Khi
chi nhánh của công ty IBM outsourcing chuyển qua Ấn Độ, THT quyết định nghỉ
hưu. Không còn bận bịu về sinh kế, đây cũng là thời điểm Thư có thể thực hiện
điều mơ ước. THT có toàn thời gian bắt tay vào việc thực hiện tủ sách DI SẢN
VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM.
Trần
Hoài Thư có hùng tâm và gần như đơn độc trong suốt nhiều năm nỗ lực khôi phục lại
những văn bản của một thời kỳ văn học bị CS Việt Nam trong nước đã không ngừng
truy lùng và huỷ diệt.
Hình
6: trái, nhóm bạn văn thuở thanh xuân, Phạm Ngọc Lư, Trần Hoài Thư,
Nguyễn
Lệ Uyên, Phạm Văn Nhàn. [nguồn: tư liệu Nguyễn Lệ Uyên, hình chụp năm 1969];
phải,
Trần Hoài Thư và Phạm Văn Nhàn, hai người bạn lính và cho đến nay 2021 vẫn là
hai
bạn
đồng hành của Thư Quán Bản Thảo và Thư Ấn Quan, cả hai vẫn bền bỉ trên con đường
phục
hồi Di Sản Văn Chương Miền Nam; Trần Hoài Thư và Phạm Văn Nhàn trên đỉnh ngọn
núi Watchung,
Green
Brook, N.J. là một cao điểm từng được tướng George Washington 1777 dùng
để
theo dõi các đạo quân Anh di chuyển, nay là Washington Rock State Park với con
đường
ngoạn
cảnh 30 dặm tuyệt đẹp rất hấp dẫn du khách. [ photo by Tô Thẩm Huy ]
ĐƯỜNG
XA CHI MẤY: TỚI THƯ VIỆN CORNELL
Qua
các thư viện Đại học lớn ở Mỹ, Thư có thể tìm ra một số sách báo miền Nam.
Tương đối gần nhà là thư viện Đại học Yale, chỉ cách nhà 2 tiếng lái xe, nơi có
học giả Việt Nam nổi tiếng Huỳnh Sanh Thông, người đã dịch truyện Kiều của Nguyễn
Du sang tiếng Anh, ông cũng là người giúp nhà văn Võ Phiến tài liệu để hoàn
thành bộ Văn Học Miền Nam. Rồi đến thư viện Đại học Cornell tuy xa hơn, cách
nhà 5 tiếng lái xe, nhưng thư viện Đại học Cornell, khu Đông Nam Á châu phải
nói là nơi có đầy đủ sách báo miền Nam nhất.
Thường
thường Trần Hoài Thư chỉ lái xe ban ngày lúc trời còn sáng, còn Yến giúp lái xe
ban đêm vì biết chồng dễ ngủ gục khi lái. Đường rất nguy hiểm, có đoạn là đường
núi, nhiều khi tuyết băng đông đặc. Cũng hai lần suýt chết vì tai nạn khi đi
Cornell trên những đoạn đường mưa tuyết trơn trợt. Và không thể tưởng tượng được,
tại Cornell sách báo Tiếng Việt của miền Nam rất là dồi dào thế nào; họ có cả tờ
truyền đơn chiêu hồi cũng được lưu trữ.
Có
lẽ do bản chất của dòng máu thám kích nên THT rất liều lĩnh với những bước chân
khai phá. Rời nhà lúc 4 giờ sáng trời còn tối Yến lái xe, khi trời sáng là
phiên THT. Thường là tới nơi thư viện Cornel lúc 10 giờ sáng. Đằm mình trong
khu thư viện Á châu, lục lọi tìm tòi, ghi chép, làm photocopy cho tới sẩm chiều
– ngoài một lunch break ngắn của hai vợ chồng, cho tới giờ ra về. Không phải chỉ
một ngày, mà nhiều ngày, không phải một tuần mà nhiều tuần, trong nhiều năm như
vậy. Nhiều chục ngàn trang sách thơ văn miền Nam của Thư Ấn Quán là thành quả
tích luỹ của công sức bền bỉ của vợ chồng Trần Hoài Thư trong nhiều tháng, nhiều
năm, cho tới năm 2012.
Trần
Hoài Thư ngồi trong thư viện Cornell từ khi mái tóc còn xanh đến khi tóc trắng
bạc như sương. [nguồn: tư liệu Trần Hoài Thư]
Về
máy móc thì THT lên Craigslist tìm kiếm đồ phế thải. Có khi họ cho không, có
khi họ bán rất rẻ. Sau khi thỏa thuận, họ cho biết địa chỉ, mình đến, với cái
screwdriver trong túi. Họ hỏi máy nặng cả tấn sao ông lại khiêng nổi? Tôi cười,
tao biết cách. Rồi tháo máy ra, đến mức không thể tháo. Fuser, ngăn giấy, mực,
assembly parts, khung… Mấy anh chàng Mỹ trố mắt nhìn, ngạc nhiên. Chỉ có mực là
mới có vấn đề. Lên eBay mua, nhưng làm sao biết ống mực tốt hay xấu?
Vậy
mà đã 46 năm qua đi 1975-2021, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử
chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những
tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở
về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải
kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ trong các trại tù
cộng sản. Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng /
livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ
Việt Nam tương lai.
Hình 8: trái, địa chỉ
719 Coolidge Street, Plainfield, New Jersey 07062
là ngôi nhà vợ chồng Trần
Hoài Thư đã sống ngót 30 năm, cũng là địa chỉ
của Thư Ấn Quán, và là
Toà Soạn Thư Quán Bản Thảo; phải, nhà văn Trần Hoài Thư
đang còng lưng cắt xén
những số báo Thư Quán Bản Thảo. Ước mong sao, rồi ra nơi đây
sẽ là một landmark văn
hoá của Thế hệ thứ Nhất cần được lưu giữ cho các thế hệ
Việt Nam tương lai.
[photo by Phạm Cao Hoàng]
Hình 9: một phần của tủ
sách Di sản Văn học Miền Nam của Thư Ấn Quán,
bộ Văn Miền Nam 4 tập: I,
II, III, IV (2013); bộ Thơ Miền Nam trong thời chiến
2 tập: I, II (2017); bộ
Thơ Tình Miền Nam (2017); Một Thời Lục Bát Miền Nam (2008);
Thơ Tự Do Miền Nam
(2009). Tất cả đều do Trần Hoài Thư thực hiện bằng phương pháp
thủ công và có thể nói
THT là người đi tiên phong trong kỹ thuật POD / Print On Demand trong
lãnh vực sách báo tiếng
Việt ở hải ngoại. [photo by Phạm Cao Hoàng]
TÁC
PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
Trước
1975
1.
Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang; 2. Những vì sao vĩnh biệt; 3. Ngọn cỏ ngậm ngùi;
4. Một nơi nào để nhớ.
Sau
1975
VĂN
1.
Ra biển gọi thầm (Tập truyện); 2. Ban Mê Thuột ngày đầu ngày cuối (Tập truyện
); 3. Về hướng mặt trời lặn (Tập truyện); 4. Mặc niệm chiến tranh (Tập truyện);
5. Đại đội cũ, trang sách cũ (Tập truyện); 6. Thế hệ chiến tranh (Tập truyện);
7. Thủ Đức gọi ta về (Tạp bút); 8. Đánh giặc ở Bình Định (tự truyện); 9. Hành
trình của một cổ trắng (truyện vừa); 10. Ở một nơi trên Trường Sơn (tập truyện);
11. Truyện từ Bách Khoa (Tập truyện); 12. Truyện từ Văn (Tập truyện); 13. Truyện
từ Trình Bầy, Văn Học, Khởi Hành... (Tập truyện); 14. Truyện từ Vấn Đề (Tập
truyện); 15. Tản mạn văn chương (tập I); 16. Giấc mơ Giáng Sinh (Tập truyện);
17. Cảm tạ Văn chương (Hồi ức).
THƠ
1.
Thơ Trần Hoài Thư; 2. Ngày vàng; 3. Nhủ đời bao dung; 4. Ô cửa; 5. Xa xứ; 6.
Quán; 7. Vịn vào lục bát
HAI
TÁC PHẨM THẤT LẠC SAU CHIẾN TRANH
1.
Của Chiến Tranh; 2. Một Ngày Gạo Ba Ngày Hành Quân.
Trong
quân ngũ và ngay cả giai đoạn bỏ ngũ, Trần Hoài Thư viết rất khoẻ. Chỉ trong
hai tháng sống ở Tháp Chàm với Phạm Văn Nhàn, Thư đã viết xong một truyện vừa
có nhan đề Của Chiến Tranh, giao cho Thầy Từ Mẫn Võ Thắng Tiết * giám đốc nhà
xuất bản Lá Bối lúc đó nhưng không sao qua được kiểm duyệt, và sau tháng Tư
1975 thì bản thảo duy nhất bị thất lạc.
[
*Sau 1975, anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết cũng là một thuyền nhân, đi cùng chuyến tàu
với nhà văn Nhật Tiến, ban đầu sinh sống ở Alaska, rồi xuống ở Nam California,
anh thành lập nhà xuất bản Văn Nghệ rất có uy tín ở hải ngoại trong nhiều năm
trước khi anh nghỉ hưu ].
Tác
phẩm thứ hai, Một Ngày Gạo Ba Ngày Hành Quân cũng là một truyện dài, được giao
cho nhà văn Thế Uyên lúc đó đang trông coi nhà xuất bản Thái Độ và Tủ sách Văn
Nghệ Xám.
[Thái
Độ cũng đã từng in cuốn tiểu thuyết Vòng Đai Xanh của Ngô Thế Vinh]. Cho dù Thế
Uyên rất xông xáo nhưng cũng vẫn không vượt qua được hàng rào “phối hợp văn học
nghệ thuật” của bộ Thông Tin, cho tới Tháng Tư 1975, bản thảo duy nhất cũng bị
thất lạc.
Cả
hai cuốn sách trên đã được quảng cáo trên báo chí nhưng không bao giờ được ra mắt.
Đó là những tác phẩm bị thất lạc, thêm vào những tổn thất trong chiến tranh,
vĩnh viễn đi vào sự quên lãng.
Những
tổn thất nhân mạng trong chiến tranh đã được thống kê và nói tới. Thế còn những
tổn thất trong văn học, liệu đây có phải là phần trách nhiệm của các sử gia?
Hình 10: trái, Trung uý
Thám Báo Trần Hoài Thư với hạnh phúc được bồng con (1974);
phải,Trần Quí Thoại con
trai Trần Hoài Thư tại Hội chợ Science Fair do Bell Lab bảo trợ
và tổ chức. Thoại đang
thuyết trình về công trình nghiên cứu khoa học “The magnetic field of a
Superconductor”được một
giải thưởng cho công trình nghiên cứu này. Trần Hoài Thư
và Ngọc Yến có mặt và
hãnh diện với đứa con của mình. Rồi không thể không chạnh nghĩ,
Thoại với gốc là con một
sĩ quan “nguỵ” nếu như còn kẹt lại ở Việt Nam, chắc nó chỉ là một đứa trẻ chăn
trâu.
Nay tới được một lục địa
mới, một đất nước mới, nó có cơ hội làm đủ mọi điều để phát triển.
Trần Quí Thoại nay đã là
một bác sĩ y khoa.
[nguồn: tư liệu Trần
Hoài Thư]
Hình 11: trái, các trang
trí trên đĩa sứ của Trần Quí Thoại, vẽ tặng cha;
giữa, tranh của Trần Quí
Thoại vẽ cảnh “Con Vịn Cha”; phải, bức hình mới nhất,
nay thì cảnh “Cha Vịn
Con”.
Con
Vịn Cha
Lan
can ba, ba thẳng lưng
Ba
dạy con chân đạp bùn mà đi
Con
nhón chân, con đưa tay
Con
vịn ba với cái đầu ngẩng lên!
Cha
Vịn Con
Bây
giờ ba lại vịn con
Tay
trong tay con dẫn ba qua đường
Ba
đi từng bước ngập ngừng
Bỗng
nghe hơi ấm chảy rần trong ba
Hình 12: trái, Trần Hoài
Thư, bán cà-rem nay nhận bằng Cao học Toán Ứng dụng
tại Viện Kỹ thuật Steven
New Jersey ngày 24.05.2005; phải, gia đình Trần Hoài Thư
vui mừng đoàn tụ trong
ngày lễ tốt nghiệp: Nguyễn Ngọc Yến, Trần Hoài Thư và con trai
Trần Quí Thoại. Thoại tốt
nghiệp bác sĩ.
NGỌC
YẾN ĐỘT QUỴ SAU TRẬN BÃO SANDY
Chỉ
một tháng sau cơn bão tố Sandy tàn phá nhiều nơi trong đó có New Jersey, Ngọc Yến
bị tai biến mạch máu não / stroke tháng 12/2012. Hurricane Sandy thì được đài
khí tượng báo trước, nhưng trận bão stroke của Ngọc Yến thì không. Với Trần
Hoài Thư, thì đó là một trận động đất / earthquake, mà động đất thì không có dấu
hiệu gì báo trước và Yến rất bất ngờ bị một cơn stroke đánh gục, bị liệt nửa
người bên trái. Tay trái, chân trái không thể cục cựa. Nhìn Yến không thể ngồi,
đứng, một nửa thân người không còn cử động, Với Thư thì Yến vợ anh đã bị đóng
đinh khổ nạn từ đây.
Quan
sát những gì người ta làm cho Yến ở nhà thương, Trần Hoài Thư tự tay biến đổi
căn nhà với thêm bậc thềm, tay vịn sao cho thích nghi với người vợ tàn phế. Thư
cũng mau chóng học được cách đưa người bệnh từ xe lăn lên giường, chuyển từ giường
xuống ghế ngồi, rồi cả những công việc vệ sinh cá nhân cho Yến như tắm rửa,
thay quần, thay áo, thay tã và những thao tác tập vật lý trị liệu cơ bản cho
người bệnh liệt bán thân. Tất cả nhanh và gọn mà ngay cả những therapists và
home caregivers cũng phải trố mắt ngạc nhiên. Thư cố tạo một cảnh sống gia đình
gần như bình thường cho Yến. Thấy Yến ăn ngon, ngủ ngon, luôn miệng nói mình
vui quá là Thư vui. Chấp nhận như số phận đã an bài và anh nghiệm ra là: hạnh
phúc càng lớn khi nó được nẩy sinh từ khổ nạn. Thư trải lòng mình trên trang giấy:
“Mỗi ngày tôi cố mang cho Yến niềm vui. Cũng mỗi ngày tôi giấu Yến nỗi buồn của
tôi.”
Nhưng
rồi chưa yên, Yến còn bị giáng thêm một trận stroke thứ hai, rồi thứ ba, đến
tháng 05/2015, Yến không còn có thể sống ở nhà mà cần được chăm sóc 7/24 trong
một nursing home, bác sĩ bảo đó là cách duy nhất để cứu Yến và cứu cả Trần Hoài
Thư.
Trong
suốt 11 năm [từ 2001 tới 2012], Ngọc Yến – người bạn đời của THT, đã đồng hành
giúp anh rất nhiều trong việc thực hiện các công trình phục hồi Di Sản Văn Học
Miền Nam.
“Yến
giúp tôi lái xe khi đi xa trong những lần tới Thư viện Đại học Cornell, rồi
đóng bằng chỉ những cuốn sách dày cả ngàn trang, hay phụ với tôi khiêng những
thùng giấy tôi mua với giá rẻ. Yến giúp tôi viết địa chỉ, bỏ sách báo vào phong
bì, dán tem, hay nhắc tôi về những sơ xuất. Khi một người hỏi order một cuốn
sách, Yến luôn luôn nói là tặng, đừng lấy tiền. Tâm Yến là tâm Phật. Mất Yến là
mất cả cánh tay phải, tôi như hết chỗ vịn.”
Rồi
đều đặn như vậy, trong nhiều năm, ngày hai lần, Trần Hoài Thư nội trợ nấu thức
ăn Việt Nam nóng đem vào cho Yến. Yến không chịu ăn đồ ăn Mỹ. Mỗi ngày Thư tìm
cách kéo dài thời gian ngồi túc trực bên giường Yến. Đứa con trai bác sĩ thì đi
làm xa, nhưng mỗi cuối tuần đều về để đi với ba vào thăm mẹ. Nó biết cách làm
cho mẹ nó vui, cả gây cho mẹ mối ghen tuông với ba nó.
CHUYỆN
ÔNG TRẦN HOÀI THƯ “CƯỚI CON PHƯƠNG”
Mỗi
lần hai cha con vào thăm, bình thường thì Yến gọi Thư là “ba Thoại”, Trần Quí
Thoại là tên đứa con trai. Bỗng một hôm, chẳng rõ tại sao, Yến xoay lưng không
thèm nói chuyện với Thư. Khôngbiết chuyện gì đã xảy ra, Yến đổi hẳn cách xưng
hô. Thay vì là “ba Thoại” thì hôm nay gọi anh là “ôngTrần Hoài Thư”. Yến nói
“Ông đang chờ tôi chết để cưới con Phương, có phải không?” Nghe Yến nóivậy, Thư
tá hoả tam tinh, hỏi Yến: “Con Phương nào?” Một cái tên không thể nào Thư có
thể nhớ ra.Thế là Yến giận, quay mặt vào tường không thèm nói chuyện với ba
thằng Thoại nữa.
Nằm
bệnh bao năm sau ba lần bị tai biến, chuyện mới thì Yến không nhớ, nhưng các
chuyện cũthì vẫn nhớ như in. Nhưng Thư thì vẫn nghĩ không ra “con Phương” là
ai, hay là Yến ghen với mộtnhân vật nào đó trong các truyện đã viết của mình.
Thế là về nhà suốt đêm vào máy tìm kiếm. Eureka! Cuối cùng Thư đã có câu giải
đáp, thì ra “con Phương” là tên một cô gái giang hồ, một nhân vật trong truyện
“Cơn Giông” được viên thiếu uý thám kích gặp trong một động điếm và đem lòng
yêu thương, truyện mà chính Thư không còn nhớ, đã đăng trên báo Bách Khoa số
288 (1969) 5 . Tuy bị Yến giận và ghen tuông vô lý nhưng Thư lại cảm thấy vui
vì biết được phần trí tuệ còn sắc sảo của Yến.
Về
phương diện Y khoa, đây là một trường hợp bệnh lý: “ghen tuông ảo tưởng /
delusional jealousy” do “hội chứng não suy thoái / organic brain syndrome”.
NHỚ
QUÊ NHỚ CHIM CHẰNG NGHỊCH
Trước
đại dịch Covid-19, hầu như mỗi ngày 2 lần Thư được phép tới Nursing Home thăm Yến
với thức ăn Việt nấu từ nhà đem vào. Nhưng rồi một hôm, các cô y tá cho biết, Yến
không chịu ăn từ mấy ngày nay.
Yến
không ăn đồ Mỹ điều ấy Thư đã biết nên Thư đã học nấu các món ăn Việt Nam từ
Internet và cả biết Yến thích ăn món gì. Bác sĩ tới khám tổng quát cho biết
tình trạng Yến vẫn ổn định và không mắc thêm một căn bệnh gì. Thư hỏi, vậy Yến
thích ăn món gì để anh nấu. Yến trả lời: muốn ăn món chim chằng nghịch. Từ ngày
về Vùng IV làm phóng viên chiến trường suốt 2 năm mà THT cũng chưa biết chim chằng
nghịch là gì. Như mọi lần, Dr. Google đã giúp anh, và bây giờ Thư mới được biết,
chim chằng nghịch hay còn gọi là gà nước vằn, mỏ dài chân đen là loại chim
thiên nhiên chỉ có ở miền Tây Nam Bộ. Nhưng có lẽ chim chằng nghịch sau này quá
hiếm và gần như biến mất khỏi đồng ruộng miền Tây rồi. Ngay cả bây giờ, nếu còn
sống ở Cần Thơ quê Yến, thì cũng chẳng biết kiếm chim chằng nghịch ở đâu ra, huống
chi đang ở Mỹ. Giải thích cho vợ hiểu nhưng Thư cũng thấm thía hiểu rằng, chẳng
qua là Yến nằm bệnh quá lâu, quá nhớ quê mà nhớ ra tên con chim chằng nghịch từ
một tuổi ấu thơ xa xưa nào.
Hình 13: Chim chằng nghịch
hay nỗi nhớ quê, còn gọi là gà nước vằn,
tên khoa học Gallirallus
striatus, xưa kia có ở đồng ruộng miền Tây ĐBSCL
nay hầu như không còn nữa,
nhưng chưa thấy trong Danh mục sách đỏ động vật Việt Nam.
[ nguồn:
birdwatchingvietnam ]
Cũng
sáng hôm đó, từ California tôi phone thăm Trần Hoài Thư. Lúc ấy Thư đang ở
trong Nursing Home với Yến. Tôi bảo Thư đưa phone cho tôi được nói ít câu thăm
chị. Thư giới thiệu tên tôi Ngô Thế Vinh thì chị nhớ ngay và nói “chào bác sĩ”.
Tôi nhắc chị Yến, tôi là bạn của Thư, chị đừng gọi tôi là bác sĩ, nhưng lúc đó
trong lòng thực sự có niềm vui, vì biết với cách xưng hô đó chứng tỏ trí nhớ chị
còn rất tốt cho dù đã hơn 6 năm nằm bệnh. Tôi cũng nói với chị Yến qua phone,
là mới đây tôi có về thăm miền Tây, và cũng chẳng còn thấy một con chim chằng
nghịch nào. Và rồi Yến cũng quên đi chuyện con chim chằng nghịch và trở lại ăn
uống bình thường với những món Thư tự tay nấu, trong nỗi vui mừng của cả hai
cha con.
CÙ
HUY HÀ VŨ THĂM ANH CHỊ TRẦN HOÀI THƯ 2016
Cù
Huy Hà Vũ, là con trai của nhà thơ Huy Cận, nhỏ hơn Trần Hoài Thư 15 tuổi. Năm
1968, khi Thư là sĩ quan Thám kích đang lặn lội trong chiến tranh ở miền Nam
thì Vũ mới là một cậu bé 11 tuổi, còn thập thò nơi cửa hang nơi đi sơ tán, xem
phi cơ Mỹ từ xa oanh kích miền Bắc đạn bắn như pháo bông.
Văn
kỳ thanh, nghe tiếng nhà văn Trần Hoài Thư, lại yêu thích văn học, hai vợ chồng
Vũ đang sống ở Chicago, bay sang Boston, cùng với người bạn lái xe đi New
Jersey thăm anh chị Trần Hoài Thư. Vũ xin được cùng THT đi thăm chị Ngọc Yến.
Khi nghe Thư giới thiệu là có Cù Huy Hà Vũ là con trai của nhà thơ Huy Cận tác
giả Lửa Thiêng, tới thăm, Yến kết nối được được ngay. Cũng ngay tại Nursing
Home, Cù Huy Hà Vũ đã lấy giấy bút chớp nhoáng vẽ xong bức ký hoạ cùng với dòng
chữ đề “Tặng Chị Nguyễn Ngọc Yến nhân Ngày của Mẹ Mother’s Day May 8, 2016”.
Vũ
có nét vẽ tài hoa, bắt được ngay cái “thần” của Chị Yến, với đôi mắt đẹp thông
minh và một vầng trán cao bướng bỉnh. Thấy Yến vui và cảm động, Thư cũng vui
lây, cảm giác ấm áp như có “một chút mặt trời trong nước lạnh – Un peu de
soleil dans l’eau froide”, cuốn phim mà Thư đã xem từ những năm rất xa xôi mà
nay chỉ còn nhớ tên.
Hình 14: Hai vợ chồng Cù
Huy Hà Vũ và Nguyễn Thị Dương Hà vào thăm chị Yến
tại Nursing Home
Ashbrook, N.J. nhân Ngày của Mẹ, Chủ Nhật 08.05.2016; trái, chân dung
chị Nguyễn Ngọc Yến, vợ
Trần Hoài Thư qua nét ký hoạ của Cù Huy Hà Vũ;
phải, ký hoạ nhà văn Trần
Hoài Thư, cũng qua nét vẽ của Cù Huy Hà Vũ. [tư liệu Trần Hoài Thư]
Về
tới nhà, suốt ngày hôm đó Vũ chỉ đắm mình trong núi sách báo nơi tầng hầm nhà của
Trần Hoài Thư. Cù Huy Hà Vũ đã được Trần Hoài Thư tặng cho nhiều bộ sách báo miền
Nam.
ĐÔI
UYÊN ƯƠNG GIỮA MÙA ĐẠI DỊCH
Mấy
tháng đầu năm 2020, bắt đầu trận đại dịch, các Nursing Homes trên toàn nước Mỹ
là nơi tới viếng của lưỡi hái tử thần Covid hung hãn nhất. N.H. Ashbrook cũng
không hơn gì. THT được báo tin Yến phải nhập viện vì bị nhiễm Covid-19 cùng với
một số bệnh nhân khác. Yến với bao nhiêu là bệnh nền, với 3 lần bị tai biến mạch
máu não, ai cũng nghĩ Yến khó qua khỏi. Vậy mà Yến vẫn là một ngoại lệ, một trường
hợp hiếm hoi khỏi bệnh, Yến không phải vào ICU không qua máy trợ thở, chỉ ít
ngày sau thì Yến được xuất viện trở về Nursing Home còn nhiều chiếc giường trống
trải. Có thể nói đây là phép lạ, Yến vẫn sống, vẫn vác chiếc thánh giá khổ nạn
để ở lại với hai cha con Thư Thoại. Trong thời kỳ tuyệt đối cách ly, trong nhiều
tháng hai cha con hoàn toàn không được vào thăm Yến.
Nhưng
rồi hoạ vô đơn chí, tháng 06/2020 đến lượt Trần Hoài Thư cũng bị cơn bão tai biến.
Nhưng lần này thì Trần Hoài Thư như bị phục kích. Một ngày bình thường như mọi
ngày khác, khi Thư cầm bút viết ít dòng chữ lời đề tặng trên trang đầu một cuốn
sách. Thư bỗng thấy bàn tay cầm cây bút sao mà khó khăn, rồi lại thấy cả hàng
chữ viết run rẩy xiêu đổ. Biết đây là một dấu hiệu chẳng lành. Ngay trong đêm,
Thư phone cho con, lúc ấy nó đang là bác sĩ trực ở Philadelphia. Thoại khuyên
cha gọi ngay 911 để được đưa vào bệnh viện vì đó là triệu chứng của stroke, và
nói cho biết sẽ lái xe về ngay sáng hôm sau. Trong nhà thương gặp lại con, Thoại
cho biết ba bị một cục máu đông trong óc. Vậy ra, sau Yến cơn bão stroke Sandy
nó cũng không chừa anh. Một thoáng bi quan, Thư đã chạnh nghĩ: “Số phần chúng
tôi coi như là mạt lộ rồi. Thôi hết rồi giấc mơ Thư Quán Bản Thảo, giấc mơ Thư Ấn
Quán. Thôi hết rồi những bài văn những bài thơ theo nhịp gõ êm êm trên bàn
phím. Niềm vui trong tuổi xế chiều tự nhiên bị cướp mất”.
Thư
mau chóng gạt mọi ý nghĩ bi quan ra khỏi óc. Anh chuẩn bị ngay cho một cuộc chiến
đấu từng ngày. Sau một tháng nằm nhiều hơn ngồi, người ta cho Thư xuất viện;
không phải vì đã hồi phục mà vì Insurance chỉ cho nằm bấy nhiêu. Thoại chở ba về
cũng vẫn căn nhà cũ, sau một tháng đóng cửa. Vườn sau, sân trước cỏ dại mọc
cao. Thư nghĩ bây giờ là lúc “ba bắt đầu phải vịn con”. Thoại dọn dẹp lại căn
phòng bừa bộn, sắp xếp cho ba nằm trên cái giường bệnh viện / hospital bed có
thể điều khiển cao thấp mà mẹ Yến đã bỏ lại khi vào Nursing Home. Thoại cũng
mua và đặt camera khắp mọi nơi trong nhà, để có thể theo dõi ba từ xa qua chiếc
iPhone. Sau đó trở lại Philadelphia nơi bệnh viện nó làm việc.
Rồi
một mình trong căn nhà vắng, THT vẫn phải đương đầu với một thực tế trước mắt.
Những ngón tay đã không giữ được cái muỗng, đôi đũa để những hạt cơm hay thức
ăn khỏi vương vãi ra trên áo trên quần. Tệ hơn nữa, chúng không còn sức mạnh để
gõ hay để viết trên bàn phím, bộ não đã không sao điều khiển được các ngón tay
để có thể gõ cho chính xác…
Tinh
thần chiến đấu với Trần Hoài Thư đã trở thành một bản năng thứ hai. Vẫn như một
programmer, THT đã “phác thảo” cho riêng mình một chương trình “Hoạt động Trị
liệu / Occupational Therapy” tại nhà với một lối tập độc nhất vô nhị. Thay vì
là bài tập thô sơ như trong bệnh viện: các cô therapist tập cho anh cách bốc lượm
đồ, cách lắp ráp các hình nhà, hình xe bằng những miếng gỗ. Những bài tập của
Thư là tập viết khó khăn trên giấy hay tập bấm vụng về trên màn hình chiếc
iPhone từng dòng thơ lục bát mà anh thích. Dần dần qua ít tuần lễ THT cũng làm
chủ được mười ngón tay của mình. Sau đó, Trần Hoài Thư lại say sưa viết, anh
làm việc như một người đang cạn kiệt quỹ thời gian.
Tìm
lại được tập hồi ức dở dang viết rồi để đó, không có dự định cho xuất bản nhưng
sau lần bị stroke THT nghĩ khác, anh phải viết xong giữa khoảng cách sống và chết,
chưa biết sẽ đến lúc nào. Anh đặt tên cho tập hồi ức là: Cảm Tạ Văn Chương – mà
anh cảm thấy như đang viết một Di chúc. Cuốn sách đã được THT hoàn tất trong một
thời gian kỷ lục. Có những trang sách khiến người đọc phải rơi lệ. Sách tuy
không bán, nhưng Cảm Tạ Văn Chương đã trở thành một best-seller của Thư Quán Bản
Thảo.
Nơi
mấy trang cuối của cuốn hồi ức, vẫn Trần Hoài Thư viết: “Thêm một lần nữa tôi
phải cảm tạ văn chương. Nó đến khi tôi ngã xuống. Nó giúp tôi vịn mà đứng dậy.
Nó là chiếc gậy thần, tôi chống mà đi. Cho dù bây giờ không hồi phục hẳn, nhưng
tôi vẫn có thể gõ một bài thơ, post một bài viết, hay xuống hầm nhà để tự tay
đóng một cuốn sách. Dù mắt mờ, bước chân xiêu đổ. Để niềm vui mọc cánh nở hoa”.
Hình
15: trái, Cảm Tạ Văn Chương, hồi ức của Trần Hoài Thư – như một Di Chúc,
dày
224 trang, được THT hoàn tất trong một thời gian kỷ lục sau 4 tháng bị tai biến
mạch
máu
não, đây là ấn bản đặc biệt của Thư Quán Bản Thảo tháng 10/2020; phải, Mai Thảo
–
Bài viết ở trang cuối là 32 bài tuỳ bút của Mai Thảo, dày ngót 200 trang chỉ
trong vòng hai tuần
đã
được THT đánh máy, layout, in ấn và phát hành tháng 5/2021. Sức làm việc của
“người bệnh THT”
là
phi thường, không ai có thể sánh kịp. [nguồn: 2 ấn bản đặc biệt THT tặng Ngô Thế
Vinh]
Tưởng
cảnh khổ của hai vợ chồng Ngọc Yến - Trần Hoài Thư như vậy là đã đụng đáy,
nhưng không. Đến tháng 2/2021 một cơn bão stroke Sandy thứ 4 lại phủ ập lên tấm
thân đã đầy những thương tật của Yến. Ít ai sống sót được ở lần tai biến thứ tư
này. Lần này Yến phải nằm bệnh viện lâu hơn, mang thêm một số thương tật mới: Yến
bị mất tiếng nói vì tổn thương vùng ngôn ngữ trên não, Yến còn bị mất thêm nửa
vùng thị giác do bị tổn thương vùng vỏ não thị giác. Rồi Yến vẫn sống sót để trở
về Ashbrook N.H. Yến vẫn còn phần thính giác để nghe và hiểu được những câu đùa
giỡn của hai cha con Thư Thoại, nhưng phần tham dự của Yến từ nay chỉ còn là biểu
tỏ qua cử chỉ - mà thuật ngữ chuyên môn gọi đó là ngôn ngữ cơ thể/ body
language. Yến cũng không nuốt được, THT từ nay cũng mất luôn nguồn hạnh phúc được
nội trợ mỗi ngày nấu ăn cho Yến; và phần dinh dưỡng của Yến chỉ còn là một ống
G-Tube dẫn thức ăn thẳng vào bao tử. “Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã
dành riêng để tặng nàng” hai câu thơ ấy của Nguyễn Bính hình như đã vận vào người
Yến.
Can
đảm chấp nhận số phận nghiệt ngã, với Thư và Yến kể từ nay, hạnh phúc rồi ra chỉ
là tính riêng cho mỗi từng ngày.
MỘT
NGÀY NGHIỆN NGẬP CỦA TRẦN HOÀI THƯ
Trong
một eMail mới gửi cho tôi, Trần Hoài Thư viết: “Bạn bảo tôi là típ người “ghiền
làm việc / workaholic”. Vâng, chính vậy. Nếu không có việc làm chắc tôi buồn mà
chết sớm quá. Dù quá bận rộn mà vui. Vui như những trái hỏa châu được bắn lên
trong cõi đêm của đời xế bóng. Chỉ trong vòng 2 tuần nào in: “Mai Thảo – Bài viết
ở trang cuối.” Nào là chuẩn bị bài vở viết bài cho Thư Quán Bản Thảo số 93 sắp
tới. Nào là scan, layout, thực hiện toàn bộ tập san Chính Văn… Nào là làm thơ,
viết văn… không ngưng nghỉ. Thực phẩm nuôi dưỡng tinh thần khiến tôi bận rộn cả
ngày. Còn thực phẩm nuôi dưỡng thân xác thì có gì mà cần bận tâm chứ. …
Dĩ
nhiên “ghiền làm việc” không phải là làm khi cảm thấy tay chân thừa thãi, nấu
nướng cũng là một nghệ thuật, làm ngon cái miệng, sao lại không ham. Lại đi ham
đánh máy bằng hai ngón tay, 32 bài tùy bút của Mai Thảo, mang khổ nhọc vào
thân. Nhất là bị ảnh hưởng nặng nề sau trận stroke.
Ngón
tay điều khiển khó khăn, muốn đánh được một chữ đúng thì đôi khi phải sửa đi sửa
lại 4, 5 lần. Hay mỗi khi thực hiện một flipbook, phải scan chụp cả cuốn,
layout lại, đổi size lại cho đúng kích thước, tìm cách làm giảm sức nặng mỗi
trang từ cấp MB, giảm xuống vài trăm kilobytes, kẻo memory không “kham nổi.”
Bạn
làm sao hiểu ở trong những con chữ mà tôi đánh máy ấy có sức nam châm kỳ lạ,
khi ta đánh máy một bài văn ta ưa thích, chữ không còn là một hình phạt mà là
niềm vui nở búp nở hoa! Bởi vì nó tỏa ra cái đẹp, đó là nghệ thuật. Ví dụ khi
tôi đánh máy câu sau đây của Mai Thảo trong bài tùy bút Quán Bệnh:
“Đêm
tháng tám bên ngoài bát ngát sao.
Trong
những lùm cây xôn xao, gió múa những thuyền đầy.”
Tôi
không khỏi ngây ngất cùng vớt những chữ trong câu “gió múa những thuyền đầy”,
Gió mà biết múa sao? Thưa bạn, tại mình không biết đấy thôi. Giờ ông MT đã nói
cho chúng ta biết. Cho tôi biết. Chính vì cái muốn biết ấy đã giúp một lão già
sắp 8 bó này phải đánh máy miệt mài, không nghỉ, không mệt và bây giờ cũng in
miệt mài, không nghỉ một cuốn sách dày 200 trang để tặng đời!…
Khác
với quan niệm về già, phải hưởng nhàn, phải coi đời là phù du, hãy nhâm nhi hớp
cà phê buổi sáng, đừng bận tâm đến in ấn, in báo, hay sưu tập các tạp chí cũ để
thực hiện flipbook cho thiên hạ đọc chùa… Họ không hiểu tôi cần làm việc. Cần sự
thách đố. Cần cái đẹp… Tôi có thể vất hàng trăm bìa in không thương xót, dù giá
tiền không phải là nhỏ, mà chỉ cần một bìa – một bìa đẹp – đủ vui rồi. Sức mạnh
của nghệ thuật kỳ lạ lắm.
Tôi
bỗng liên tưởng đến người bạn đời. Yến gần như một pho tượng khổ hình. Không
còn biết chuyện đời. Không còn thắc mắc suy tư. Không biết cái nắm tay nóng hổi
tình thương yêu của người chồng, không còn mắt sáng ngời lên khi thấy con…
Không cần ngồi xếp bằng nhắm mắt tham thiền. Nàng có một chỗ ngồi trong xe lăn,
mắt nhìn về một cõi vô minh nào đó suốt 8 năm dài…
Tôi
nghe lòng ràn rụa. Tôi phải làm gì để cứu khổ, cứu nạn, cứu nàng khỏi cơn mê
thiếp. La hoài cũng vậy. Xiết tay chặt hoài cũng vậy. Thôi thì, chỉ có cách lấy
Iphone mở bài Tóc Mây do Sỹ Phú hát, kê sát vào tai nàng. Để âm thanh lọt vào
màng nhĩ, đánh động bộ não, xẹt lửa những sợi dây thần kinh đã chết, Tóc Mây.
Đây là bài hát mà mình thích tôi mở cho mình nghe… Tóc Mây. Ngày xưa tóc đen
huyền vì gội bằng bồ kết. Bây giờ thay vì bồ kết, tóc Yến vẫn đen mun vì gội bằng
trái khổ nạn. Tôi nhìn vào mắt nàng, Tôi thấy mắt nàng lim dim muốn ngủ, thì
ra, những lời ca kia, bài hát quen thuộc kia đã có một phép lạ. Tôi nói là phép
lạ, Yến đã rơi vào giấc ngủ ngon như một đứa trẻ. Chúng mang lại bình an mà ta
đang khao khát.
Hình 16: Hơn bao giờ bằng
lúc này, chính tôi cần sự bình an đó. Yến đã trả nó bằng khổ nạn.
Còn tôi công việc đâu có
khổ nạn, khó khăn gì… Đánh máy ngón tay còn lẩy bẩy, không chính
xác nên lỗi nhiều. Xin bạn
thông cảm.
Hình 17: Trong mùa đại dịch,
tháng bảy ở Mỹ không có mưa ngâu, nàng trên xe lăn,
chàng vịn walker, Ngưu
Lang Chức Nữ thời hiện đại, cả hai chỉ có 15 phút nhìn nhau
bên ngoài cửa nursing
home Ashbrook, New Jersey. [photo by Trần Quí Thoại 2021]
BÀI
THƠ NGƯU LANG
Bây
giờ Ngưu Chức đã già
Chàng
vừa bị stroke đi bằng walker
Nàng
cũng thoát dịch Corona
Hai
người vẫn đợi đến ngày gặp nhau
Tháng
bảy Mỹ không mưa ngâu
Bởi
nước mắt họ thấm vào đá cương
Nở
lên một đoá vô thường
NGÔ
THẾ VINH
Sài
Gòn 18.06.1971 – New Jersey 18.06.2021
[
50 năm Vàng, ngày cưới Nguyễn Ngọc Yến – Trần Hoài Thư ]
THAM
KHẢO:
1/
Lê Ngộ Châu. Bách Khoa 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn
https://www.diendantheky.net/2011/09/le-ngo-chau-160-phan-inh-phung.html
2/
Báo SVYK Tình Thương, 113 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn
http://vietecologypress.blogspot.com/p/tinh-thuong.html
3/
Phạm Cao Hoàng. Trang Văn Học Nghệ Thuật
http://blogphamcaohoangtacgia.blogspot.com/2013/06/tran-hoai-thu.html
4/
Ngô Thế Vinh. Chân Dung VHNT & VH, Việt Ecology Press 2017
Chan
Dung Van Hoc Nghe Thuat & Van Hoa (full color version) (Vietnamese Edition)
5/
Cơn Giông. Trần Hoài Thư. Tạp chí Bách Khoa 1969, số 288.
https://nhatbook.com/wp-content/uploads/2019/04/nhatbook-Tap-chi-Bach-Khoa-so-288-1969.pdf
6/
Cảm Tạ Văn Chương. Trần Hoài Thư. Tạp Chí Thư Quán Bản Thảo. Ấn bản đặc biệt
Tháng 10/2020.
No comments:
Post a Comment