Tạp
văn Lê Ký Thương
Sài Gòn xưa
Đó
là mùa hè năm 1965, năm có nhiều biến động thời cuộc nhất ở miền Nam Việt Nam.
Hắn, lần đầu tiên từ quê nhà Nha Trang cùng đoàn Thanh niên – sinh viên – học
sinh tình nguyện, bay vô Sài Gòn được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn đông, tham dự
Trại hè TN-SV-HS toàn quốc, được tổ chức tại Khu Phượng Hoàng, Lái Thiêu, mục
đích xây dựng nhà tạm – vách đất, mái lợp lá dừa nước cho đồng bào nghèo không
nhà không cửa vì chiến tranh.
Nghe
nói Khu Phượng Hoàng do không ảnh chụp giống hình chim phượng hoàng đang sãi
cánh bay, do bà Ngô Đình Nhu làm chủ. Sau khi “phượng hoàng gãy cánh” năm 1963,
bà Nhu sống lưu vong, chính quyền sở tại quản lý, coi như đất công.
Ngỡ
ngàng với đất Phương Nam sáng nắng chiều mưa như bài địa lý thời tiểu học, bất
ngờ trước câu thơ tình lãng mạn của Nguyên Sa nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông; những
cô gái Sài Gòn mặc áo dài quần lụa trắng, đạp xe đạp dàn đầm đi trên những con
đường rợp bóng me xanh – quá thơ mộng, hay lâu lâu bắt gặp vài cô mặc quần ống
túm chạy vélo-solex – căng tròn sức sống.
Chỉ
có một buổi ban đầu ngắn ngủi thôi mà Sài Gòn quyến rũ hắn đến thế! Rồi hắn từ
giã Sài Gòn để về Lái Thiêu dự Trại. Nhưng rất may, cơ duyên đến với hắn, hắn
được sắp xếp vào Ban Báo chí của Trại cùng với một nhà thơ Sương Biên Thùy –
tác giả tập thơ Nỗi Buồn Nhược Tiểu,
và một cô thư ký.
Buổi
sáng, hắn cùng anh bạn nhà thơ có nhiệm vụ lấy tin sinh hoạt của các đội về viết,
xong tin nào chuyển ngay cho cô thư ký đánh máy lên stencil. Đúng 6 giờ chiều,
sau khi cơm nước, xe đưa chỉ một mình hắn về trụ sở nằm trên đường Phùng Khắc
Khoan, Sài Gòn; ở đó có một anh sinh viên phụ trách in bản tin, còn hắn chỉ phụ
tá xếp đóng 100 bản để sáng sớm hôm sau chở lên Lái Thiêu phát hành. Khâu in, xếp
đóng có khi đến hai ba giờ sáng mới xong! Công việc cứ quay đều như vậy trong nửa
tháng thì bế mạc trại. Vài hôm trước khi bế mạc Trại, hắn nhìn thấy cái máy
quay ronéo chạy điện và tiếng máy quay đều đều khiến hắn khiếp sợ không dám đến
gần! Bù lại, hắn được làm công việc hắn yêu thích.
Trước
khi về Nha Trang, hắn được rong chơi vài hôm trên các đường phố chính ở Sài
Gòn, nhất là đường Lê Lợi có nhà sách Khai Trí lớn nhất Sài Gòn và nổi tiếng cả
miền Nam, nơi mà hắn hằng ao ước được đặt chân đến. Ngoài nhà sách Khai Trí còn
có nhà sách Tự Lực, Ngàn Thông… Phía bên kia đường, đối diện với nhà sách Khai
Trí có những cửa hàng và kiốt sách cũ. Hắn bị hớp hồn giữa một rừng sách mới và
cũ – kho tri thức của nhân loại, nhưng hắn chỉ dám lướt nhìn tên sách. Thèm lắm,
mà không có tiền mua! Hắn chỉ đủ tiền mua một tập truyện ngắn của một nữ tác giả
thời danh mà hắn thích, để kỷ niệm lần đầu đặt chân lên đất Sài Gòn.
Từ
đó về sau, hắn có dịp về Sài Gòn nhiều lần, nhưng không được ở lâu.
Đến
giữa năm 1970, hắn nộp đơn cầu âu xin đi học một khóa truyền thông ở Mỹ. Không
ngờ đầu năm 1971, đơn vị chủ quản gọi về Sài Gòn học bổ túc Anh ngữ ở Trường
Sinh ngữ Quân đội. Đây là một dịp may hiếm có. Hắn nghĩ ở Sài Gòn chuyện học
hành là chuyện phụ, chuyện chính là trực tiếp giúp Nguyên Minh làm tạp chí Ý Thức.
Được làm báo là điều hắn mơ ước từ lâu.
Trước
ngày hắn vô Sài Gòn, tạp chí Ý Thức in ở nhà in Đăng Quang, đối diện với rạp
hát Long Vân, trên đường Phan Thanh Giản. Lúc bấy giờ nhà in Thanh Bình mà chủ
nhân là chị Mai, chị đầu của Nguyên Minh, ở 666 Phan Thanh Giản xây chưa xong.
Cũng xin nói thêm rằng lúc hắn còn ở Phan Rang, hắn trọ ở nhà Nguyên Minh và
gia đình coi hắn như một thành viên.
Lúc
hắn vào Sài Gòn để học bổ túc Anh ngữ thì nhà in Thanh Bình đã thành lập và hắn
được chị Mai coi như em, phụ giúp Nguyên Minh quản lý nhà in. Từ thời điểm này,
tạp chí Ý Thức in tại “nhà in nhà”.
Mỗi
tuần hắn học sáu buổi chiều, từ 13 giờ đến 18 giờ. Giờ đầu là vào phòng lab
nghe băng. Với hắn, giờ này là giờ ngủ ngon nhất, con ma ngủ đến lúc nào không
hề hay biết! Mỗi lớp chỉ có hai chục học viên, nên thầy giáo người Mỹ dễ kiểm
soát. Mỗi lần bắt gặp ai úp mặt xuống bàn ngủ thì thầy đến lay nhẹ một cách lịch
sự. Hắn học bao nhiêu thì trả cho thầy
ngay tại lớp bấy nhiêu, về nhà hắn không hề động đến sách vở của trường, chỉ dồn
thời gian vào việc làm báo. Có đôi lần hắn suýt trễ học, nếu không gặp được “quới
nhơn” là ông thiếu tá đồng môn nhưng khác lớp cho đi nhờ Cub 69, những lần khác
từ nhà đến trường mất 45 phút xe lam, còn taxi thì phải chờ đỏ mắt mới đón được,
một phần vì giữa trưa giờ ngọ.
Ở
tòa soạn tạp chí Ý Thức trước đó có nhà thơ TNS phụ tá cho Nguyên Minh một giai
đoạn ngắn, rồi TNS bỏ việc đột ngột, hắn thế chỗ của TNS. Hắn cùng NM làm tất cả
mọi khâu công việc từ “bếp núc” cho tới khi hình thành một số báo rồi chở đi gởi
chành để phát hành về các tỉnh bằng chiếc Suzuki cà tàng của Nguyên Minh mang từ
Phan Rang vô. Chiếc xe này, một lần hắn
chạy công việc về gần tới tòa soạn thì bị cảnh sát “vịn”, hỏi bảng số xe. Nhìn
xuống, bảng số rớt mất từ bao giờ! Bèn để lại xe về hỏi Nguyên Minh, Nguyên
Minh cho biết hôm trước chở báo đi phát hành, gặp ổ gà rớt mất, lỡ trớn chạy
luôn, không thèm quay xe lại lượm. Thôi, bỏ “nó” đi! Nghe Nguyên Minh phán một
câu dứt khoát – tính anh ta là vậy, bèn nhẹ lòng.
Gần
nhà in Thanh Bình có một con đường ngắn, rẽ qua thì gặp đường Trần Quốc Toản.
Buổi tối, khi rảnh rỗi, hắn và Nguyên Minh tới một quán quen nằm trên đường này
“làm vài ve” Con Cọp và đổi giấy lau chén đũa – cắt từ rẻo giấy in báo – để lấy
một dĩa đầu vịt nhâm nhi. Sáng chủ nhựt thì đón taxi ra phố Lê Lợi, uống cà-phê
ở Brodard hay La Pagode, thỉnh thoảng kéo ghế ở nhà hàng Thanh Bạch, rồi đi lên
đi xuống đi qua đi lại, (may mà không có em), tha hồ “nghía” nam thanh nữ tú dạo
phố, rồi tạt vô dãy kiốt sách cũ san sát nhau bán đủ loại sách Ta–Tây-Tàu để
mua một hai quyển mình thích. Cả Sài Gòn, chiều thứ Bảy và trọn ngày Chủ nhựt,
chỉ có phố Lê Lợi là nơi phồn hoa đô hội. Tân binh ở Trung tâm Huấn luyện Quang
Trung, sinh viên sĩ quan Trường Bộ binh Thủ Đức, rồi những người lính từ mặt trận
nghỉ phép về, những khách vãng lai, hòa cùng dân Sài Gòn tạo cảnh “ngựa xe như
nước, áo quần như nêm” – một bức tranh hoàn hảo tiêu biểu cho một Sài Gòn năng
động, nhộn nhịp mặc dầu trong thời chiến.
Giai
đoạn làm tạp chí Ý Thức cũng lắm kỷ niệm không thể nào quên…
Nhà
thơ-nhà giáo Hạc Thành Hoa dạy học ở Sa Đéc, thấp người lại ốm tong teo, cứ
cách sáu tháng lại lên Sài Gòn tái khám định kỳ để được đổi giấy miễn dịch (miễn
đi lính). Mỗi lần như vậy, anh nghỉ lại tòa soạn ba bốn bữa, nhịn ăn hoàn toàn,
chỉ uống nước cầm hơi, với mục đích để giảm cân theo tiêu chuẩn miễn dịch ấn định!
Năm
1970, nhà văn Trần Hoài Thư từ chiến trường Buôn Ma Thuộc bất ngờ xuất hiện tại
tòa soạn vào một sáng đẹp trời, tuyên bố hùng hồn rằng được đơn vị cho nghỉ
phép về Sài Gòn cưới vợ! Bạn bè hết sức ngạc nhiên. Mới cách đó không lâu, anh
về Cần Thơ để gặp người yêu, lên lại Sài Gòn gặp bạn bè với vẻ mặt buồn thỉu buồn
thiu dưới cặp kính cận nặng. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra cho “cuộc tình
văn chương” của anh rồi nên không hỏi tới. Đùng một cái, về lần này anh tuyên bố
cưới vợ, và người vợ tương lai của anh không ai khác ngoài người mê văn Trần
Hoài Thư ở Cần Thơ. Anh nhờ bạn bè Ý Thức tổ chức đám cưới cho anh. Nguyên Minh
bèn nhờ chị Mai, chủ nhân nhà in Thanh Bình, làm đại diện họ nhà trai. Đến ngày
cưới, họ nhà trai gồm chị Mai, chị Minh Quân (nhà văn), Đỗ Nghê (tức bác sĩ Đỗ
Hồng Ngọc – nhà thơ), Nguyên Minh và hắn… xuất phát từ nhà in Thanh Bình và
cũng là tòa soạn Ý Thức đến một khách sạn gần đó đón cô dâu cùng thân nhân nhà
gái từ Cần Thơ lên, rồi họ nhà trai và nhà gái cùng đến một nhà hàng dự tiệc
thân mật để hai họ làm quen. Giống như nhiều đám cưới thời chiến…
Trước
khi hắn nhận visa du học ngắn hạn ở Mỹ, Linh mục Nguyễn Ngọc Lan – tục gọi Cha
Lan – một cây bút chủ lực của tạp chí Đối Diện giới thiệu cho hắn gặp nhạc sĩ
Phạm Trọng Cầu, nổi tiếng với ca khúc Trường
làng tôi và Mùa thu không trở lại.
Thời
gian này (12-1971) Phạm Trọng Cầu đang “bí mật” thành lập ban tứ ca gồm các ca
sĩ Mai Hương, Kim Tước, Bùi Thiện và Đoàn Chính. Đúng hẹn, hắn cùng cô sinh
viên ngành báo chí đang thực tập tại tòa soạn Ý Thức đến tư gia của NS Phạm Trọng
Cầu cũng nằm trên đường Phan Thanh Giản. Phạm Trọng Cầu tự xưng mình là “Người
Việt gốc Voi” vì vóc dáng to cao, tuy bị mất một chân trong thời kỳ chống Pháp,
nhưng trông rất “nghệ sĩ” nhờ hàm râu quai nón. Anh rất hiếu khách, dễ gần, nói
với người nhà pha cà-phê mời chúng tôi. Rồi Bùi Thiện đến, người kế tiếp là
Đoàn Chính. Tất cả chúng tôi ngồi bên chiếc bàn tròn mà anh gọi đùa chúng mình
đang tham dự hội nghị bàn tròn. Anh mở băng nhựa cho chúng tôi nghe bản demo của
bốn danh ca trình diễn và hàn huyên tâm sự. Anh cho biết chưa hài lòng về bản
demo này, phải thực hiện lại. Đến hơn 10 giờ đêm, khi nghe tiếng chuông reo
ngoài cổng, anh vội chống gậy ra mở như đã hẹn trước với ai đó. Chúng tôi cũng
chào từ giã và theo anh ra cổng. Thì ra, anh sinh viên khiếm thị ở Trường Quốc
gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn đến chào từ biệt thầy để mai lên đường sang
Pháp du học tại Nhạc viện Paris, nơi mà thầy mình đã từng học.
Trên
đường về, hắn mang theo dư âm giọng hát ngọt ngào sang trọng của ca sĩ Kim Tước:
Em nghe chăng mùa thu, mùa thu không trở lại…
SG, Thu 2015
LKT
*Nguồn: Văn Chương Việt
*Nguồn: Văn Chương Việt
No comments:
Post a Comment