Lê
Chiều Giang
Giang và Thuỵ Vũ
Trong một lần giận chồng tê tái, tôi vùng
chạy khỏi căn chung cư nhỏ, lẫm đẫm đi dọc theo hàng cây bọc dài quanh con sông
trước nhà.
Cái dễ thương nhất của những cuộc “bỏ nhà
ra đi”, là chúng ta luôn ngoái cổ tìm xem “đối thủ” có cuống quýt chạy theo, có
hoảng hốt gọi mình trở lại hay không?
Nghiêu Đề đã chẳng làm điều đó, tôi chợt
hiểu ra và thấy mình sai sai trong những giận hờn vô lối sáng nay.
Sẵn chiếc ghe của Bà Mười đang chờ đón
khách, tôi vùng vằng “sang song”. Không hiểu có phải sự làm nư như muốn ăn
vạ của tôi đã khiến chiếc thuyền chòng chành, chao đảo đến nỗi nó suýt nghiêng
xuống nước ?
Cũng chẳng biết qua tới bờ bên kia rồi tôi
sẽ đi đâu? Nhảy xuống sông thì chắc không nỡ bởi tôi còn mê “sống” lắm...
Con đường cát trắng ngoằn ngoèo dài như vô
tận, dẫn tôi qua nhà chị Thuỵ Vũ bên Làng Báo Chí. Chị Vũ và anh
NĐToàn dùng chiếc ghe nhỏ của bà Mười như chiếc cầu nối để thường xuyên sang
thăm chúng tôi ở Cư Xá Thanh Đa. Hôm nay, lần đầu tiên tôi vất vả tìm sang nhà
chị, một mình.
Hồ Trường An hỏi thăm đủ điều khi tôi ngồi
chờ chị thay áo, chải tóc. Dù bất ngờ có thêm tôi, chị Thuỵ Vũ cũng rủ để cùng
đi gặp ai đó mà chị nói là sống ở... xa lắm. Cái nơi “xa lắm” đó giờ nhớ lại
tôi nghĩ chắc chỉ là Phú Lâm hay Chợ Lớn. Sau vài chuyến xe lam, chúng tôi đi bộ,
lội tắt vô những ruộng những đồng xa khuất hẳn với đường phố ngoài kia.
Ngạt ngào trong gió, tôi ngửi ra mùi của
trầm hương. Nhưng nơi chúng tôi dừng lại trông chẳng có vẻ gì là một ngôi Chùa.
Rất đông người xàng qua lượn lại trong một cái sân nhỏ, tay mang những dĩa hoa
quả, nhang đèn và tiền âm phủ. Anh Hồ Trường An giờ mới tiết lộ cho biết, chúng
tôi đi coi ... “Hầu Đồng”. Hết hồn vì sợ hãi đến nỗi tôi chỉ muốn tìm đường tẩu
thoát, nhưng làm sao tôi dám rời khỏi nơi đây một mình? Và thật lạ, chỉ với
cái nắm tay của chị Thuy Vũ sau đó đã làm tôi yên tâm. Tôi ngồi khoanh tròn chân
chờ đợi, cứ như một “đồng” rất lâu năm và chuyên nghiệp.
Bạn anh Hồ Trường An, Sìn, người mà tôi muốn
chào bằng “chị” thì chị Vũ nhắc tôi gọi là “Anh”. Lúng túng với nhiều nhân vật
chẳng biết Ông hay Bà chung quanh tôi hôm đó, khiến tôi chỉ còn biết ngồi im với
hương khói cay xè mắt như sắp khóc và chuông mõ rộn ràng.
1975, cái mốc của nhiều điều và nhiều thứ...
Tôi chẳng muốn than đi thở lại làm gì cả hằng trăm chuyện, mà thiên hạ đã
nói gần hết. Nhưng làm sao để tôi có thể quên hình ảnh rã rời của chi Thuỵ Vũ,
những lần chị ghé chơi nhà sau một ngày đi làm mệt mỏi .
Một ngày mà 12 tiếng bán vé trên những
chuyến xe buýt tràn ngập những người là người. Chị mong manh và nhỏ bé, chị kiệt
quệ rão rệu trong inh ỏi, điên đầu của một Sài Gòn náo loạn những âm binh...
Nhờ
sự tử tế của một cô bạn thân đang làm ở “Bộ Giao Thông”, chị Vũ được đi bán vé xe
buýt, và dù chỉ với đồng lương thời bao cấp ít ỏi như thế, chị phải vặt vẹo nuôi
nấng Khôi Hạo, Bé Thuỵ và Tí Teo. Ông Sìn, người tôi gặp trong Chùa vài năm
truóc đó, sau 75, đã về ở để giúp chị cơm nước, chăm sóc mấy nhỏ khi chị
không có nhà.
Bé Khôi Thuỵ, một vết sẹo ngang
xương của đời, một gắn bó kỳ lạ từ mối tình mà chị thường đắng cay, trì triết :
“Khi lấy Chả”, coi như là mình đã xí hết những trầm luân từ một tỷ những “Thằng
Cha”; có mặt trên cái thế giới này rồi !”
Chị có sắc mặt lạnh tanh khi nói chuyện đời
mình, nhìn chị mà tôi mơ hồ tưởng chị kể chuyện nhân gian, chuyện của ai khác.
Phải chăng, với những khổ đau trùng trùng, có khi đã tạo ra lớp vỏ ngạo mạn lạnh
lẽo, như một khí giới tự vệ hữu hiệu nhất của chị ?
Những tối chị ở lại nhà chúng tôi, phải là
những rì rào to nhỏ, suốt đêm ...
Mối tình đầu tiên mà chị tưởng đã đặt hết
yêu thương, là một “Anh Hùng Mã Thượng”, mối tình lớn này đã khiến chị sau
đó phải giam mình suốt chín tháng dài, trong căn nhà im ỉm của song thân, vì sợ
những thị phi, tai tiếng... Hoá ra lại chỉ là người “chẳng ra làm sao, rất
đặc biệt là đã không hiểu chút gì về Thượng với Mã !” Bởi thế, Bé Hương
chưa bao giờ được gặp cha mình, cho tới ngày Ông mất ở Sài-Gòn khoảng năm 1995.
Sáng thức dậy, khi Nghiêu Đề ngồi quấn thuốc
rê, cái thuốc mà cả nước nghi là xắt ra từ những lá đu đủ, tôi rót trà nhâm nhi
ngồi nhìn chị Vũ trang điểm. Có lẽ chút yêu đời duy nhất còn sót lại từ chị, là
lúc ngồi vẽ đôi chân mày, mỏng dính và mờ nhạt. Đời có còn gì không để chúng ta
phải tô thêm cho đậm đà? Có lần tôi đã tính hỏi chị như thế.
Chị tô son lên môi, xức chút má hồng
và...ca vọng cổ !. Tôi hay cười cười với những phối hợp tréo ngoe, trật trìa chẳng
đâu vào đâu của chị. Vậy mà cái chất giọng ngai ngái, khan khàn khi chị
ngân nga có lần đã làm tôi suýt khóc:
“Tưởng giếng sâu em nối
sợi giây dài
Ai dè giếng cạn , em
tiếc hoài sợi dây...”
Có lần chị rủ tôi tới ngôi chùa Già Lam ở
Phú Nhuận, Sư trụ trì là người thân với chị và nghe nói ông thuyết pháp rất
hay. Chị đến không phải vì gì khác, ngoài việc có hẹn xem bói bài cho rất nhiều
bà đang ngồi chờ chị ở bên ngoài, dưới bóng mát của một cây cổ thụ phía sau sân
chùa.
Trên những khuôn mặt lam lũ, đầy lo âu và
tội nghiệp đó đã có thoáng chút vui mừng, khi thấy chị Vũ đến. Câu hỏi của tất
cả quí bà chỉ là: “Tuần sau, tháng tới chồng tui vượt biên có ổn
không ?”, hoặc “Bao giờ thì có tin của con trai, người đã ra ghe từ tháng
trước?” ...
Dưới cái nắng gay gắt của trưa hè, tôi ngồi
bần thần, tò mò nghe chị Vũ bàn chuyện tương lai, quá khứ của thiên hạ
qua một xấp lá bài xanh xanh đỏ đỏ. Trúng sai gì thì chắc chỉ có Trời và
chị cùng với những “khách hang” này mới biết, nhưng có một thời gian chị đã sống
lất lây với cái “sự nghiệp” vui vui này. Chị đã bỏ đi được sự vất vả của
bao tháng ngày bị rượt đuổi, bởi những chuyến xe buýt triền miên trong thành phố.
Tôi đã nhiều lần trở về quê cũ, líu lo với
chị ở Lộc Ninh hay trên Sài Gòn, hoặc đi cùng chị tới nhà anh Văn Quang, người
mà tôi nói đùa là chỉ có mình anh là trông gầy ốm hơn so với chị Thuỵ Vũ. Mỗi lần
muốn rủ tôi tới chung cư Nguyễn Thiện Thuật, chị giỡn: “Sáng nay tụi mình đi café
với Ân Nhân”, tôi hiểu ngay là Văn Quang, người đã viết nhiều bài “tố cáo” về “Chả”dùm chị...
Đêm qua nhận email từ chị Thuỵ Vũ, một
email dài hơn bình thường chợt làm tôi lo lắng. Chúng tôi email qua lại nhiều lần
chị đã chẳng bao giờ nói tới anh Tô Thuỳ Yên. Duy nhất email này chị nhớ đến
anh, dù chỉ thoang thoảng với một chút u hoài, nhắc tên một người “Chồng” đã ra
đi từ vài năm trước... Chị cũng nhắn tôi về chơi, trước khi... quá trễ.
Chúng tôi đã sống cùng nhau một thời dưới
những oan khiên của quê nhà. Nơi mà đời sống có những khi lẳng lặng, trầm
tĩnh, đôi lúc lại hốt hoảng, vội vàng, cứ như sắp không còn kịp để làm một điều
gì... Cảm giác đó sau bao năm đã chìm lắng, đã biến mất kể từ ngày tôi từ
biệt chị, ra đi.
Và với email chị gửi đêm nay, tôi ngồi viết
suốt bốn tiếng, tưởng đã như là một hồi âm.
Viết, để gủi về một nơi chốn rất xa
xăm, một nơi mà không biết sẽ còn có bao giờ tôi trở lại...
LÊ
CHIỀU GIANG
( June 2020)