Ngô Thế Vinh
Hình 1: trái, đến thăm Gs Trần Ngọc Ninh,
Huntington Beach ngày 21 & 29 tháng 06.2018,
ở tuổi 95 mà Thầy vẫn còn rất minh mẫn và sắc bén; trên
bàn là những số báo Tình Thương
(1963-1967)có các bài viết của Thầy; phải, Gs Trần Ngọc
Ninh đang ký tặng Ngô Thế Vinh
cuốn Làm Gì
(1979),bên cạnh là tác phẩm Nuôi Sẹo
của Thư Quán Bản Thảo
do nhà văn Trần Hoài Thư tặng Gs Trần Ngọc Ninh.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Tôi mơ
về một nước Việt Nam hoà bình, tân tiến trên nền tảng của những giá trị tinh thần
mà lịch sử đã nhồi vào nền văn hiến của nước ta. Cả cuộc đời xã hội của tôi là
để đóng góp vào sự ước mong ấy. Trần Ngọc Ninh, Ước Vọng
Duy Tân, 2012
TIỂU SỬ
Trần Ngọc Ninh, tên thật, còn có bút hiệu Kỳ
Ngọc, Trần Ngọc, Trần Lê sinh ngày 6 tháng 11 năm 1923 tại Hà Nội,
nguyên quán Ninh Bình Bắc Việt, thân phụ là giáo viên nghèo, đôi khi nhà không
đủ ăn; vừa đi học vừa viết báo phổ thông y học như với tờ Vui Sống để kiếm sống với bút hiệu Kỳ Ngọc; một số bài báo còn sưu
tập được đã đăng lại trong Tuyết Xưa.
(2)
1939 học sinh trường Bưởi, sinh viên Khoa học
ban Toán cùng với Triều Sơn, rồi chuyển sang học Y khoa
1946-1948 cựu nội trú các bệnh viện Hà Nội
1948 luận án Tiến sĩ Y khoa: "Contribution à la Physiopathologie des
Traumatismes Thoraciques"
1948-1952 bác sĩ thường trú bệnh viện Yersin
/ Phủ Doãn Hà Nội
1952-1954 sang Pháp du học với Gs Robert
Merle d'Aubigné ở bệnh viện Cochin về ngành giải phẫu chỉnh trực và với Gs
Pierre Petit về ngành giải phẫu tiểu nhi ở bệnh viện St Vincent de Paul; qua
Anh tu nghiệp về giải phẫu thần kinh ngoại vi và xương sống với Gs Herbert
Seddon
1954 di cư vào Nam sau Hiệp định Geneve, cùng
với các giáo sư Phạm Biểu Tâm, Nguyễn Hữu, Đào Đức Hoành, Ngô Gia Hy, Nguyễn
Đình Cát... và trở thành ban giảng huấn cốt cán của Đại học Y Khoa Sài Gòn sau
khi người Pháp rút đi.
1961 Thạc Sĩ Y khoa Pháp / Agrégation des
Facultés Françaises de Médecine, Section Chirurgie Orthopédique.
1961-1967 giáo sư phẫu khoa chỉnh trực và phẫu
nhi khoa, Đại học Y khoa Sài Gòn, Việt Nam
1966-1967 Tổng trưởng Văn hoá Xã hội đặc
trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hoà, chủ trương phát triển phong trào thanh niên,
đưa Hướng đạo vào sinh hoạt học đường.
1956-1977 trưởng khoa phẫu thuật chỉnh trực,
bệnh viện Bình Dân Sài Gòn
1966-1975 giáo sư Văn minh Đại cương và Văn
Hoá Việt Nam, Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn, Việt Nam
1967 thành viên sáng lập Tổ chức Hội đồng Bộ
trưởng Giáo dục Đông Nam Á (SEAMEO / Southeast Asian Ministers Education
Organization) Bangkok & Singapore
1968-1975 hội viên Hội đồng Soạn thảo Danh từ
Chuyên môn, Sài Gòn, Việt Nam
1969-1975 hội viên Hội đồng Văn hoá Giáo dục,
Sài Gòn Việt Nam
1977 ngày 6 tháng 6, cùng gia đình vượt biển
tới đảo Pulau Besar Mã Lai, chọn định cư tại Hoa Kỳ
1978-1980 thi ECFMG & FLEX như một bác sĩ
ngoại quốc, vẫn phải qua thời gian thực tập tại các bệnh viện ở Denver,
Colorado; rồi Pittsburg với các Gs James S. Miles và Gs William B.
Kiesewetter cùng là giáo sư y khoa bạn cũ trong ngành phẫu nhi khoa / Pediatric
Surgery với ông trước kia.
Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn hoàn tất một
tập luận đề chính trị "Làm Gì"
trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối sách: "Viết
xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ Châu".
(Rocky Mountains Ranges Denver, Colorado / ghi chú của người viết)
1980 trở lại hành nghề Y khoa tại Nam
California, nhưng chủ yếu vẫn là các hoạt động văn hoá giáo dục; viết bài cho
các báo Tập San Y Sĩ, Thế Kỷ 21, Khởi Hành...
2000 tham gia Ban Cố vấn Viện Việt Học
(Westminster, California) do Gs Nguyễn Đình Hoà sáng lập
2003-2008 Viện trưởng Viện Việt Học, giáo sư
giảng dạy lớp Ngữ pháp Việt ngữ tại Viện Việt Học
2018 Ông vẫn minh mẫn ở tuổi 95, hiện cư ngụ
tại thành phố Huntington Beach, miền Nam California.
TÁC PHẨM
Văn Hoá
_ Những Vấn
đề Văn hoá Giáo dục và Xã hội [Sưu tập Diễn Văn của Gs Trần Ngọc Ninh, Tổng
trưởng Văn hoá Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hoà] Sài Gòn Việt Nam
1966
_ Văn
hoá Dân tộc trước những Nhu cầu của Đất nước; Nxb Vovinam, Sài Gòn Việt Nam
1969
_ Đức
Phật Giữa Chúng Ta. Nxb Lá Bối, Sài Gòn Việt Nam 1972
_ Làm
Gì? Tập Luận đề Tháng Chín. Với bút hiệu Trần Lê. Nxb Việt Nam Hải Ngoại,
California 1979
_ Tuyết
Xưa; Tuyển
tập các Vấn đề Văn hoá Việt Nam, Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ 2000
_ Tố
Như và Đoạn Trường Tân Thanh. với những giả thuyết mới về Nguyễn Du và Đoạn
Trường Tân Thanh, cũng như mối liên hệ giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Nxb Khởi
Hành & Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2004
_ Cơ Cấu
Việt Ngữ, Nxb Lửa Thiêng Sài Gòn Việt Nam 1973; Viện Việt Học California
Hoa Kỳ tái bản 2009
_ Dạy Đọc
Dạy Viết Tiếng Việt. Viện
Việt Học, California Hoa Kỳ 2010
_ Ước Vọng
Duy Tân. Văn Hoá, Huyền Thoại, Văn Học Sử. Tuyển tập Trần Ngọc Ninh. Viện Việt Học,
California Hoa Kỳ 2012
_ Ngữ
Pháp Việt Nam [Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017]
_ Ngữ
Pháp Tiếng Việt Đầu Tiên, Cho Tuổi 5 Năm - 15 Năm [Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017]
Hình 2: hình bìa một số những cuốn sách của
Gs Trần Ngọc Ninh.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Y Học
_ Nhà
Thương,
Phóng sự, Nxb Văn Hoá Hà Nội, Việt Nam 1946
_ Thượng
Kinh Ký Sự
/ Éthique Médicale de la Médecine Traditionnelle du Vietnam, d' après les
Mémoires d'un Voyage à la Capitale de Hải Thượng Lãn Ông (18e siècle), Isis,
Bruxelles, Belgique 1950
_ Những
Bệnh Cần Cấp Cứu, Gió Việt, Sài Gòn Việt Nam 1956
_ Một
Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Tập San Y Sĩ, Montréal Canada 2000
_ Lịch
sử hình thành hai Chuyên khoa Y Học: Phẫu khoa Chỉnh trực và Phẫu Nhi khoa ở Việt
Nam. Tập
San Y Sĩ, Montréal Canada 2000
_ Hơn
200 bài khảo cứu chuyên khoa được in trong các Tạp chí Y khoa xuất bản tại Việt
Nam, Pháp và Mỹ.
GIÁO SƯ Y KHOA LỖI LẠC
Hình 3: từ phải, Gs May, Gs Trần Ngọc Ninh,
Gs Nguyễn Hữu, Gs Phạm Biểu Tâm,
Gs Trịnh Văn Tuất. [Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]
Hình 4: Một buổi họp Hội Đồng Khoa Đại học Y
Khoa Sài Gòn,
từ trái, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Trịnh Văn Tuất, Gs Trần Vỹ,
Gs Caubet,
Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Huard, Gs Trần Đình Đệ, Gs Nguyễn
Đình Cát, Gs Nguyễn Hữu,
Gs Ngô Gia Hy. [Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]
Sự nghiệp Y khoa của Thầy Ninh đã được đồng
nghiệp và các môn sinh viết khá đầy đủ. Bài này chủ yếu viết về một chân dung
văn hoá của Gs Trần Ngọc Ninh.
VỚI BÁO SVYK TÌNH THƯƠNG
Học Y khoa, tôi không phải là học trò theo
cái nghĩa là đệ tử ruột của Gs Trần Ngọc Ninh: học trò của Thầy Ninh ở trường Y
có thể đếm trên mười đầu ngón tay: rất sớm có Bùi Duy Tâm, Phạm Văn Biểu, cả
hai đều dở dang, rồi Vũ Văn Nguyên mất sớm khi du học Mỹ, và sau này là Trần
Xuân Ninh (Ninh Con, để phân biệt với Ninh Bố là Thầy Ninh), Võ Thành Phụng,
Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Lương Tuyền... Khác với Gs Phạm Biểu Tâm được sinh
viên Y khoa yêu mến; với Gs Trần Ngọc Ninh, sinh viên có thể nể phục tài năng
kiến thức và cả cái uy của ông nhưng một số không thích ông vì quá nghiêm khắc.
Tôi gần gũi với Gs Trần Ngọc Ninh không phải
bên giường bệnh hay trong phòng mổ nơi các bệnh viện, mà chủ yếu qua những hoạt
động sinh viên với tờ báo Tình Thương trong khoảng thời gian 1963-1967. Các bài
viết của Thầy Ninh trên báo SVYK Tình Thương đều với một tầm nhìn chiến lược đặt
ra những vấn đề lớn của nền Y tế, Giáo dục và Văn hoá Việt Nam, cho đến nay vẫn
còn nguyên tính thời sự:
TT 1: Y tế và Chính Trị
TT 3-4: Những Vấn đề Hiện tại của nền Giáo dục
Việt Nam
TT 5: Tinh Thần Đại Học
TT 12: Phỏng vấn Giới Gs Đại học về Vấn đề
Sinh viên
TT 14: Nền Đại học Y khoa Việt Nam
TT 20: Các Vấn đề Thanh niên và Sinh viên
trong Thời đại
TRẦN NGỌC NINH VÀ NUÔI SẸO
Ngay từ số Tình Thương ra mắt, qua Gs Trần Ngọc
Ninh, toà soạn đã nhận được bản thảo truyện dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn và bắt đầu cho đăng từng kỳ trên báo với lời
giới thiệu trang trọng: "Nuôi Sẹo là
một tác phẩm mà nhiều nhà văn tìm đọc từ hơn 10 năm nay [thời điểm 1964,
ghi chú của người viết]. Cuốn truyện đã
không thể xuất bản được ở miền Bắc, cộng sản. Nó cũng không thể ra đời được ở
miền Nam, dưới chế độ cũ. Tác giả là Triều Sơn, một sinh viên đã rời mái trường
để đi làm cách mạng, đã làm đủ nghề, đã đặt chân tới nhiều nơi trên thế giới.
Và Triều Sơn đã chết ở Paris khi Nuôi Sẹo sửa được gần xong tập đầu, mà chúng
tôi hân hạnh giới thiệu ở đây. Nhưng vài dòng ngắn ngủi này không thể đủ để các
bạn, nhất là các bạn trẻ biết rõ Triều Sơn và Nuôi Sẹo. Bởi vậy chúng tôi xin
nhường chỗ cho Trần Ngọc [bút hiệu của Gs Trần Ngọc Ninh], một người bạn thiết của Triều Sơn viết
"Kỷ niệm về Triều Sơn." Trần Ngọc đã gặp lại Triều Sơn sau 15 năm xa
cách và đã làm quen với Nuôi Sẹo ở đó. Triều Sơn đã sống những ngày sau cùng với
Trần Ngọc. Cuộc tao ngộ đó là cái nhân cho sự ra mắt của Nuôi Sẹo ở đây. Và
chúng tôi xin ghi đậm một nét chân thành cám ơn Trần Ngọc, người đã cho chúng
tôi cái hân hạnh đón chào Nuôi Sẹo." [Trích dẫn Tình Thương Số 1,
01/1964]
Bài viết giới thiệu Nuôi Sẹo của Gs Trần Ngọc
Ninh, một tài liệu hiếm quý tưởng đã bị thất lạc mà nay tìm lại được. Tuy
là viết về Triều Sơn nhưng cũng là tấm gương phản chiếu một chân dung khác thời
trai trẻ của Trần Ngọc Ninh nên chúng tôi chủ ý cho trích đăng trong
bài viết này.
"Mười
Lăm Năm Ấy, Kỷ Niệm về Triều Sơn"
của Trần
Ngọc
Tôi không biết làm thế nào để nhìn thấy trong
một người trẻ tuổi cái mầm của tài năng. Tôi bắt đầu quen Triều Sơn khi vào lớp
Toán Chuyên khoa năm 1939. Tôi còn nhớ Triều Sơn nói với tôi, khi hai người vào
ngồi cùng một ghế:
_ Có anh em cũ thì học cả Toán cho vui, nhưng
tôi học Triết cũng thích.
"Anh
em cũ"
là hai anh bạn khác, cùng học với Triều Sơn những năm về trước ở trường Bưởi;
nhưng ngay từ buổi đầu ấy, tôi cũng đã là "anh em cũ" của Triều Sơn.
Năm ấy Triều Sơn 18 tuổi, người to lớn, má đầy, mặt trắng nổi lốm đốm những mụn
nhỏ của thiếu niên, tóc thưa và chải lật về đằng sau, mình đóng một cái áo the
đen. Cả lớp chỉ có hai chúng tôi mặc ta, nhưng có lẽ đấy là hai điểm độc nhất
giống nhau.
Hình 5: Chân dung Triều Sơn
Bùi Văn Sinh 1921-1954
[nguồn: báo Văn 15.05.1965, số Đặc biệt Truy Niệm Triều
Sơn]
Triều Sơn thích đọc Triết hơn Toán, và tôi
thích học Toán hơn Triết.
Thực ra Triều Sơn đã tiến sâu vào Triết học từ
khá lâu rồi; khi mới học năm thứ ba Trung học phổ thông, anh đã đọc hết Kant,
Fichte và Hegel; ảnh hưởng của Triết học Đức sau này còn sâu xa hơn nữa vào
anh, qua Marx, qua Husserl, nhưng Triều Sơn không phải là người của một dòng tư
tưởng, và anh đã học cả Triết lý cận đại của Âu châu lẫn triết lý cổ Phật-Lão của
Á đông. Hơn nữa, Triều Sơn ngay từ lúc ấy đã có một cái công phu suy nghĩ sau
này sẽ đưa tư tưởng của anh vượt lên trên những lý thuyết vụn vặt của các môn
phái. Tuy vậy mà trong lớp, không có dấu hiệu gì tỏ ra rằng Triều Sơn đã hiểu
biết nhiều như thế; số điểm của anh chỉ vào hạng trung bình, kể cả về triết học;
có lẽ cái mầm vẫn còn thu hình trong hạt, hoặc giả những ý nghĩ đã có chút đặc
sắc của Triều Sơn không hợp với cách học trọng hư văn trong các trường chăng?
Sau khi đậu Trung học, mỗi người chúng tôi
theo một ngả đường. Triều Sơn, người không thích Toán, lại vào lớp Toán học đại
cương. Nhưng Triều Sơn không học Toán vì Toán; suốt ngày tôi gặp anh ở thư viện
đọc về triết lý của toán học; những sách của Whitehead, của Bertrand Russell, của
Hamilton được giũ bụi thời gian và ăn sâu vào óc người sinh viên trẻ tuổi. Hồi ấy
anh chỉ nói chuyện về "vô
cùng", về "số giả", về cách lý luận trong toán học, về căn bản
của sự hiểu biết... Kết quả là cuối năm, sau khi thi hỏng, Triều Sơn bỏ học
nhưng hài lòng vì đã lấp được một lỗ hổng trong tư tưởng.
Trong ít lâu, tôi không gặp Triều Sơn nữa. Thời
kỳ này mới chính là thời kỳ nảy nở của tài năng. Cái gì đã làm cho cái mầm nảy
lá, đục đất và vươn lên trời xanh? Sau này khi Triều Sơn viết Con đường văn nghệ mới, anh sẽ nhấn mạnh
về điểm phải gần dân chúng; văn nghệ sĩ nào xa dân chúng sẽ cằn cỗi, hoặc truỵ
lạc tinh thần; đi vào quần chúng, sống với đại chúng, hoà nhịp sống của mình
vào đời sống chung, phải là phương châm của văn nghệ sĩ tiền phong. Đấy là một
lời khuyên sống: quần chúng đã rèn luyện tài năng của Triều Sơn, đã nuôi tinh
thần Triều Sơn, đã nung đúc tư tưởng của Triều Sơn. Anh lăn mình vào cách mạng,
làm thợ ở mỏ than Hòn Gay, làm hành chính ở Hải Dương, dạy học ở Phú Thọ, làm
phu ở dưới tàu, lưu lạc qua Quảng đông để chung đụng với người dân Trung Hoa mới,
ở Hồng Kông, Tích Lan, đi Phi châu làm thợ nguội, rồi về Pháp, sống với anh em
lính thợ ở Marseille, Bordeaux và Ba Lê.
Và tôi gặp lại Triều Sơn ở Ba Lê.
Thực ra giữa quãng, tôi còn gặp Triều Sơn vài
ba lần khác, thời gian vội vàng của một cuộc lên bộ, nhưng cũng không có gì
đáng kể. Một bữa thì anh mới ở ngoài Khu vào, và nói chuyện về những thắc mắc
tinh thần mà duy vật lịch sử không giải quyết nổi; một bữa khác anh bàn luận về
quan niệm của Trang Tử về tự do; một bữa nữa, phê bình văn nghệ, và nói chuyện
về sự truỵ lạc của người trí thức bị khoa cử đưa đến một con đường danh lợi dễ
dàng xa cách hẳn với đời sống của người dân cần lao. Rồi Triều Sơn vào Sài Gòn
làm báo, giũa ngòi bút trong những truyện ngắn, trong những bài thơ tự do (dưới
tên là Ninh Huy), hay thơ trào lộng (dưới tên Thang Thang), hoặc tranh luận về
Nghệ thuật, về Triết lý hay về những vấn đề xã hội. Trong khoảng này, anh viết
bản kịch thơ Triều Sơn đã khéo phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp kể sự thức
tỉnh của một tâm hồn thấm nhuần Phật học trước sự đau khổ hiện tại của cả dân tộc.
Giặc Cờ đen có một cấu tạo rất cổ điển;
Triều Sơn đã khéo phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp vào xã hội của Việt Nam
và dùng lời thơ cổ phong, khi âm u, khi thâm trầm, khi dồn dập, để tả tâm tình
của các nhân vật. Tuy thế sau này, Triều Sơn có nói rằng về phương diện thơ thì
Giặc Cờ đen chỉ được có vài câu là
anh vừa ý; về phương diện kịch thì sự thành công chắc chắn hơn, nếu anh có thì
giờ để thực hiện sự ra mắt của vở kịch trên sân khấu.
Nhưng lúc ấy Triều Sơn còn ôm trong người cái
mộng lớn về Nuôi Sẹo.
Nuôi Sẹo
là
gì? Tôi gặp lại Triều Sơn trong một căn phòng nhỏ hẹp, méo mó, chật sách, than
và giấy ở phố Bièvre, quận Năm Ba Lê, và cũng làm quen với Nuôi Sẹo ở đó.
Nuôi Sẹo là nhân vật chính của một tiểu thuyết
dài về xã hội Việt Nam trong buổi cuối cùng của thời thuộc Pháp. Làm mõ làng,
chuyên nghề đòi nợ thuê và chôn người. Nuôi
Sẹo là một con sâu bọ trong cái xã hội có tôn ti trật tự của một làng Bắc
Việt. Triều Sơn đã muốn nhờ con mắt của Nuôi Sẹo để tả cái xã hội phong kiến ấy,
rồi lại nhờ con người của Nuôi Sẹo để mở hé một cái quan niệm về cuộc đời.
Đây không phải là một chuyện dễ. Một bức hoạ
đồ sộ đòi hỏi công phu và thì giờ rất nhiều: Triều Sơn để vào đó năm, sáu năm của
anh, lúc nào cũng cặp chặt tập bản thảo trong người, từ Khu ra Hà Nội, và trong
tất cả những chặng đường luân lạc của anh; xúc than nuôi lò cả ngày, buổi chiều
tối lại trút bộ áo xanh của người phu tàu ra để chữa một hai câu văn; hoặc là nằm
ở Yễm Yễm thư trang, sửa lại vài đoạn chưa được vừa ý. Lúc nào trong đầu óc anh
cũng có Nuôi Sẹo; Nuôi Sẹo chưa ra đời
mà làng văn Việt Nam đã biết cả hình dáng của gã, các nhà xuất bản đã tranh
nhau đỡ đầu cho gã, đã có nhà văn Pháp hẹn với tác giả để dịch chuyện gã sang
tiếng Pháp, đã có hoạ sĩ đi tìm tài liệu để vẽ lại vài cảnh trong cuộc đời gã.
Triều Sơn cứ đắn đo, sửa chữa, xoá bỏ, thêm thắt, và để vào đây tất cả sức khoẻ
của anh, cho đến ngày không cầm được bút nữa.
Nhưng bức hoạ xã hội không phải là cái khổ
tâm chính của Triều Sơn. Cái khổ tâm chính của Triều Sơn là Nuôi Sẹo, là con
người Nuôi Sẹo, là tâm lý Nuôi Sẹo...
Thỉnh thoảng tôi đi uống nước với Triều Sơn. Ở
khu Saint-Germain-des-Prés, khu văn nghệ của Ba lê, có một quán café, cửa sơn
màu đỏ hung, nhỏ nhắn và ấm áp, lúc nào cũng đông khách; khi nào vào đấy thì
Triều Sơn ngồi hàng giờ không đứng dậy, với một chén suc-cu-la bốn mươi lăm
quan. Tại sao Triều Sơn thích cái quán ấy, tôi không biết. Ở Ba Lê, anh có giao
thiệp với các văn sĩ Pháp Vercors, Marcel Aymé, Jean-Paul Sartre; có lẽ vì sự gặp
gỡ của anh với những nhà văn ấy thường dùng cái khung cảnh của quán này. Cũng
có lẽ rằng Triều Sơn hay tới họp ở hội Triết học cũng ở khu ấy, đã có lần anh tới
diễn giảng ở hội và khi ra về quen rẽ vào quán đó. Ngồi đấy với Triều Sơn, tôi
đã được nghe anh nói cho nghe về những vấn đề trong Nuôi Sẹo...
Hình 6: từ phải, một trang Nuôi Sẹo, đăng từng
kỳ trên báo Sinh viên Y khoa Tình Thương
số 14 với mẫu bìa Nghiêu Đề, tháng 2 Xuân Ất Tỵ 1965
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Tôi biết Triều Sơn đã xét lại tất cả văn phạm
Việt Nam và có những ý nghĩ rất đặc sắc về văn phạm. Anh không lùi khi thấy những
điểm cần phải bổ khuyết cho nghề được tinh vi. Khi dùng một chữ không chắc chắn
về chính tả, Triều Sơn lại xem lại các tự điển, và tuy đã cẩn thận, nhưng vẫn
lo là bỏ sót nhiều chữ viết sai. Thích triết học như anh, mà phải nhịn không giở
một cuốn triết lý trong hằng tháng, để khỏi tiêm nhiễm cách viết trừu tượng của
các triết gia...
Triều Sơn sửa đi chữa lại Nuôi Sẹo năm sáu lần, vẫn chưa chịu cho
in. Tập đầu, lúc mới viết xong dài 900 trang, đúc lại còn 400 trang. Triều Sơn
vẫn chưa cho là đủ, "Còn dài quá, 300 trang thôi", anh nói. Các bạn
thì sợ rằng rút quá sẽ thành khô. Nhưng Triều Sơn chỉ hứa lần này chữa nữa là
"lần cuối cùng", rồi sẽ đưa cho tất cả các bạn xem lại và phê bình,
và rồi chữa theo những lời phê bình ấy thôi, trước khi in. Anh nói: "Xong
đây, tôi sẽ ghi lại những kinh nghiệm học nghề của tôi thành một quyển Tôi tập viết văn". Nhưng Nuôi Sẹo cũng chưa xong hẳn, công việc
còn dở dang thì bệnh nặng phát ra và anh phải bỏ dở mãi mãi.
Triều Sơn còn để lại một tập truyện dài bằng
thơ lục bát, vài truyện ngắn, mấy bài thơ, một cuốn triết học nhập môn viết nửa
chừng, và bản thảo của những thư từ bàn luận về triết học và xã hội học với mấy
giáo sư ở Collège de France và Sorbonne (Jean Wahl,
Gurwich). Nuôi Sẹo đã sửa gần xong tập
đầu, tập thứ hai còn là một đống bản thảo hỗn độn. Còn tất cả những hẹn hò
khác, anh mang đi, chôn sâu dưới mảnh đất của Ba Lê... [Hết trích dẫn, Tình
Thương Số 1, 1-1964] (4)
Hình 7: Truyện dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn. Một Nuôi Sẹo Phục
Sinh, do Trần Hoài Thư thực hiện.
Thư Quán Bản Thảo, Tạp chí VHNT Số 77 Tháng 11.2017. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Thư Quán Bản Thảo, Tạp chí VHNT Số 77 Tháng 11.2017. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Và để rồi, chẳng thể ngờ được hơn nửa thế kỷ
sau [1963-2018], tôi có dịp gặp lại Thầy Ninh, trao lại Thầy những trang sách của
truyện dài Nuôi Sẹo ngày nào, một Nuôi Sẹo Phục Sinh, tuy không toàn vẹn
nhưng với rất nhiều công lao của nhà văn Trần Hoài Thư và anh em Thư Quán Bản
Thảo. (5)
Và cũng trong dịp này, tôi được biết thêm Triều
Sơn có một người con trai còn sống ở Việt Nam. Cô Minh Chân con gái của anh ấy
gọi Triều Sơn Bùi Văn Sinh là "Ông Nội", thì hiện sống ở Nam
California, cách đây bốn năm có lần tìm tới thăm Thầy Ninh. Qua giới thiệu của
Thầy Ninh, tôi được nói chuyện với Minh Chân, được biết thêm tên bố cô là Nguyễn
Vân Sơn sinh ngày 7 tháng 10 năm 1951 [bố cô mang họ mẹ, là nữ sĩ Nguyễn Thị
Lan Phương, sinh năm 1921, nay cũng đã mất].
Rất mong rồi ra, khi liên lạc được với người
con trai của Triều Sơn, sẽ có một ấn bản đặc biệt truyện dài Nuôi Sẹo từ Thư Quán Bản Thảo gửi tới anh, như người thừa
kế phần gia tài tinh thần của thân phụ mà có lẽ chính anh cũng chưa được biết mặt
và chỉ được nghe Mẹ kể lại những năm về sau này. Triều Sơn Bùi Văn Sinh mất ở
Paris năm 1954, do bệnh xơ gan / cirrhosis, lúc đó Triều Sơn chỉ mới 34 tuổi.
VỚI BÁO BÁCH KHOA MỘT CHÂN DUNG VĂN HOÁ
Không chỉ qua báo SV Tình Thương, tôi gần gũi
với Gs Trần Ngọc Ninh hơn qua tờ Bách Khoa của anh Lê Ngộ Châu, địa chỉ 160
Phan Đình Phùng Sài Gòn. Đó là một chân dung Trần Ngọc Ninh khác, trong lãnh vực
văn hoá.
Được đọc những bài viết của Gs Trần Ngọc Ninh
trên báo Bách Khoa, tiếp cận với con người văn hoá rất đa dạng của Thầy Ninh
qua những bài viết với nhiều thể loại như: tôn giáo Đức Phật giữa chúng ta, Đức
Phật và sự Cải tạo Xã hội, nhân chủng học với Claude Lévi-Strauss, dân tộc học
qua những huyền thoại và huyền thoại lí học và cả về ngữ học, như bàn luận về
cơ cấu và ngôn ngữ, ông đã rất sớm giới thiệu Noam Chomsky với những phát kiến
về Ngữ học Cơ Cấu / Structural Linguistics, với lý thuyết về một Ngữ pháp Hoàn
vũ / Universal Grammar và để rồi ông không ngừng theo đuổi và tìm cách ứng dụng
để soạn bộ Ngữ Pháp Việt Nam sau này. (7)
Hình 8: tại nhà Võ Phiến 30.07.1994, từ phải:
Gs Trần Ngọc Ninh,
Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, anh chị Võ Phiến, vợ chồng
Lê Tất Điều.
[tư liệu Viễn Phố]
Hình 9: tại nhà Gs Trần Ngọc Ninh 1994, từ
trái: nhà văn Võ Phiến, Gs Trần Ngọc Ninh,
Gs Nguyễn Văn Trung từ Montréal Canada, Ngô Thế Vinh. [tư
liệu Ngô Thế Vinh]
Gs Trần Ngọc Ninh không chỉ là một giáo sư Y
khoa lỗi lạc, ông còn là một nhà văn hoá kiến thức rộng trải rộng trên nhiều
lãnh vực, một mẫu mực đào tạo trí thức theo quan niệm giáo dục cổ điển Âu châu.
Là giáo sư Y khoa, ông còn được mời đảm trách giảng dạy môn Văn minh Đại cương
và Văn Hoá Việt Nam cho Đại học Vạn Hạnh của Thích Minh Châu, và có bài viết
trên Tập san Tư Tưởng.
Hình 10: bìa tác phẩm Ước Vọng Duy Tân. Văn Hoá, Huyền Thoại, Văn Học Sử.
Tuyển tập Trần Ngọc Ninh; chủ biên Trần Uyên Thi; Viện Việt
Học, California Hoa Kỳ 2012
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Hình 11: thủ bút của GS Trần Ngọc Ninh gửi Ngô
Thế Vinh
khi ra mắt cuốn sách Ước Vọng Duy Tân 2012. [tư liệu Ngô
Thế Vinh]
MỘT TRÍ THỨC THUYỀN NHÂN
Biến cố 1975, một cuộc đổi đời lần thứ hai kể
từ sau ngày phân chia đất nước với Hiệp định Geneve 1954.
Sau 1975, vẫn các giáo sư gốc di cư từ miền Bắc
vào Nam còn ở lại như Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Hoàng Tiến Bảo, Gs Nguyễn Đình Cát... các Thầy nay tuổi đã cao, mỗi ngày phải
đi làm bằng xe đạp tới bệnh viện hay xa
hơn tới trường Y khoa trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Cũng vẫn các Thầy ngoài việc
chăm sóc bệnh nhân và giảng dạy cho sinh viên, từ nay còn phải làm thêm việc của
y công như lau quét các phòng vệ sinh và cả đổ rác. Không làm sao mà quên được
cảnh tượng một Gs Phạm Biểu Tâm phải lau chùi cầu tiêu bị té ngã bầm dập ở bệnh
viện Bình Dân, Thầy Tâm rất sợ Cô lo, nên dặn dò không báo tin cho Cô biết.
Như từ bao giờ, trong mọi hoàn cảnh các Thầy
vẫn luôn giữ được nhân cách cao trọng của người trí thức, không phát biểu những
lời xưng tụng chế độ mới. Các Thầy cũng không thể không não lòng khi hàng ngày
phải chứng kiến trình độ dốt nát của nền y tế nhân dân qua những buổi hội chẩn
hay giao ban cùng với các ông y sĩ cách mạng phần đông chưa qua hết bậc trung học
"chỉ có hồng mà không chuyên"
nhưng rất huênh hoang từ ngoài Bắc vào hay từ trong rừng ra.
Điển hình là trong một buổi sáng giao ban tại
bệnh viện Bình Dân sau 1975, bác sĩ Lê Quang Dũng một cựu nội trú bệnh viện lâu
năm kể lại, là khi anh Dũng báo cáo về một trường hợp mổ áp xe vú, thì bị một
bác sĩ quân quản Việt cộng vặn hỏi: "Tại sao anh lại cho mổ áp xe
vú?" Bs Dũng đáp: "Tại vì áp xe vú có mủ nên phải mổ dẫn lưu."
Dũng đã bị họ mắng: "Anh dốt quá, ở chiến khu tôi nhai lá sống đời xong rồi đắp lên vú thì 5
phút sau áp xe biến mất, không phải mổ gì cả." Các Giáo sư Phạm Biểu Tâm,
Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo cùng có mặt trong buổi giao ban, chỉ biết ngao
ngán lắc đầu. (3)
Phải sống trong nghịch cảnh và chứng kiến những
ngày ảm đạm như thế, Gs Trần Ngọc Ninh đã có lần phát biểu với các sinh viên giọng
chua chát và khinh mạn: "Hội chẩn với
mười con số không cộng lại thì vẫn là zéro."
Giáo sư Vũ Quí Đài vị khoa trưởng cuối cùng của
Y khoa Sài Gòn, còn nhớ là khi ban Quân quản Việt cộng đến tiếp thu trường Y
khoa, họ triệu tập một buổi họp gồm sinh viên và cả ban Giảng huấn nơi đại giảng
đường gọi là để trấn an nhưng với giọng điệu đầy huênh hoang và cả hăm doạ, Gs
Vũ Quí Đài kể: "Lúc ấy Gs Trần Ngọc
Ninh ghé tai tôi nói nhỏ một câu lẩy Kiều: Hàng thần lơ láo phận mình ra
đâu". (3)
Hãy nghe giáo sư Trần Ngọc Ninh tâm sự:
"Trên
bình diện khoa học, sau khi Bắc Việt đã chiến thắng được miền Nam rồi, cuộc đấu
tranh mới bắt đầu giữa Y khoa khoa học của miền Nam và Y khoa nhân dân của miền
Bắc. Trong cuộc đấu tranh này, nhân dân là nạn nhân, nhưng cũng là toà án, toà
án nhân dân. Giải thưởng là tương lai sức khoẻ của Việt Nam. Sức khoẻ cùng nghĩa
với sức lao động. Chủ nghĩa không che lấp được sự thật...
Hình 12:
bìa Một chút lịch sử Y khoa Đại học đường
Sài Gòn 1954-1975.
Trần Ngọc Ninh, Hội Y
Sĩ Việt Nam tại Canada xuất bản 2002.
(tr. 38-39, đề cập tới hai nền Y Khoa từ sau 1975: Y Khoa
Khoa Học của miền Nam &
Y Khoa Nhân Dân của miền Bắc). [tư liệu Ngô Thế
Vinh] (6)
Năm 1977, sau khi nghe được lệnh của các vị
lãnh đạo y học miền Bắc rằng từ nay không được dạy y lý nào "cao"
không thể áp dụng ở Việt Nam như biến hoá của nước và các chất điện giải hoặc
pháp dùng thuốc kháng sinh với những kháng sinh sau đời penicillin, hoặc những
phẫu thuật quá cầu kỳ khó khăn, tôi mạn phép nói ra ở đầu lớp bệnh lý phẫu khoa
của tôi: "Đây là lần cuối cùng và các anh chị em là những sinh viên cuối
cùng mà tôi giảng Y khoa khoa học. Từ sang năm tôi sẽ chỉ giảng Y khoa nhân
dân. Và anh chị em cố gắng mà theo. Đừng quên rằng mình là những người thừa tự
chót của Y khoa khoa học."
Sinh viên Nguyễn Chí Công [trước 1975 là sinh viên cộng sản nằm vùng,
bị bắt giam ở Chí Hoà, đã được chính Gs Ninh vào thăm can thiệp và được trả tự
do, năm 1976 Công trở lại trường Y phụ trách cai quản sinh viên], khi nghe
được những lời nói ấy, Công đã dự định lập "Toà án Nhân dân" để hạch
tội tôi. Không phải vì thế mà tôi rời Việt Nam".
Gs Ninh nhận định tiếp: "Do nhận thức được
toàn bộ chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là sự mạo danh xã hội chủ
nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam vào một kiếp đau khổ ngàn đời. Và điều tệ hại hơn
nữa là "Đảng và Nhà Nước muốn cưỡng
chiếm Y khoa khoa học để dành riêng cho cán bộ, còn Y khoa nhân dân là để cho
nhân dân." (6)
Và rồi rất sớm, chỉ 2 năm sau ngày 30 tháng
Tư, 1975 vào ngày 6 tháng 6 năm 1977, Gs Trần Ngọc Ninh đã cùng gia đình xuống
thuyền vượt biển tìm tự do, giữa lúc ông được chúc mừng là một trong số 4 người
được Hội Đồng Chính Phủ giữ lại ở chức vụ Giáo sư với lương bổng cao nhất.
Cuối cùng ông và gia đình tới được đảo Pulau
Besar Mã Lai, và ông chọn đi định cư tại Hoa Kỳ để phải bắt đầu lại từ đầu,
thay vì đi Pháp là nơi mà ông đã được đào tạo và thành danh.
Sự bỏ đất nước ra đi rất sớm của một khuôn mặt
trí thức lớn như ông lúc đó đã gây ra một chấn động nơi giới lãnh đạo Hà Nội và
trên toàn trí thức miền Nam thời bấy giờ.
DẬT SỰ BÌNH TRÀ NGUYỄN TUÂN
Tôi tới Mỹ sau Thầy Ninh hơn 6 năm, nhưng rồi
cả hai thầy trò sau một thời gian đèn sách trước sau cũng trở lại nghề cũ. Từ
New York, tôi về làm việc trong một bệnh viện VA ở vùng nam California, tuy bận
rộn nhưng thỉnh thoảng vào mấy ngày cuối tuần tôi vẫn có dịp được gặp Thầy.
Trong một buổi gặp ở nhà anh Võ Phiến, cây tuỳ
bút nổi tiếng của miền Nam từ trước 1975; lúc ấy anh Võ Phiến còn ở trên Los
Angeles; anh thú vị đem ra khoe chiếc bình trà của Nguyễn Tuân. Võ Phiến rất
quý Nguyễn Tuân. Đặng Tiến đã được Nguyễn Tuân tặng chiếc bình trà sau bao năm
quen dùng. Sau đó cũng Đặng Tiến tặng lại Võ Phiến trong một chuyến anh chị
sang Pháp năm 1987, cùng năm Nguyễn Tuân mất ở Hà Nội.
Chiếc bình trà nhỏ giản dị bằng sứ tráng men
xanh, nơi mặt đáy có in chữ Tonkin như vậy đã khá lâu năm, trông rất tầm thường
nhưng là của Nguyễn Tuân. Một Nguyễn Tuân với những trang tuỳ bút mượt mà của Vang Bóng Một Thời: của Chén trà trong sương sớm với nhân vật cụ
Ấm, có phong cách uống trà gần như một thứ trà
đạo.
Giữa hai chén trà nước đầu, cụ Ấm nói với người
con trưởng:
"Cả
ạ, thầy cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trên lá sen.
Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ một ấm. Hồi thầy còn ít
tuổi, mỗi lúc được quan Đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thuỷ ngân
ấy ở lá sen mặt đầm, thầy cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được
thầy học yêu như con...
Rồi cụ Ấm
liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi qua mất rồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết
lá." [hết
trích dẫn, Vang Bóng Một Thời]
Đó là văn phong Nguyễn Tuân thời tiền chiến,
của một thời vang bóng.
Để rồi tới kháng chiến, là một Nguyễn Tuân
hoá thân; rất biết sợ bạo quyền để tồn tại, mau chóng xu thời để được vào đảng,
rồi leo lên tới chức Tổng thư ký hội Văn nghệ Việt Nam. Chưa dừng ở đó, trong đợt
chỉnh huấn cải cách ruộng đất, Nguyễn Tuân còn hăng hái viết bài tự kiểm thảo "Nhìn rõ sai lầm" quyết tâm đoạn
tuyệt với quá khứ lãng mạn tiểu tư sản, dứt khoát chối bỏ đứa con tinh thần Vang Bóng Một Thời, đã làm nên tên tuổi
Nguyễn Tuân. Sau đó là một Nguyễn
Tuân đã biết vận dụng văn tài để hết lời ca ngợi thiên đường xã hội chủ nghĩa.
Nếu với Vang
Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân được ca ngợi như một bậc thầy của thể văn tuỳ
bút trong văn học Việt Nam, thì sau này với những bút ký hết lòng phục vụ Đảng
và chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Tuân cũng chỉ đáng được xếp là một cây bút tuyên huấn
hạng hai. Nguyễn Tuân còn được nhớ và nhắc tới với câu nói: "Tôi còn sống được đến hôm nay là nhờ
biết sợ..."
Người bạn tấm cám Nghiêu Đề kể lại, sau 1975
khi Nguyễn Tuân vào Sài Gòn, tới Hội Văn Nghệ Thành Phố, khi thấy Vang Bóng Một Thời được Nxb Cảo Thơm
1962 in tuyệt đẹp với những tranh minh hoạ của Nghiêu Đề, thì đó là một Nguyễn
Tuân hả hê về cuộc hội ngộ với đứa con tinh thần mà ông ta đã hơn một lần dứt
khoát chối từ.
Bình trà nhỏ mà Gs Trần Ngọc Ninh đang cầm
trên tay ngắm nghía kia, không phải của cụ Ấm với Chén trà trong sương sớm, mà là của một Nguyễn Tuân theo kháng chiến,
mỗi ngày đã rót ra những chén đắng trong suốt hành trình bi kịch của hơn nửa đời
người.
Hình 13: thăm nhà văn Võ Phiến trên Los
Angeles, từ trái, Gs Trần Ngọc Ninh,
nhà văn Võ Phiến, Ngô Thế Vinh; phải: Trần Ngọc Ninh cầm
trên tay ấm trà nhỏ
của Nguyễn Tuân mà Võ Phiến đem khoe. [photo by Viễn Phố]
Hình 14: Làm
Gì ? một cuốn sách viết về chính trị (1979) mà Gs Trần Ngọc Ninh,
không muốn được nhắc tới. Là một giáo y khoa với tiếng
tăm quốc tế
nhưng khi tới Mỹ như một bác sĩ ngoại quốc, ông vẫn phải
khởi nghiệp từ đầu.
Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn có hùng tâm hoàn tất một
tập luận đề chính trị trên 300 trang,
với ghi chú nơi cuối sách: "Viết xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979
tại Trường Sơn của Mỹ
Châu" (Rocky Mountains
Ranges Denver, Colorado).
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Năm 2004, khi bản tiếng Anh The Green Belt của cuốn Vòng Đai Xanh do
Nxb Ivy House xuất bản, Gs Trần Ngọc Ninh đã viết:
"Ngô
Thế Vinh bắt đầu viết văn khi đang còn là một sinh viên. Từ 1963, cùng với các
bạn trong đại học Y khoa làm báo Tình Thương như một diễn đàn cho những ý tưởng
nhân bản, hướng tới một xã hội lý tưởng và không mang nặng tính “chủ nghĩa”.
Ngay khi còn là một nhà báo sinh viên, từ rất sớm, Ngô Thế Vinh đã quan tâm tới
vấn đề người Thượng.
Sau khi
tốt nghiệp Y khoa, là bác sĩ Mũ Xanh của một đơn vị Biệt Cách Dù chủ yếu hoạt động
trong vùng núi rừng Cao nguyên Trung phần. Vòng Đai Xanh là bối cảnh về cuộc
chiến tranh Việt Nam trên vùng cao nguyên với cảnh thật, người thật, và “thật
hơn nữa” là nỗi thống khổ của các sắc dân Thượng giữa cuộc chiến tranh và ngay
sau cuộc chiến. Và chúng ta không thể nào quên là hòa bình bi thảm ra sao đối với
phe bại trận tiếp theo sau một cuộc chiến tranh ý thức hệ. Vòng Đai Xanh là một
công trình của lương tâm và dấn thân can đảm. Ngay khi xuất bản lần đầu tiên,
cuốn sách đã được giới trí thức miền Nam đón nhận rộng rãi và tán thưởng nhưng
đồng thời cũng bị chính quyền miền Nam lên án là phá hoại.
Bây giờ
đã 30 năm sau cuộc chiến tranh chấm dứt, một ấn bản tiếng Anh rất tuyệt của Nha
Trang và Pensinger chắc chắn sẽ lại được đón nhận rộng rãi, bởi vì vấn đề sống
còn của các sắc dân Thượng trên Cao nguyên Trung phần được đề cập tới trong
Vòng Đai Xanh vẫn còn nguyên tính thời sự của hôm nay.
Đối với
người Việt, thì thảm kịch của thời đại chúng ta là mọi cuộc chiến tranh hôm nay
và cả trong tương lai đều mang mầm mống hủy hoại mà Vòng Đai Xanh như một điển
hình đa diện và ở nhiều mức độ khác nhau. Những sắc dân Thượng ấy đã không có
tiếng nói. Đến bao giờ thì “tiếng nói thầm lặng” của họ mới thực sự được lắng
nghe? Trần Ngọc Ninh, Viện Việt Học, tác giả
Tuyết Xưa
Hình 15: bìa The Green Belt, bản tiếng Anh cuốn
Vòng Đai Xanh
do Ivy House, USA xuất bản 2004. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
do Ivy House, USA xuất bản 2004. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Sau này, khi có một tác phẩm mới sắp ra mắt,
tôi đều có gửi biếu Thầy Ninh và xin một nhận xét, Thầy đã thẳng thắn từ chối với
một câu trả lời: "Vinh bây giờ đã
thành danh và không cần thêm lời giới thiệu của tôi nữa." Tôi lãnh hội
ý Thầy với tất cả sự khiêm cung và biết ơn.
MỘT ĐỊNH MỆNH SINH HỌC
Khác với thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, dấn
thân vào chính trị và cả đảng phái, nay sắp bước vào tuổi bách niên, tôi ngỏ ý
viết về Gs Trần Ngọc Ninh và có cảm tưởng với Thầy Ninh, chính trị nay như một
giai đoạn đã vượt qua và Thầy chỉ muốn được nhắc tới như một "chân dung văn hoá".
Nói về văn hoá, Gs Trần Ngọc Ninh đã chọn một
trích đoạn trong Tuyết Xưa [tr.100]: "Đối
với các cộng đồng người, văn hoá vừa là một dấu hiệu để nhận nhau và phân biệt
'kẻ-kia' vừa là một dụng cụ để giảng giải và hướng dẫn sự sống của đoàn thể
trong cái phong cảnh thiên nhiên mà họ đã làm chủ..." (2)
Viết về Gs Trần Ngọc Ninh chắc phải cần tới
hơn một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước,
đang chuẩn bị luận án tiến sĩ, thì chân dung văn hoá của Gs Trần Ngọc Ninh là một
đề tài rất phong phú và hấp dẫn để các bạn khám phá dấn thân vào.
Như một tâm sự cuối đời, khi trả lời Trần
Uyên Thi, một môn sinh rất trẻ sau này ở Viện Việt Học, Gs Trần Ngọc Ninh phát
biểu:
"Đến
nay tuổi đã lớn rồi [89 tuổi, ở thời điểm 2012], lại càng thấy rằng sự hiểu biết,
sự biết, và cả sự thấy của mình chỉ ở bề mặt nông cạn của các hiện tượng (trong
đó có lịch sử, khoa học), và đó là cái thân phận sinh học của con người trên mặt
đất này." (1)
NGÔ THẾ VINH
Hà Nội
1954 - Sài Gòn 1975
California 11.07.2018
Tham Khảo:
1/ Ước
Vọng Duy Tân / A Dream for Vietnam. Tuyển Tập Trần Ngọc Ninh. [chủ biên Trần
Uyên Thi]; Viện Việt Học xuấn bản 2012
2/ Tuyết
Xưa; Tuyển tập các Vấn đề Văn hoá Việt Nam, Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ
2000
3/ Giáo
sư Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Biểu tượng của Y đạo Y học Y thuật. Tập San Y Sĩ
Canada 201, tháng 05.2014
4/ Mười
lăm năm ấy, Kỷ niệm về Triều Sơn [Trần Ngọc Ninh, với bút hiệu Trần Ngọc], Nguyệt
san Tình Thương, số 1, Tháng 1, 1964
5/ Nhà
Văn Triều Sơn (1921-1954). Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, Số 77 Tháng
11.2017
6/ Một
Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Trần Ngọc Ninh, et al. Hội Y Sĩ Việt Nam tại
Canada 2002
7/ Tạp chí Bách Khoa: Thư Viện Người Việt
Online https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/thuvien-NV.php
No comments:
Post a Comment