Đỗ
Hồng Ngọc
Nhà văn Võ Hồng
Võ
Hồng là nhà văn nổi tiếng từ trước 1975. Truyện ngắn đầu tay của ông 'Mùa gặt' đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy vào năm 1939 với bút danh Ngân Sơn. Đến năm 1959,
ông gia nhập làng văn với tập truyện ngắn 'Hoài cố nhân'.
Là
nhà văn đồng thời có nhiều năm gắn bó với sự nghiệp dạy học. Võ Hồng viết văn
thận trọng, biểu cảm chừng mực... Văn của ông chứa đựng sự gắn bó yêu thương con
người, yêu thương quê hương, dân tộc một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút Võ Hồng,
hình ảnh quê hương, con người Việt Nam được ghi lại như những bức tranh sinh
động, trung thực và đầy rung cảm. Nhiều tác phẩm của Võ Hồng đã được trích
giảng trong sách giáo khoa văn học cho chương trình trung học trước năm 1975.
Sau năm 1975, văn nghiệp của ông là đề tài cho nhiều luận án tiến sĩ, thạc sĩ
văn chương.
Ông
được đánh giá là một trong những nhà văn lớn của Việt Nam. Gần đây tạp chí Quán
Văn đã dành số 86 để tưởng niệm Võ Hồng, trong đó nhà văn/ bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
đã đóng góp một bài đặc sắc. Mời bạn bè theo dõi. PV
Tôi quen biết anh nhiều năm trước ở Nha
Trang. Tính về vai vế tôi phải gọi anh bằng… “ông”, vì dì tôi là bạn của con
gái lớn anh. Nhưng anh vốn xuề xòa, dễ tính, bảo gọi bằng anh thôi. Còn anh
luôn toa, moa với tôi một cách thân mật. Năm nọ có dịp về Nha Trang, tôi ghé thăm
anh. Tìm nhà hơi khó vì đường sá đã mở rộng, nhà cửa thay đổi nhiều. Tôi đang
loay hoay tìm cây khế, cây trứng cá “làm dấu” trước nhà thì một bà già đi ngang
qua thấy, hỏi tìm ai, “Dạ tìm ông nhà văn Võ Hồng”, bà đáp: “Văn võ nào đâu tôi
chả biết, chỉ biết có ông già sống một mình ở ngôi nhà kia thôi!”. Tôi kể lại
anh nghe, anh cười ha hả, có vẻ… chịu bà già lắm vì nhà văn Võ Hồng thì không
biết mà lại biết anh sống một mình! Mà thiệt vậy! Vợ anh mất sớm lúc anh hãy
còn rất trẻ. Anh vẫn ở vậy, không tục huyền, dù không ít cô thầm thương trộm
nhớ ông thầy giáo, ông nhà văn nho nhã, dễ mến. Anh vẫn gà trống nuôi con. Tất
cả đều thành đạt, đều đang sinh sống ở nước ngoài, chỉ còn ông… gà trống ngày
một lớn tuổi loay hoay một mình với những người hàng xóm, với cây trứng cá, cây
khế và mấy gốc dừa.
Anh nuôi một con chó con làm bạn. Lần tôi
đến thăm, anh lững thững ra mở cổng, con chó ùa ra sủa ầm lên. Tôi hơi hoảng,
hỏi: chó có dữ không anh? Anh trả lời tỉnh queo: nó còn hiền hơn moa! Rồi anh
dẫn tôi lên gác. Căn gác nhỏ với một phòng chừng hai chục mét vuông, vừa là chỗ
ăn ngủ, làm việc, tiếp khách… lổn ngổn những sách vở, thư từ, bản thảo… Nhờ cái
sân thượng phía trước có bóng râm cây khế, cây dừa mà anh còn có chỗ để mà trầm
tư, mà hoài cố nhân (*)… Anh khoe với tôi cái chậu nhỏ trong đó có một cây gai
bàn chải to bằng bàn tay. Anh nói miền quê anh đi đâu cũng gặp cây gai bàn chải
mọc dọc hai bên đường. Anh nhớ nó quá nên tìm một gốc về trồng. Anh giấu nó ở
một góc sân thượng, sợ người ta trông thấy cho là lập dị! Có lần Đài truyền
hình Trung ương làm một bộ phim ngắn về “Thầy Võ Hồng”. Anh rất cảm động khi
được về thăm lại trường Bồ Đề cũ, chùa Hải Đức, nhà thờ Chánh tòa Nha Trang…
nhưng anh vẫn thấy ngường ngượng khi phải… đóng phim. Rồi cô Thu Trang dạy Cao
đẳng Sư phạm ở Tuy Hòa, quê hương anh, đã làm một luận văn thạc sĩ ngữ văn về
sự nghiệp văn học của anh: “Võ Hồng, nhà văn và tác phẩm” do giáo sư Hoàng Như
Mai hướng dẫn, mà người phản biện là TS Huỳnh Như Phương ghi nhận xét: mong sớm
được thấy in thành sách để giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà văn Võ Hồng.
Nhắc đến mình, anh như luôn có vẻ ngượng.
Mấy năm trước, trong thư gửi tôi, kèm tập thơ mới in của anh, anh viết: “Đọc
lại văn mình moa thấy: nếu là văn xuôi thì Ngộ, còn thơ thì Ngượng. Cái gì mà yêu
thương, nhớ nhung, đợi chờ… mắc cỡ thấy mồ!”. Tôi hiểu anh, bởi vì văn thì còn
đổ thừa tại hư cấu, tại tâm lý nhân vật nọ kia, chứ thơ thì hết phương chối
cãi! Nhưng theo tôi, văn Võ Hồng đã là một thứ thơ, một thứ thơ xuôi, nhàn nhã,
đằm thắm, chân thật… làm xúc động lòng người! Hỏi anh lúc này có khỏe không,
anh nói khỏe gì nổi, bệnh rề rề. Nhiều tuổi rồi, con ở xa, bệnh cũng làm biếng
đi bệnh viện nữa. Phải nhờ người quen đưa đi khám hoài ngại quá! Vậy mà hôm
nghe tôi bệnh nặng, phải đi mổ cấp cứu, anh viết thư: “Mười hai giờ khuya, moa
ra sân thượng, quỳ hướng về sao Bắc đẩu hết lòng cầu nguyện cho toa tai qua nạn
khỏi…”.
Trở lại chuyện thăm anh ở Nha Trang lần
này, lúc anh vừa… lên tuổi 80, tôi thật bất ngờ thấy anh không còn “cô đơn”
nữa. Trong phòng anh treo một tấm ảnh chân dung khá lớn của cô đào hát bóng
xinh đẹp Lý Linh, người đóng vai Tống Khánh Linh trong phim nhiều tập chiếu
trên truyền hình! Thì ra “ông lão” mê cô tài tử này không biết tự bao giờ! Thấy
tôi bỡ ngỡ, anh cười: “Đứa cháu mình ở ngoài quê coi phim rồi nói với mình:
“Cậu ơi, sao mà cô đào đóng phim này giống hệt mợ… Mình giật mình, “kiểm chứng”
lại quả là có nhiều nét giống y hệt vợ mình hồi đó, nên mình treo ảnh này lên
đây”. Anh lại có vẻ ngượng. Nhớ anh đã vừa tám mươi, tôi thử “bói” cho anh một
quẻ bằng cách mở ngẫu nhiên một trang trong cuốn Trầm tư của anh mà tôi gọi là
“bói Võ Hồng”, tình cờ trúng câu 259, câu trao đổi của anh với một “cô nào đó”,
chắc là Lý Linh: – Em như đóa hồng dành cho vương tôn quyền quý, còn anh… – Câu
đó phải do em nói. Tâm hồn anh đẹp và mảnh như hoa. Nên khó nuôi dưỡng, khó
chăm sóc. Em đành phụ bạc anh… Vậy là anh chàng “Tú Uyên” Võ Hồng với “tâm hồn
đẹp và mảnh như hoa” đó vẫn chờ đợi nàng Giáng Kiều từ trong tranh một hôm nào
đó lại bước ra…
Võ Hồng là một nhà thơ. Dù ông viết truyện
ngắn, truyện dài gì thì với tôi cũng đều là thơ. Thơ xuôi. Đọc ông thấy lòng
lành ra. Tuy nhiên ông cũng đã in hẳn một tập Thơ cho riêng mình. Chân tình và
mộc mạc. Đằm thắm những yêu thương.
Năm giờ sáng mở mắt
Nhìn quanh: chỉ ghế bàn
Thèm thấy một khuôn mặt
Thèm nghe tiếng dịu
dàng
Mười giờ đêm thâm u
Bóng tối như cõi chết
Tình yêu, tìm nơi đâu
Hạnh phúc, chào vĩnh
biệt
(Quạnh
hiu)
Quạnh hiu. Hoang vắng. Cô đơn. Không muốn
“độc cư” mà thành độc cư. Với một tâm hồn vô cùng nhạy cảm, ông héo hắt dần với
tháng năm. An ủi của ông trong tuổi già là những người con đều thành đạt, hiếu
thảo, nhưng vì hoàn cảnh riêng mà phải sống xa nhau kẻ chân trời người góc
biển.
Nay các con nên người
Mỗi đứa đi một ngả
Mình cha căn nhà xưa
Trông vừa quen vừa lạ
Không còn ngày gian khổ
Chỉ dư ngày tiêu điều
Vắng con như cây cỏ
Héo úa giữa quạnh hiu
(Ba
mươi năm sau)
Vẫn căn gác nhỏ đó vừa là chỗ ăn chỗ ngủ,
chỗ làm việc, tiếp khách… lổn nhổn những sách vở, thư từ, bản thảo… tràn lan
trên bàn, trên nệm, dưới gầm… Có lần tôi bấm cho ông mấy tấm ảnh kỷ niệm, có
cảnh ông ngồi trên chiếc ghế “cô đơn uy nghi” đặt ở sân thượng, dưới tàng cây
trứng cá. Lúc đó, ông mới 74 tuổi, còn hoạt bát lắm, đòi khoác áo đàng hoàng rồi
mới chịu cho chụp hình. Ông kể hôm họp mặt mừng tuổi 70 của ông, ai cũng nhắc
câu “Thất thập cổ lai hy”, nên khi đáp từ, ông sờ tay vào cổ, nói “Thất thập cổ
lai hy” nè, rồi lần tay xuống ngực “Lục thập ngực lai hy” nè, “Ngũ thập bụng
lai hy” nè, rồi “Tứ thập…”, mọi người la hoảng!
Khi tôi gởi ông bản thảo Già ơi… Chào bạn! để nhờ ông đọc, ông
cười: Sau “Già ơi chào bạn” toa sẽ viết tiếp cái gì nữa đây? Ông là vậy. Lúc
nào cũng hóm hỉnh, sâu sắc mà sảng khoái trừ những lúc một mình trong nỗi “cô
đơn uy nghi” nhớ đến người thân. Mấy năm gần đây, tình trạng sức khỏe ông yếu
dần, nằm liệt giường, được chuyển xuống tầng trệt cho tiện chăm sóc. Cô con gái
lớn Diệu Hằng vẫn thỉnh thoảng từ Pháp về thăm cha. Rồi cô lại đi, bận bịu bao
điều, nhưng vẫn quán xuyến lo toan. Người con trai thứ ở Đức đã dựng riêng cho
cha một trang web, tập hợp toàn bộ các tác phẩm của cha, với nhiều tài liệu
quý.
Năm 2011, có dịp về Nha Trang, tôi lại ghé
thăm ông, bấy giờ ông đã 91 tuổi, đã dần dần khó tiếp xúc… Cô Đạm, người học
trò cũ quý thương ông vẫn là người hằng ngày trực tiếp đến chăm sóc ông cùng
với một người giúp việc. Ông tuy nằm liệt giường đã lâu vậy mà trông vẫn thanh
mảnh, sạch sẽ lắm. Tôi cảm động nói với cô Đạm, thay mặt những bạn bè thân quen
gần xa của nhà văn Võ Hồng, trân trọng cảm ơn cô.
Ông
đã sẵn một bài thơ gọi là Di ngôn
viết về nỗi “cô đơn uy nghi” của mình:
Di Ngôn
Sau khi tôi chết Xin
giữ y nguyên giùm mọi dấu vết
Của những ngày u buồn
trĩu nặng hồn tôi
Đây: cây bút màu đen
sớm tối không rời
Đây: cuốn vở cất đầy
những mảnh lòng hiu hắt
Kia chồng sách không
bao giờ ngăn nắp
Này: góc vườn, hoa rụng
trải lối đi
Trên khung rào thưa, lá
khẽ thầm thì
Nơi sân thượng xin để
nguyên chiếc ghế
Kê sát lan can, hướng
xuống mặt đường
Nơi những đêm dài, trong
tối đầy sương
Tôi ngồi lặng, mắt
chong chờ đợi
Đợi một người đi không
hẹn trở lại
Hun hút đường dài… vun
vút xe qua
Những dáng ngược xuôi…
những cặp hẹn hò
Bầy chó lang thang…
hàng cây đứng lặng
Chia sẻ nỗi niềm: từng
ngôi sao xa
Người đi không về. Giờ
đang nơi đâu?
Cực lạc non Bồng hay
cõi Diêm phù
Đêm trắng trải dài… Mỏi
mòn đêm trắng
Canh hai… canh ba… từng
canh qua mau
Cho đến một ngày kia…
tôi sẽ nhẹ nhàng giã từ
Hạnh phúc yêu thương…
Băng giá mây mù…
Nhưng trên sân, chiếc
ghế cô đơn uy nghi còn đó
Tiếp tục ngồi chờ, lặng
lẽ chờ cho mãi đến thiên thu.
Võ
Hồng (2013)
Nhớ
Võ Hồng, vừa thương vừa cảm, vừa xót vừa xa. Thấy trôi đi một kiếp nhân sinh
phù thế: Ngũ uẩn phù vân không khứ lai/ Tam độc thủy bào hư xuất một… (Chứng
đạo ca). Mà mừng ông nay đã vào cõi “tịch diệt vi lạc”!
ĐỖ
HỒNG NGỌC
(Quán Văn 86, tháng
04.2022 Chân dung Văn Học: Nhà văn Võ Hồng)
No comments:
Post a Comment