Văn Học Press
22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978
email: vanhocpress@gmail.com • Facebook: Van Hoc Press
Trân trọng giới thiệu:
ĐI. TRONG
MỘT
BUỔI SÁNG
Tập truyện
T R Ầ N D O Ã N N H O
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021
Bạt:
Đặng Thơ Thơ
Tranh & thiết kế
bìa:
Đinh Trường Chinh
@@@
Sách đã có bán trên
BARNES & NOBLE:
Giá: US$18.00
Xin bấm vào đường dẫn
sau:
Di. Trong mot buoi sang
by Tran Doan Nho, Paperback | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)
Keyword: tran doan nho,
di trong mot buoi sang
THẾ GIỚI TRUYỆN NGẮN TRẦN DOÃN
NHO:
CON NGƯỜI LÀ ẨN SỐ CỦA
CHÍNH MÌNH
Đặng Thơ Thơ
Đọc
những truyện ngắn Trần Doãn Nho viết từ trước 1975 đến thời gian gần đây, có thể
thấy
anh
sáng tác trong ý thức sâu sắc về thể loại và nghệ thuật viết truyện ngắn. Truyện
của anh
luôn
có sự đầu tư công phu về ý tưởng, hình ảnh, ẩn dụ, chủ đề… lồng trong cấu trúc
chặt
chẽ
của tổng thể, trong đó các yêu cầu về miêu tả, tường thuật, đối thoại, diễn tiến,
tư tưởng
giữ
một tỷ lệ hài hoà và hữu hiệu.
Trong
tập truyện này, gồm 3 truyện ngắn viết trước 1975 đã đăng trên tạp chí “Văn” và
tạp chí
“Vấn
Đề” và 13 truyện viết từ thập niên 1990 khi anh định cư ở Hoa Kỳ đến năm 2019,
phần
lớn
Trần Doãn Nho vẫn giữ khuynh hướng hiện thực tâm lý-xã hội. Dựa trên chất liệu
cuộc
sống,
con người, và những vấn đề của thời đại, anh khéo léo đan cài chủ đề vào cách
anh
tường
thuật; và lồng tư tưởng vào chuyện kể một cách tinh tế, thâm thuý, với dung lượng
vừa
phải.
Anh sử dụng phương pháp này khá nhất quán tuy những truyện ngắn của anh có kiến
trúc,
khung sườn và bố cục biến đổi đa dạng. Đường đi nước bước của mỗi truyện mỗi
khác.
Mỗi
truyện có không gian và cấu trúc riêng, và truyện nào cũng có dàn dựng vững chắc
riêng
về
mặt hình thức. Những truyện viết sau này có cấu trúc phức tạp hơn để đáp ứng với
nhu
cầu
đa dạng hơn của chủ đề. Một số truyện viết đã lâu được xây dựng theo mô hình
Freytag,
có
mở đầu với bối cảnh và nhân vật, rồi xung đột, cao trào, gỡ nút, hạ màn… như
“Con mắt
thủy
tinh”, “Con dốc”, “Quen”, …Có những truyện “khơi khơi” như cắt ra một mảng từ
ngày
thường,
như “Bữa ăn” hàng ngày (vậy mà bữa ăn đó lại bất thường một cách kinh hoàng).
Cũng
có khi cái khơi khơi đó là hành động bình thường như “Đi. Trong một buổi sáng”,
mà tác
giả
đẩy người đọc đến những khúc ngoặt và vào những cuộc gặp gỡ với chính mình
trong
những
mảnh thời gian và không gian gẫy vụn của ký ức đã hư hoại. “Ngơ ngác và trẻ
thơ” có
cấu
trúc những hình khối ghép vào nhau, tác giả dùng những giai thoại, những trích
đoạn, và
cả
những “chat” trên mạng xã hội theo kiểu liên văn bản. Những thứ này không hoàn
toàn liên
quan
với nhau, những khi đặt để vào bối cảnh “không còn chữ” trong truyện, chúng bổ
sung
và
tương tác với nhau để tạo ra những tầng nghĩa mới cho câu chuyện. Xét về đề tài
và hình
thức,
đây là truyện ngắn mang tính thử nghiệm và đột phá nhất trong toàn tập. Phần lớn
những
truyện thành công khác như “Đội lốt”, “Phiên bản”, “Đỏ xanh vàng… và trắng”, “Bữa
ăn”,
“Đi. Trong một buổi sáng”, “Con mắt thủy tinh”… là những truyện gần với khuynh
hướng
của
Anton Chekhov hay Alice Munro: truyện ngắn hiện đại xoay quanh những mâu thuẫn
và ý
nghĩa
của đời sống, tập trung ở nhân vật là nơi phát sinh ra câu chuyện, và những cố
gắng
của
nhân vật trong việc sắp đặt đời sống họ vào một mô hình nào đó.
Trần
Doãn Nho xây dựng truyện trên nền tảng vững chắc của dữ kiện thực tế rồi từ đó
đặt lại
vấn
đề với mảng hiện thực đã trình bày trước đó. Thường thì sau khi dẫn người đọc đến
nửa
truyện,
anh đẩy hiện thực ấy sang một chiều khác, chuyển hướng từ ngoại cảnh thành hiện
thực
nội tâm, hiện thực ký ức, đi vào không gian bấp bênh giữa tiểu thuyết và cuộc đời,
người
thật
và nhân vật, cái tôi và “Phiên bản” của tôi, người yêu và kẻ “Đội lốt” người
yêu. Đến một
lúc
nào đó trong truyện, chúng ta bị bất ngờ; khi sự chuyển biến của nhân vật dẫn đến
sự trở
mặt
của ngoại cảnh, hoặc ngược lại. Đó là lúc người đọc trải nghiệm điều mà James
Joyce
gọi
là “epihany”, sự bừng tỉnh/khai ngộ/hiển thị xảy ra cho nhân vật. Trong “Phiên
bản”, nhân
vật
chính có quyết định khôn ngoan “lấy vợ là lấy một người vợ, chứ không phải là lấy
một
người
tình làm vợ”. Anh bỏ người tình và lấy vợ theo ý gia đình. Anh có cuộc sống gia
đình
hạnh
phúc và chu toàn bổn phận làm chồng. Cho đến khi tình cờ nhìn lại bức hình cũ
chụp với
người
yêu ngày trước, anh nhận ra mình đã sai lầm. Trong nhiều năm, anh đã đánh mất
chính
mình
và lẫn lộn giữa các phiên bản sai hỏng của mình: một người tình phản bội người
tình,
một
người chồng phản bội vợ, một con người phản bội chính ước muốn của mình…
Đọc
“Phiên bản” tôi cũng đã có khoảnh khắc bừng tỉnh và tìm ra tên gọi cho kỹ thuật
truyện
ngắn
của Trần Doãn Nho, qua đoạn sau đây:
“Mãi
khá lâu về sau khi con cái và Nguyện và chàng kết dính nhau thành một khối bê
tông cốt
sắt,
chàng mới cảm nhận hết cái khác nhau của hai điều trông rất giống nhau này. Mà
lúc đó
thì
tốt xấu đúng sai đều đã hòa tan vào nhau như nước sôi dội vào nước đá rồi.”
Như
đã nói ở trên, anh rất cao tay trong việc cài đặt tư tưởng vào truyện. Anh
không phát biểu
thẳng
mà để nhân vật và tình thế tự nói ra. Anh pha trộn phần triết lý vào trong sự
kiện. Anh
“hoà
tan” mọi chất liệu (như người làm bánh nhồi bột, bơ, đường, sữa) để đúc kết phần
nội
dung
tư tưởng và hình thức nghệ thuật thành một khối bê tông cốt sắt. Thủ pháp này dễ
cho
việc
thưởng thức mà khó cho việc phân tích. Đây chính là thủ pháp viết rất đặc thù
Trần Doãn
Nho:
thủ pháp “nước sôi dội vào nước đá”! Truyện Trần Doãn Nho có nhiều luồng nước
trộn
vào
nhau, có những hiện thực nhìn từ nhiều góc độ, những nhân vật đa diện; những mảng
truyện
thuộc những không gian tách biệt: trong nước/ngoài nước, những dấu mốc hiện
tại/trước/sau;
những suy nghiệm về thế hệ, màu da, giới tính, chủng tộc, ý thức chính trị....
"Đỏ
xanh vàng và…trắng" là một truyện ngắn độc đáo với thủ pháp “nước sôi
dội vào nước
đá”,
viết từ cái nhìn của người da vàng về thế giới da trắng và những thứ phức tạp
trong chỗ
làm
và trong tương quan quyền lực của màu da, ngôn ngữ, và chủng tộc. Nhân vật
chính ngôi
thứ
nhất, “Tôi” người Việt, làm trong văn phòng ghi danh của một sở giáo dục, vui vẻ
với cái
tên
“Tuk” thay vì Tuất do cách phát âm sai của người Mỹ; chấp nhận thân phận đàn
ông da
vàng
thiểu số trong chỗ làm đa số là phụ nữ, chỉ muốn được yên thân:
“Làm
văn phòng nhiều năm, mà mỗi lần đến sở, tôi cũng lơ ngơ như cá mắc cạn. Những
hê lô,
ô
kê, hao a rờ du lịch sự và vô cảm. Văn phòng tôi âm thịnh dương suy. Ba tầng lầu
với hai
mươi
hai nhân viên, kể cả người lao công, đều là phụ nữ, chỉ trừ tay trưởng phòng và
tôi. Khi
có
tiệc tùng gì, đám phụ nữ Mỹ trắng Mỹ đen Mỹ Tây Ban Nha Mỹ Brazil tụ vào nhau
thôi thì
tíu
ta tíu tít, hết chuyện đám cưới, phim ảnh, nhạc đồng quê thì đến Patriot, Red
Sox, hết
muffin,
pizza thì đến áo quần, trang sức. Tôi thuộc loại mắm, muối, ruốc, thịt kho,
canh chua,
chạy
giặc, vượt biên, cải tạo, chiến tranh, ăn trợ cấp, gửi tiền về Việt Nam, tranh
đấu cho dân
chủ
tự do... ngồi yên như món ăn thừa không ai thèm đụng đũa. Bèn âm thầm và rón
rén rút
lui
có trật tự.”
Hiện
thực trong "Đỏ xanh vàng và…trắng" là hiện thực nhiều màu sắc
chen chúc trong tâm
thức
người tỵ nạn, những người “chỉ có thân xác nhưng chẳng có cuộc đời”, những người
“xương
thịt thì thật mà lý lịch thì giả”, những người có quyền “ngụy tạo tất tần tật
thân phận
mình,
chỉ trừ giống đực và giống cái”. Vì vậy, hiện thực qua lời kể của tôi/Tuk là một
hiện thực
không
hẳn đáng tin cậy. Nó có độ vênh như đi từ “tôi” sang “Tuk”. Nó bị biến dạng do
sự “bất
tri”
(ignorance) hoặc giới hạn ngôn ngữ đối với người thiểu số. Hiện thực này có rất
nhiều hố
hầm,
và càng đi càng thấy những cái bẫy ngầm rộng dần ra. Hiện thực vắng mặt của
Alice
Munro!
Một thứ gần-như-hiện-thực thì đúng hơn: một người phụ nữ da trắng thượng lưu,
có
hai
con làm chánh văn phòng thành phố và dân biểu tiểu bang, lại chỉ thân với người
đàn ông
da
vàng, và có một thứ quan hệ thân mật ngoài phạm vi đồng nghiệp:
“Từ
ngày có Helen, tôi đỡ cô đơn. Có bạn. Rảnh, tôi xuống lầu nói chuyện với nàng.
Nàng, khi
có
việc gì lên lầu, cũng tạt chỗ tôi nói tầm phào. Ở phòng ăn trưa, tôi và nàng
thường ngồi gần
nhau,
vừa ăn vừa trò chuyện. Lại còn chia nhau đồ ăn nữa chứ. Thỉnh thoảng tôi biếu
cho
nàng
vài cái chả giò, còn nàng biếu lại tôi trái chuối, có lúc chỉ còn một trái,
nàng bẻ đôi, nàng
nửa
tôi nửa, thực chẳng khác gì bạn tình. Có lần, một buổi sáng mùa đông, bão tuyết,
tôi đến
sở,
chưa sửa soạn xong bàn làm việc, thì nàng lên. Tôi đưa hai tay ra bắt. Tay nàng
lạnh ngắt.
Nàng
cười bảo ôm tôi chút đi, tôi lạnh. Tôi nhìn nàng, đang phân vân tự hỏi nàng đùa
hay thật,
thì
nàng đã xoay lưng ngồi ngay trên đùi tôi, cười nói cho tôi muợn cái đùi của anh
chút nghe,
lạnh
quá. Nàng khá nặng (nặng hơn tôi là cái chắc), tôi cố giữ thăng bằng, chịu trận,
choàng
hai
tay trước bụng nàng, cẩn thận tránh chỗ nhạy cảm, ngồi thật yên, nín thở. Lát
sau, nàng
đứng
dậy cám ơn, bảo bây giờ thấy ấm rồi, ra dấu nhờ tôi đưa xuống cầu thang. Ăn
quen bén
màu,
thỉnh thoảng nàng lại lên muợn cái đùi tôi để sưởi ấm. Và lần nào tôi cũng vui
vẻ cho
mượn,
đâu có mất mát gì.”
Một
chuyện như vậy khó lòng xảy ra ở công sở hành chính. Nó bắt người đọc phải hồ
nghi
mức
độ xác thực của câu chuyện kể. Và nếu có thực, thì bên trong sự thực ấy là sự
thực gì
nữa?
Hiện thực theo lời kể của “tôi” có phải là hiện thực của Helen (về Tuk)? Quan hệ
thân
mật
này có thật hay chỉ là một sự ban ơn của người mạnh cho phép người yếu hơn cái
quyền
được
che chắn, bảo vệ mình? Hoặc chỉ giản dị là sự lợi dụng dường như vô hại, khó bị
hiểu
lầm?
Ngoài việc “mượn cái đùi” để sưởi ấm, Helen mắc chứng sợ độ cao nên mỗi lần xuống
thang
thì Tuk đi trước và Helen bám vào vai đi lần theo từng bậc. Tuk đóng vai một
công cụ
đa
dụng - thoải mái, tiện lợi, và an toàn - cả về thể chất lẫn tinh thần cho
Helen:
“Thì
ra nàng chơi thân với tôi chỉ vì muốn lôi kéo thằng Asian da vàng này vào phe bảo
thủ với
nàng.
Hèn gì! Hóa ra lâu nay, tôi chơi với một “bảo thủ” trong lúc cả cái văn phòng
này thuộc
bọn
“tự do”. Tôi thân tình với một “đỏ” trong một thế giới toàn cả “xanh”. Thế là
phạm ngay chỗ
chết
người. Bỏ cái đất nước mà lý lịch là thứ hàng đầu quyết định hạnh phúc trần
gian, không
lẽ
tôi dại dột lao vào chiếc thòng lọng phe phái để rồi tự treo ngược đời mình?
Tôi khủng
hoảng
nói:
“Chẳng
lẽ lâu nay, cô âm mưu kéo bè kết đảng một người chỉ muốn yên thân. Tôi chẳng biết
xanh,
cũng không phải đỏ, cô biết không. Tôi là Asian. Asian là vàng. Vàng thì là
vàng vọt, là
tàn
đời rồi, chỉ muốn yên thân nuôi vợ con.”
Về
phía nhân vật xưng “tôi”, anh cũng “ngụy tạo” ra một Tuk tròn trịa để dễ tồn tại
trong thế
giới
nhiều màu sắc chen nhau, chèn nhau, tranh giành thế lực với nhau. Tuk trở thành
một
thuộc
tính và một phiên bản của “tôi”. Tuk là lớp áo khoác để bảo vệ cho “tôi” và
“tôi” núp trong
Tuk
để được yên thân, an toàn. Có thể chỉ trong đoạn cuối, khi nhân vật ‘tôi” ôm
giã biệt
Helen,
anh định hôn lên môi Helen, thì hành động đó là của “tôi” chứ không phải Tuk nữa.
Đáng
tiếc là cái hôn đó bị từ khước. Sự từ khước cái hôn cho thấy Helen chỉ chấp nhận
một
Tuk
“ngoan ngoãn” vô giới tính chứ không phải một “tôi” thật sự, một con người với
nhu cầu
bình
thường và bình đẳng.
Nhân
vật của Trần Doãn Nho có nhiều lớp, đóng nhiều vai, mang nhiều tên gọi. Tương tự
như
Tôi/Tuk,
hay Cynthia/Maria Zone trong “Con dốc”, nhân vật hai căn cước Thảo /Bruce trong
“Khoảng
trống” luôn đeo mặt nạ trong cách ứng xử để tránh bị thương tổn và để che đậy cảm
xúc
thật. Người đọc sẽ phải suy nghĩ về thái độ của Thảo/Bruce sau khi đọc xong
truyện, vì
Thảo
ngày xưa và Bruce sau này, tuy khác tên gọi nhưng cùng khoác một lớp mặt nạ
kiêu
hãnh
xa cách để bảo vệ phần tình cảm sâu nặng anh muốn che giấu. Tựu trung chúng ta
chỉ
biết
về anh qua lời kể khá sơ sài của Doãn, nhưng anh mới là trung tâm của truyện,
anh là
“khoảng
trống” quan trọng của truyện. Trong Thảo/Bruce là một hiện thực vắng mặt của một
quãng
đời tỵ nạn, cả trong và ngoài nước. Khoảng trống mà Tụng đối mặt trong “Con dốc”
còn
đáng
sợ hơn, vì đây là khoảng trống không có giải đáp - giữa Cynthia trong vẽ vời tưởng
tượng
của Tụng và cô nữ sinh Maria Zone thật
ngoài đời. Cynthia là một số ảo, còn Maria
Zone
sẽ mãi mãi là ẩn số, khi cô “chọn” cách mất tích, với Tụng, và với đời sống thật.
Chủ
điểm trong tập truyện của Trần Doãn Nho là cách con người “tỵ nạn” và cách họ
nhìn việc
tỵ
nạn của mình như thế nào. Tỵ nạn ngoài nghĩa thông thường, và còn có nghĩa ứng
phó với
cuộc
đời là khổ nạn nói chung. Những chọn lựa có khi tương phản, có lúc mập mờ, thường
khi
là ẩn số. Tụng trong “Con dốc” chọn việc chờ đợi một điều luôn ở ngoài tầm tay.
Lan trong
“Đi
tìm…” bỏ tất cả hiện tại để đi tìm những giá trị thuộc về quá khứ. Có người tìm
cách xóa sổ
quá
khứ: “Cái gì qua rồi thì chỉ là… tưởng tượng” (Đội lốt). Có người tự bảo vệ
mình bằng
cách
“sân khấu hoá” mọi sự, đặt mình ở vai trò khán giả nhìn vào chính hiện thực
thương tâm
của
mình (Bữa ăn). Lại có người coi mình là nhân vật trong tiểu thuyết:
“…
em nghiệm cuộc đời em biết, khi người ta khổ quá rồi, thì mọi chuyện cứ như là
chuyện
của
ai đó chứ không phải của mình. Y như mình đọc tiểu thuyết của… Dương Hà vậy
thôi.”
(Đội
lốt)
Lại
có người tiếp tục tạo ra nhiều bản sao mới trong hành trình sống:
“Cả
cuộc đời chàng y như thể trò chơi trẻ con, chơi chán món này, vứt, chơi món
khác, ham
hố,
rồi chán, lại vứt, tìm món khác, hào hứng, và chán, lại vứt... Chàng đánh mất
chàng theo
những
món đồ chơi cũ kỹ bỏ lại dọc đường nhân sinh.” (Phiên bản)
Trần
Doãn Nho dựng những nhân vật vô cùng thú vị. Họ không ngừng khiến chúng ta phải
ngạc
nhiên. Họ có khả năng thay đổi tình thế và cục diện câu chuyện. Trên bề mặt,
nhân vật
Trần
Doãn Nho linh động, tròn đầy, có hình khối, có âm lượng; họ choán ngõ ngách
trong thế
giới
truyện, nhờ họ mà chúng ta cảm được khí hậu truyện và thấy được không gian truyện
mở
ra.
Họ nói những câu làm chúng ta sững người, như tia chớp trong một thoáng rọi vào
mặt
khuất
của nhân vật. Tiềm ẩn trong họ là sự tra vấn bản thân để tìm ra mô thức cho cuộc
đời.
Tập
truyện là tập hợp những nhân vật bị mệnh lệnh “do-not-enter” chặn đường trong
khi đi tìm
đáp
số cho bản thể. Mật mã để vào tập truyện là một khái niệm triết học: con người
là ẩn số
lớn
nhất của chính họ.
Trần
Doãn Nho chọn truyện ngắn “Đi. Trong một buổi sáng” làm tựa cho toàn tập truyện
cũng
vì
lẽ đó. Truyện về một người đàn ông và một người đàn bà tình cờ cùng trốn khỏi
viện dưỡng
lão,
có lẽ dành cho người mắc bệnh mất trí nhớ. Buổi sáng họ thoát ra đường và cùng
đi rong
chơi
trong thành phố. Một cuộc rong chơi thú vị dành cho người đọc, với nhiều tên đường
phố
của
những nơi chốn trong quá khứ cùng có mặt: một con đường ở Mỹ chuyển sang con hẻm
ở
Sài Gòn, rồi thành một con phố ở Huế, rồi một khu nhà trông quen thuộc ở Mỹ… cứ
thế họ
đi
dạo qua những không gian ký ức và bám vào những dấu mốc thời gian cũ đã bị đảo
lộn
tung
tung thứ tự. Họ đã từng là tình nhân của nhau? Có thể. Hình như họ đã phụ nhau,
hoặc
đã
chờ nhau. Nhưng sao người này gọi người kia bằng những cái tên trật chìa? Và
người này
xưng
những cái tên khiến người kia ngẩn ngơ. Qua những đối đáp đầu cua tai nheo, tác
giả
cho
người đọc thấy quá khứ đứt đoạn của từng người. Hai người nói năng, cư xử với
nhau và
với
nhiều phiên bản của nhau. Ẩn số trong mỗi nhân vật đã tăng bội lên thành nhiều
nhân
cách
trong một bản thể. Những mẩu ký ức đứt đoạn của mỗi bên có thể đem ráp với nhau
thanh
một đối thoại dường như hợp lý, nếu sẵn lòng bỏ qua vô số những điều vô lý
khác. Tuy
nhiên
những chỗ không ăn khớp mới là điều lôi cuốn của một hiện thực không đáng tin cậy
và
không
có bảng chỉ đường khả tín để dùng làm quy chiếu.
Khi
đọc “Đi. Trong một buổi sáng”, tôi liên tưởng đến truyện “The Bear Came Over
the
Mountain”
của Alice Munro về một người chồng đưa vợ vào nhà an dưỡng dành cho người
mất
trí nhớ; sau một tháng người vợ hầu như quên mất chồng là ai, và phát sinh tình
cảm đặc
biệt
với một bệnh nhân đàn ông khác trong viện. Truyện có những đoạn hồi ức của người
chồng
từng là giáo sư đại học, rất đào hoa, thường xuyên ngoại tình với những sinh
viên trong
lớp
ông phụ trách. Cách viết của Munro khiến người đọc có sự liên kết giữa việc người
vợ bị
chồng
phản bội trước khi mất trí nhớ và việc trí nhớ của bà phản bội lại chồng sau
khi nhập
viện.
Có một giao điểm giữa truyện của Trần Doãn Nho và Munro: con người “tỵ nạn” bằng
cách
trú ẩn trong ký ức hay bằng cách chạy trốn khỏi ký ức? Không còn trí nhớ, nhân
vật của
Munro
quên đi người thân, nhân vật của Trần Doãn Nho lại “nhớ” một người hoàn toàn xa
lạ.
Trí
nhớ bảo quản những điều chúng ta có, nhưng trí nhớ cũng có thể chặn lại mọi khả
năng đi
xa
hơn, cụ thể là hành động “đi trong một buổi sáng” như hai nhân vật của anh; khả
năng tìm
thấy
trong những thứ lạ một điều rất quen, rất người, rất thân thuộc. Trí nhớ là con
dao hai
lưỡi,
là ngôi nhà chất chứa đời sống của chúng ta, mà cũng là bức tường giam giữ, không
cho
thoát
đi những điều chúng ta không muốn và cũng không cần nhớ tới.
“Buổi
sáng đã bị nhốt ở bên kia hàng rào, có lẽ vẫn còn tiếp tục đi.”
Câu
kết của truyện rất thơ, và đầy nghịch lý. Những câu kết trong truyện ngắn của
Trần Doãn
Nho
thường như vậy, rất đặc biệt. Câu kết hay đoạn kết truyện rất quan trọng, không
có nó thì
truyện
chưa xong, chưa thành truyện được. Anh thắt nút ở đoạn kết, chấm dứt lơ lửng ở
cao
trào.
Cũng có khi tác giả vén màn các sự kiện, hoặc khép lại toàn truyện bằng một luồng
sáng
khác.
Đóng
lại tập truyện, có hai cái kết ám ảnh tôi nhất:
Cái
kết thứ nhất trong truyện “Con mắt thuỷ tinh” khi một người mù “nhìn thấy” sự
thật của
mình.
“Trang
lại ngồi ở bàn, vặn sáng ngọn đèn dầu, lấy tấm kính lớn, nhìn lại khuôn mặt
mình. Con
mắt
giả làm bằng thủy tinh lồ lộ, rõ ràng. Nó lớn hơn con mắt còn lại. Nó bệch bạc,
vô lý, nhạt
nhẽo.
Trang nuốt nước miếng, cuống họng chợt khô đắng. Trang đưa ngón tay rờ rẫm lên
con
mắt
thủy tinh, nhích nhích rồi gỡ ra. Trang run rẩy nhìn khuôn mặt của mình mờ mờ
trong tấm
kính.
Một lổ hổng đầy gân máu, đỏ lòm. Trang hoảng hốt. Chưa bao giờ Trang thấy khuôn
mặt
mình
quái đản như vậy. Đột nhiên, Trang có cảm tưởng nó không phải của mình, nó xa lạ,
kỳ
dị.
Trang hấp tấp gắn mảnh thủy tinh vào lỗ hổng con mắt, rồi đi nằm. Suốt đêm,
Trang bị ám
ảnh
bởi khuôn mặt của mình, không ngủ được.” (chấm hết truyện)
Cái
kết thứ hai thuộc về truyện “Đỏ xanh vàng và…trắng”. Một cái kết thật gọn chỉ với
câu “Nụ
hôn
trắng”, là nụ hôn của Helen trên má “Tuk” lúc chia tay.
Cả
hai cách kết đều mang trong nó nhiều ẩn số.
ĐTT
https://sites.google.com/view/gach-lat-nen-hung-phat/trang-ch%E1%BB%A7
ReplyDeletetham khảo một số mẫu gạch ốp lát bên mình nha
ReplyDeletegạch lát nền