Đặng
Mai Lan
Năm
mươi năm trước, tôi hai mươi tuổi.
Cho
đến bây giờ tôi vẫn là cô gái đôi mươi.
Tôi
chỉ nhận ra mình đã già khi nhìn thấy một tấm hình, đọc một câu nói của ai đó từ
một bản tin được chia sẻ trên mạng xã hội. Ví dụ như chuyện một bà lão bảy mươi
đi lạc, hay cụ bà tuổi sáu mươi vẫn tần tảo mỗi ngày bán buôn, nuôi đứa cháu nhỏ
mồ côi cha mẹ… Tôi đã thảng thốt kêu thầm rằng mình đã lên hàng "cụ"
rồi sao? Trong vòng giao tiếp, cái chức cao nhất tôi thường được gọi là
"bác". Đám con cháu ruột thịt của tôi gọi tôi bằng "bà".
Cũng có những đứa trẻ khác gọi tôi là "bà trẻ" theo ý muốn của cha mẹ
chúng, với lời giải thích như một cách trau giồi thêm tiếng Việt cho đám trẻ
con.
Dù đã lớn tuổi nhưng tôi vẫn còn đi
làm vì đam mê công việc. Còn bận tâm trau chuốt manh quần tấm áo mỗi khi bước
ra đường và dường như luôn có sự tự tin, dù niềm tin này có thể chỉ là những ảo
tưởng.
Trong một buổi trà dư tửu hậu, một
người bạn đã nói với tôi: khi nghe bọn trẻ trò chuyện anh mới hay rằng mình đã
là một ông cụ, nhưng sao lúc nào anh cũng cảm thấy như mình vẫn còn trẻ lắm.
Tôi nghĩ, không chỉ hai chúng tôi có những suy tư này. Còn biết bao người, nói
hoặc không nói ra những gì họ nghĩ.
Anh bạn tôi luôn thấy mình của ngày
nào vai đeo ba lô đi qua những ruộng làng xơ xác. Thấy mình tay ghì súng, lăn lộn
giữa rừng sâu, giữa bom đạn ngút trời. Anh chỉ bày tỏ một hai câu ngắn ngủi,
nhưng tôi biết trong anh còn vô số những hình ảnh khác. Chuyện đời lính gian
truân trĩu nặng một nỗi buồn thất trận, là sự đau đớn không thể nguôi quên.
Nhưng tôi tin anh vẫn còn thấy lại mình những ngày vui thời ấu thơ, thời thư
sinh đèn sách, hay hoa niên tươi đẹp với những hẹn hò. Dù ở đâu, tuổi trẻ vẫn
có những ngày mộng mơ phố thị, những quán xá tưng bừng, náo nhiệt niềm vui.
Tuổi tôi mười lăm-mười sáu, cô học
trò ngày hai buổi đi về trong con ngõ. Ngõ vui vì luôn có những tiếng hát vẳng
ra từ một chiếc máy thu băng của một căn nhà cửa mở.
Mười bảy-mười tám, đã biết điệu đàng
với hai tà áo. Áo tơ tằm mềm như mây trắng đã cùng tôi, cùng bạn lượn lờ rong
chơi qua những con đường. Đường xanh, cây cao bóng tỏa. Đường nhộn nhịp những
cao ốc, phố lầu. Những cánh áo như bướm bay trên từng góc phố nắng trưa. Áo ủ
rũ nép mình dưới một mái hiên Sài Gòn vì những cơn mưa bất chợt. Những màu áo
xưa ngày ấy không chỉ là những màu sắc được ca tụng trong thi ca. Tôi còn có áo
hoa, vằn vện những hình thù lạ lẫm. Những mẫu mã hoa hòe được vẽ theo thời
trang của một phong trào lập dị, phản chiến đến từ Hoa Kỳ, ào ạt như sóng trên
dòng thác tuổi trẻ Việt-Nam.
- Tôi có chiếc áo nào màu đỏ không?
- Không!
- Có!
Đó là câu hỏi bật lên trong đầu tôi
vào một sớm mai. Nó đến từ một giấc mơ nhưng không xa sự thật. Không chỉ là một
tà áo đỏ mà còn có bóng dáng một người Mỹ mang tên Smith.
Một câu chuyện rất cũ, rất xưa đã bị
chìm sâu trong tận cùng ký ức. Phải chăng, những gì đang được lập lại trên mạng
xã hội, những bài viết mổ xẻ về cuộc chiến tranh, sự sụp đổ của miền Nam Việt-Nam,
sự bỏ rơi đồng minh của Hoa Kỳ mà tôi đọc gần đây đã khiến tôi mơ thấy ông?
Tôi biết hai người Mỹ có cùng tên
Smith. Ông Smith, giáo sư dạy đàm thoại ở trường sinh ngữ Nguyễn Ngọc Linh, nơi
tôi theo học từ năm lên đệ Tứ. Thỉnh thoảng tôi nhắc đến ông khi kể với ai đó về
lớp học này. Nhưng người tôi mơ đêm qua là ông Smith, một viên chức dân sự. Mơ
thấy ông thì phải có hình ảnh cô bạn học chung lớp đệ Nhị là Trương Thiên Thu,
vì Smith là bố nuôi của Thiên Thu. Vì sao Thu lại có một ông bố nuôi người Mỹ
tôi cũng không rõ. Ông anh họ của nó là một vị Bộ trưởng, một tên tuổi khoa bảng
được đào tạo từ Hoa Kỳ. Có thể con nhỏ đã từng được dự một buổi tiệc nào đó của
ông anh và đã gặp Smith.
…
Đường Pasteur, khu yên tĩnh, nơi cư
ngụ của đa số những người ngoại quốc đến Việt-Nam làm việc.
Ánh sáng từ những chùm đèn qua bóng
cây tỏa sáng. Thứ ánh sáng nhấp nháy như nụ cười đêm bàng bạc trên màu áo đỏ của
tôi. Chúng tôi dựng xe dưới một tàn cây rậm lá sau khi nhờ người gác cửa chung
cư vào gọi ông Smith.
Thiên Thu nghiêng đầu ngắm tôi:
- Áo mới hả? Đẹp đấy. Mày thích màu
đỏ sao?
Tôi nghĩ đến những phong pháo đỏ
treo trên những cửa nhà trong xóm tôi. Đúng giờ giao thừa, những dây pháo được
đốt cháy bung ra những tia lửa sáng ngời, lăn tăn tí tách cùng tiếng nổ giòn
giã vui tai. Mùi thuốc pháo thơm lừng, từng lớp giấy tan tác rơi vãi khắp cùng
con ngõ.
Tôi cười:
- Ừ, Tết thì phải đỏ!
Khác với tôi, áo màu đậm, nhạt, thay
đổi từng ngày. Thiên Thu quanh năm áo trắng. Không phải là những sợi tơ mềm
bóng, mà bằng một thứ vải được gọi là téteron, đủ dày để che giấu những đường
cong con gái. Tôi đi giầy gót cao kiểu này, kiểu nọ. Thiên Thu guốc mộc bốn
mùa, tóc ngắn vừa đủ túm lại bằng một sợi thun. Tôi điệu hơn Thiên Thu, thì giờ
để điệu đàng với quần áo của tôi nhiều hơn bạn. Và dĩ nhiên tôi học dở hơn bạn.
Thiên Thu đang nuôi mộng lấy được một học bổng du học Hoa Kỳ. Tôi tin nó có đủ
khả năng thực hiện điều này. Và tối nay nó đã rủ tôi đến chúc Tết ông Smith.
Tết của ông Smith qua lâu rồi. Ông ấy
can dự gì đến Tết ta của mình mà chúc? Nghĩ như thế, nhưng tôi hiểu những lần
Thiên Thu rủ tôi đi gặp ông Smith chỉ để học đàm thoại Anh ngữ. Và như bao lần,
lớp học được mở ra dưới những bóng cây, trước sân cao ốc.
Bóng ông Smith hiện trên thềm cửa
tòa nhà. Tôi và Thiên Thu tiến tới chào ông. Tôi lại được dịp đứng thẳng người
khoe tà áo mới.
Chúng tôi nói với ông những câu xã
giao quen thuộc, nhàm chán. Nhưng những nụ cười của hai đứa tôi lúc nào cũng rạng
rỡ tươi vui.
- Ông khỏe không? Hôm nay là ngày thứ
ba trong năm của chúng tôi. Theo phong tục, ông phải lì xì hai đứa…
Tôi cười ngặt nghẽo vì câu nói của Thiên Thu:
"you lì xì me".
Chúng tôi không còn liên lạc kể từ
cuối niên học ấy. Thiên Thu được du học Hoa Kỳ như mơ ước. Trước khi đi, nó
mang cuốn lưu bút giấy lụa màu ngà. Những trang giấy mỏng ẩn bóng những bông
hoa nhạt, lại còn thêm những khung hình để dán hình vào. Khung vuông, tròn, và
cả hình tim. Tôi không nhớ mình đã dán hình mình vào đâu trong những khung hình
đó?
Cuốn "lưu bút" ngày xanh ấy
giờ nơi đâu? Và cả cái áo đỏ của tôi nữa. Nó được rao bán ở chợ trời hay như những
chiếc áo dài không còn hợp thời, đã được cắt may thành áo ngắn mặc ở nhà sau
ngày tang thương ấy? Bao nhiêu màu áo chờn vờn trong ký ức, sao lâu rồi chiếc
áo đỏ và tuổi mười bảy trong sáng, ngây thơ mới chịu quay về?
Hai mươi tuổi, có những ngày không
thể ra đường. Đêm đêm dù muốn dù không vẫn phải nghe tin tức của đài BBC Luân
Đôn, đài VOA tiếng nói Hoa Kỳ phát ra từ chiếc radio Zenith của anh tôi. Tôi nhớ
như in tiếng nói của người xướng ngôn viên khi mở đầu chương trình cũng như chấm
dứt bản tin.
Hai mươi tuổi, đêm giới nghiêm, nằm
nghe âm thanh hỏa tiễn vun vút xa gần. Sáng thức dậy bàng hoàng khi biết tin
đêm qua, ngôi nhà trong một khu xóm bên kia đường bị trúng đạn pháo kích cướp
đi mạng sống của người gia chủ, là một người quen của gia đình tôi. Nhớ ánh mắt,
bàn tay gầy yếu run rẩy của người góa phụ khi tôi theo mẹ đến nhà chị chia buồn.
Hai mươi tuổi, đứng bên hè phố, ứa
nước mắt khi nhìn những chiếc xe tăng cồng kềnh nghiền nát lòng đường. Nhìn những
nòng súng lạnh căm, nghĩ đến một người đã mất hút trong cuộc chiến rồi ngậm
ngùi: Bao sự hy sinh, xương máu của những người lính miền Nam là thế sao?
…
Năm
mươi năm rồi! Tất cả đã xưa, khoảng đời ấy đã tít tắp biển dâu. Nhưng xưa mà
nào đã xa, đã cũ.
Có lúc tôi tự hỏi, nếu trở về sống ở
quê nhà, tôi có thao thiết nhớ về nơi chốn này, nơi tôi đã sống hơn nửa đời dài
gấp đôi khoảng thời gian sống trên quê hương cũ? Tôi có nhớ những thu đông
sương tuyết, như nhớ nắng thương mưa của Sài Gòn?
Những người chết trẻ còn mãi tuổi
thanh xuân. Bởi vì thời gian đã ngừng lại trên bia mộ.
Ký ức vui-buồn, đớn đau hay hạnh
phúc cũng là một nấm mồ tâm tưởng. Những nấm mộ không ghi dấu thời gian. Thời
gian trong mỗi hồn người và tôi vẫn thấy mình còn mãi tuổi xuân, một cô gái đôi
mươi trên những con phố Sài Gòn ngày ấy.
ĐẶNG
MAI LAN
(tháng
4/2025)
Mai Lan by Đức Tùng


No comments:
Post a Comment