Hồ
Đình Nghiêm
Poetry.
She was full of hope
Source:
Internet
Anh
viết một bức điện thư. Ngắn, không tới một trăm chữ, sắc huyền hỏi ngã nặng ơ á
ớ đội mũ thêm râu hẳn hoi, dấu chấm than ngoặc đơn ngoặc kép đâu ra đó cho phải
phép, rồi nhờ người chăm sóc trang báo văn học treo lung linh trên mạng lưới
chuyển giúp.
Anh
không có lắm bạn bè, vụng giao tiếp, lười tâm sự, ngại mang lại sự ngộ nhận cho
ai đó. Nhưng hôm tình cờ xem được bài thơ vừa hiển thị, đọc tới lọc lui, anh
nghĩ mình nên tỏ bày chút gì với tác giả, tựa một phản hồi đến từ phía người đọc
thầm lặng.
Danh
xưng thật khác lạ, anh đoán là bút hiệu. Thơ vẽ ra nhiều cảnh tượng nửa mông muội
nửa hiện thực, góp lại chúng dẫn anh tới điều gì gần với một xao động, bất an.
Anh vẫn quan niệm, rằng cái đẹp vẫn luôn chứa trong đó chút tật nguyền. Sự toàn
bích là điều bất khả, có vậy nghệ sĩ mới luôn chối bỏ những gì họ từng nhào nặn
ra. Không phải sao? Chúng ta vẫn sống thở trong vô vàn những mâu thuẫn đó thôi.
Người ta ước ao được trở về thuở hồn nhiên mặc dù kinh nghiệm từng trải họ thủ
đắc là điều cần thiết. Picasso từng cho hay: Tất cả những đứa bé đều là nghệ
sĩ, vấn đề là khi lớn lên chúng còn giữ được chút gì không?
Theo
sự cảm nhận chủ quan, anh ngờ số tuổi của tác giả hẵng phải lớn hơn mình. Và
thư anh mở đầu bằng chữ “Kính thưa Anh”. Nếu là thời trước, bạn viết thư tay
trên một tờ giấy mỏng, đợi mực khô bằng cách dò lại nội dung rồi gấp vén khéo
cho vào một phong thư màu xanh có in sẵn chữ Tây u nằm dưới góc “Par Avion”.
Mang nó tới bưu điện mua con tem đúng với giá quy định, lè lưỡi ra liếm cái vị
ngọt của chất keo, đủ ướt để “chim cò” khỏi rơi rụng lệ phí đường dài. Xong
xuôi, bạn chỉ còn duy một hậu vận: Đợi chờ sự hồi âm. Và thông thường “con nhạn
la đà” bay ngon ơ những hai tuần. Tuỳ đối tượng, tuỳ nội dung khẩn thiết chất
chứa trong phong bì, cái sự thư đi tin lại kia có làm cổ bạn dài bao phân thì
cũng tuỳ vào “nhân duyên đức độ”, vào cái tâm cảm khi bạn trải lòng. Văn hay chữ
tốt chẳng nói làm gì, có khi “thằng cha này cục mịch vụng về đến đáng thương”.
Nhưng
hổm rày đã đổi khác, (có người dùng chữ đương đại cơ đấy!), đã tiến bộ, đã mang
đôi hia bảy dặm, đã lỡ giết đi hình ảnh “con rùa bưu điện” mà có lắm kẻ hoài cổ
vẫn xem đó là thứ hình ảnh lãng mạn đáng yêu. “Hôm nay trời đổ mưa, anh che dù
ra nhà bưu điện. Mưa chẳng lớn, nhỏ hạt, nhưng anh vẫn ngại chúng làm hoen mờ
dòng chữ anh viết cho em. Có thi nhân bảo: Nếu chữ nào em đọc không rõ, hãy
nghĩ đó là chữ anh yêu em”.
Có
cần cảm ơn sự tiến bộ của loài người không? Những kẻ tự nhận được sống trong thời
đại a còng. Vì sao gọi @ là a còng? Bạn vẫn còn ám ảnh những ngày cùng khổ bị
nhốt trong lao tù? Con chim thương tích thấy ná giàn thun giương lên liền hoảng
vía? So đo, ví von, tức cảnh sinh tình, tựu trung trông gà hoá cuốc? Nhưng có hồ
đồ tới mức nào đi chăng nữa, a được bảo bọc bao che trong vòng tròn nên lá thư
lỏng lẻo của anh đã lọt vào mắt người nhận chỉ ba mươi giây, nhanh hơn một chợp
mắt. Ngủ không êm một giấc thì “người ấy” đã có “biên” thư đáp trả tấm thạnh
tình. Nhân viên bưu điện từng kêu trời không thấu. Nhanh chi nhanh lạ, đã không
tốn tiền tem mà nhăng cuội suốt ngày chat chít bỏ mâm cơm nguội lạnh có người
kêu vào ăn khô hơi rát cổ như thể gọi đò. Gượm tí, để giao lưu tình cảm đã nào.
Ba vạn cũng bỏ bởi mấy khi…
“Cảm
ơn anh đã quan hoài, chia sẻ. Không riêng anh, cái bút hiệu tôi dùng khiến đôi
người vẫn ngỡ tôi là phái nam. Đàn bà không ưa nói về tuổi tác và tôi nghĩ chuyện
ấy nào có gì phải bận tâm, già trẻ nhớn bé thảy đều anh em một nhà cả, huynh đệ
thôi, đừng có lôi cổ chú bác dượng dì cậu mợ o thím gì vào thêm bát nháo, bởi
đơn giản chỉ là huynh đệ mà có lắm khi đã kháu ó bất hoà chẳng thèm nhìn mặt
nhau, hằn học hơn cả giận lẫy cuộc đời. Nếu như anh bảo thơ tôi y như của một
con mụ già sáng tác thì lúc đó mới thực sự soi gương. Về điều anh hỏi chừng nào
in ra một tập thơ? Tôi đã “đập gương xưa tìm lấy bóng”, đưa tay ra sờ lui sau
ót, tự dưng mất đi hai ngàn đồng thì có phí phạm không anh? Chúc anh an vui.
T.”
Khác
bút hiệu “gân guốc” dương thịnh âm suy dễ gây hiểu lầm, nữ thi sĩ chỉ ký tên,
dùng một đơn vị nằm lê thê trong bảng chữ cái: T. Thì tôi tưởng tượng thật thà,
Trúc, Thương thường thấy tiệc trà từ tâm. Anh đắn đo, không biết mình có nên gửi
thêm chút bợn lòng. Cõi ta bà này mêng mông chi xứ, hỏi cho ra là T đương ở đâu
thì rõ là dễ rách việc. Và điều nên ghi nhớ, tất cả chỉ là không thực, dễ tan
biến, chỉ lộ hình trên màn ảnh computer thôi, là mạng ảo. Dài lâu hơn mây qua
trời rộng? Mây xám, bạc trắng hay xanh hồng? Dồn cục nặng nề, nõn nà hay lơ thơ
mịn mỏng tựa một nhát cọ thuỷ mặc phủ phất? Tránh đường đột vồ vập, hãy nán chờ
đọc tiếp một bài thơ khác xem sao, nhịn như kiểu “báo Hong Kong qua chậm một kỳ”
hoặc trang chót của cuốn Thượng in hàng chữ “Xem qua hồi sau (ở cuốn Hạ) sẽ
rõ”. Chẳng biết là cuối cuốn hạ có bày ra chữ Chung? Việc gì cũng vậy, có khởi
đầu thì phải có chấm dứt, có sinh e nên tìm tới chữ diệt. Trong các loài hoa,
hoa bất tử là loài xấu nhất hạng, xấu vô hậu, cứ trơ trơ mắt thị mà thách đố luật
tuần hoàn. Không có điều gì là sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta cả, nhớ?
Có chăng hoài huỷ một hoài nghi đến thắt lòng. Hòn vọng phu thi gan cùng tuế
nguyệt mà trời mưa hoài mưa huỷ cũng khiến nước chảy đá mòn, hết trông rõ hình
dạng mẹ bồng con: Sao cha mày học tập cải tạo gì lâu quá mạng, tính mút mùa lệ
thuỷ hay sao đây? Sự tích thuật lại có nhẫn tâm? Nên chen cài hình ảnh có đứa
ăn nói hậu đậu dừng chân bên chỗ “nàng” ngồi, chút thơm thảo xúi giục:
Chờ chờ đợi đợi mần chi
Nơi mô bưa nút bưa khuy cứ gài.
Hoặc có kẻ thật thà, vụng về tỏ tình:
Thương em nỏ biết nói chi
Cho em thước lụa để khi lau buồn.
Thấy người ta làm thinh, lại được trớn:
Đêm nằm nghe vạc kêu canh
Nghe chuông dộng sáng nghe anh dỗ
nàng.
Chao
ôi trần gian này nếu thiếu mặt “thi nhơn”, thì ta đành hoá đá cũng là sự ắt có
và đủ vậy! Hay chính những người mãi làm
đẹp cuộc đời ấy đã hoán đổi việc ngồi đợi chồng trong dãi dầu gió mưa của ta
thành ra hình ảnh một hòn đá thách đố thương đau? Đá có biết buồn để dùng lụa
mà lau? Đá có thính giác để nghe tiếng chuông dộng sáng? Không ai đơm đặt những
dấu hỏi quàng xiên kiểu đó và rồi một ngày đẹp trời đọc báo mạng ở trong nước
loan tin: Bọn người mưu sinh vào việc đập đá đã vừa chính thức khai tử Hòn Vọng
Phu. Chúng vô tình “tối tác” ra câu ca dao mới, rất đỗi thần sầu quỉ khóc:
Trăm
năm bia đá cũng mòn
Bia
chai cũng bể chỉ còn bia ôm.
Bia
ôm là gì? Đó là thứ mà anh chưa thể một lần kiểm chứng, dù mường tượng được một
hậu vận là “ba say chưa chai”. Chai bia hay chai lỳ? Rõ là nỏ biết điều phân
giãi. Anh thích thơ của người ký tên T. dưới email hồi âm. Thích mà không nói
ra cảm nhận rằng đọc thơ “chị” khiến đôi lần tôi mơ hồ nhớ về người tài ba Tô
Thuỳ Yên:
“đau khổ riêng gì nơi gió cát
thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm”.
Chữ
nghĩa anh kém cỏi, “chưa bưa”, thành khó mà gài xong những khuy những nút. Lại
lợn cợn một hoài nghi, đôi lúc người vận xiêm y chớ gài kín bưng làm che mất một
vùng thịt da nõn nường? John Lennon từng nói: “Hãy mở lòng ra và đóng miệng lại”.
Anh đã nghe lời, đóng hòm thư chẳng viết thêm lời tán tỉnh khi biết thân phận kẻ
ấy từ đờn ông thanh minh ra đờn bà.
Nam
nhi lưu lạc sang biển ngoài một hôm tỉnh thức về phận lẻ loi, muốn lấp đầy, đa
phần vẫn thực thi cách giải quyết: Về Việt Nam tìm bạn đời. Có đứa “buồn nhiều
hơn vui" tìm ai đó trên facebook, có kẻ “yêu màu tím thích nhạc Trịnh” thì
cuối tuần siêng giỏi chân vào chùa hòng nhặt được cánh hoa rơi. Có tay chẳng
tin vào thần linh Chúa Phật, chỉ vin vào số mạng kiểu “một hôm trận gió tình
yêu lại”, tới đâu hay đó, liệu cơm gắp mắm hay nước đến chân mới nhảy, rồi ung
dung đưa ra triết lý lo bò trắng răng. Triết lý? Ừ, như thể bị phê bình ăn ở mất
vệ sinh thì nghe được phản hồi “trâu bò mấy sạch”. Thấy ông nọ quen được cô gái
trẻ liền chơi chữ trâu già khoái gặm cỏ non. Rồi phân bua là đừng giận, tính
tui thẳng như ruột ngựa. Đi làm trong hãng xưởng nghe chủ tớ cãi nhau bèn gãi đầu:
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết! Mất việc thì sinh đổ bệnh, run như thằn lằn đứt
đuôi, ho như gà, da xanh như đít nhái, nằm co quắp như tôm… Đến khi gượng dậy
vác mạng đi khám thì bác sĩ dong tay chỉ về phòng mạch của bác sĩ thú y. Bài học
rút ra, bạn nên bỏ tật ví von, rằng con người vốn quý nhất, sao cứ xem mình như
con này con nọ mãi thế? Buồn như con chuồn chuồn. Chán như con gián. Nhỏ như
con thỏ. Chảnh như con cá cảnh. Ăn trái me nghe ve hát… là thế nào? Thà mà bảo
đời buồn như râu mọc thì nghe chẳng đến nỗi nào, nhỉ?
Đời
có buồn không? Buồn vào hồn không tên thức giấc nửa đêm nhón dậy đi tìm nàng…
Công án nọ đưa ra thật chẳng phải phép. Buồn, vui… vạn sự thảy do mình. Cũng do
mình buồn chân, đi ngang cửa chợ luôn ồn ào thấy có dán tấm poster quảng cáo cuối
tuần này có buổi sinh hoạt ra mắt sách của một văn hữu từ Mỹ sang với phần phụ
diễn hát hò ngâm vịnh của lắm khuôn mặt khả ái địa phương. Và quan trọng nhất:
Vào cửa tự do. Vậy thì cũng nên tự do mua lấy một niềm vui nhỏ. Có người nói
“hoa là linh hồn của khu vườn, sách là linh hồn của căn phòng” vậy thì những ai
ít mó tay tới cuốn sách, tâm hồn họ có tựa một góc vườn âm u đầy cỏ dại?
Theo
lời quảng cáo in ở tấm bích chương, anh đến hội trường đúng giờ, vì anh đã vào
quốc tịch xứ lá phong. “Không ăn đậu không phải dân Mễ, không đi trễ không phải
Việt Nam”. Vắng, bỏ qua đi nhen bị người Việt Nam thường đi trễ. Và khi có hơi
đông, người nói tiếng Việt kháo nhau: Mình tới nghe chúng nó hát là chính, sách
vở thì… em hổng dám đâu! Thật là “ca ra mà không ô kê” gì hết chơn hết chọi dị
đó! Tự dưng anh nghĩ quàng xiên, có người Mễ nào suốt đời chẳng ăn một hạt đậu?
Bởi anh biết chắc người Việt thì có khối đứa suốt đời không cầm lên một cuốn
sách trong đôi bàn tay chật vật nức nẻ với ruộng vườn, chai sạn với cuốc cày, gặt
lúa đãi trấu, sàng cát nhặt hến ở khúc sông đầy xác cá nổi trôi. Người nhiều chất
xám vạch trần sự thật: Cá chết do bởi bị sặc nước! Than ôi sao cá ở xứ Việt lại
chẳng chịu đi học bơi, nhẽ? Cơ mà lại vạch rốn cho chuồn chuồn cắn nhột một
phát, chắc khứu.
Chừng
hơn tiếng mới rục rịch có người nghịch tay thử giọng vào cái micro. A lô một
hai ba. A lô on đơ troa. Âm thanh xem chừng ù ù cạc cạc, ví von kiểu của “bác
sĩ thú y” thì là: Ông nói gà bà nói vịt. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Hắng giọng
trên bục mà người ngồi dưới cuối hội trường đực mặt như ngỗng ỉa, không vọng động
cứ tỉnh như ruồi, sắp riu riu đi vào giấc ngủ trưa hạ nồng. Lại phải a bê xê dắt
dê đi ỉa, a á ớ kíp gọi chiên da. Chuyên viên kỹ thuật sửa ampli, rờ nút nọ vặn
nút kia, phải mà nó đừng hỏng hóc thì giờ này ca sĩ tự nguyện lên hát bài “Chuyện
một chiếc cầu đã gãy” chắc sẽ hớp hồn người nghe. Đứt đoạn, phân lìa, dầm vài
xuống sông đầy hương tang thương. Nó còn mấy vài mấy nhịp, suốt đời còn ai qua
kịp mà mong?
qua cầu cầu yếu phải nương
điệu này biết bạn không thương ta rồi
cực lòng ta lắm bạn ơi
bỏ thề trôi nổi lệ rơi hai hàng.
……..
muốn gần duyên chẳng hợp cho
những nơi duyên nghiệp cách đò trở
giang.
Tất
cả chừng như luôn gặp phải trắc trở, khó bề xuôi chèo mát mái. Rất lâu sau mới
diễn ra cảnh lần lượt giải quyết từng bước một, khởi thuỷ là có người đứng lên
giới thiệu về tác giả cuốn sách. Từ hàng ghế đầu, một tà áo dài yểu điệu thướt
tha bước lên đứng vào chỗ chỉ định trước. Nếu đàn ông mà mặc áo dài the thì đầu
buộc phải đội khăn đóng chân mang guốc mộc (chớ xách ô cầm dù), đằng này rõ là
phái yếu áo lụa may “kiểu của bà Nhu” không cổ, màu xanh thiên thanh (viết tắc
là hai chữ T). Cô khá trẻ, không đẹp nhưng dễ nhìn, đi tay không, tự tin với nhiệm
vụ được uỷ thác, chẳng hà cớ gì phải cầm theo tờ giấy viết sẵn những chi cần
chuyển đạt. Cô tự giới thiệu là chỉ quen làm thơ thành ra e sẽ vấp váp khi bàn
tới lãnh vực văn xuôi của bạn mình, tác giả tập truyện “Sau Tà Áo Bay”, tựa đề
có vay mượn chữ từ thơ của Bùi Giáng:
“Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo bay”
Anh
đổi thế ngồi trên ghế, vòng tay ngồi ngó lên diễn giả. Người mà anh từng “Kính
thưa Anh” xong đến “Chào chị T.” Ô hay, ai đã viết ra câu “lộng giả thành
chân”? Chèn đét ơi, Bồ Tùng Linh nằm mộng cũng chẳng ngờ là đời bày ra mạng ảo,
cứ y như người từ trang sách, từ tấm tranh tự dưng hiển lộng bước ra khỏi cảnh
liêu trai chí dị. Nếu biển dâu biết sực tỉnh giang hà thì kẻ hèn này phải sực tỉnh
về chuyện hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. T. ở Mỹ và T. tháp tùng một “băng
đảng” lạ mặt vừa vượt biên sang tới xứ đìu hiu này, địa phận có nick name rất sến
“xứ lạnh tình nồng” nghe riệu mùi boléro. Con đường xưa em đi giờ đây sang xứ
người ngõ hồn dâng tái tê, tôi nhìn em không nói lòng dạ rất hoang mang người
thơ biết cho chăng?
Nhờ
tài ăn nói của người mở lời phi lộ hay sao ấy mà có đôi ba kẻ lục tục đến mua
sách tác giả có ghi tên ký tặng dưới “tựa đề ở bên trong” (Ngu Yên). Anh khác,
vườn anh không có hoa, phòng anh chẳng có sách, nên anh bỏ mặc ông mặc
com-lê-cà-vạt cứng đờ ngồi đó, để lạc thần hồn lân la sát bên vạt áo dài màu da
trời, xanh như tự thân niềm hy vọng bị người ta áp đặt vào. Họ đã áp đặt đỏ: tự
tin; vàng: phản bội. Trắng: đơn giản; đen: cô đơn. Hồng: yếu đuối. Nâu: lòng
thành; tím: sâu sắc. Gộp tất cả những màu lại: Vô sắc? Luôn luôn, anh là đứa
quáng gà, nói rõ ra anh chẳng hề biết giải thích về một điều gì cả, bởi lượng định
và so sánh là thứ mang đủ sự khiên cưỡng. Xét trong mọi trường hợp, sẽ an toàn
cho đứa chỉ biết dựa cột mà nghe, nhà Phật có rao giảng gần xa: Không nói thì
chẳng sợ gây lầm lỗi, hoặc na ná như vậy. Chúng đi lùng sục bên ngoài, ở trong
hầm mình nên nằm im re, ắt tai qua nạn khỏi. Tam đoạn luận kia đã “lạc hậu” trước
mặt người con gái (đàn bà?) áng chừng tuổi hơn bốn chục (là cao tay?) nghi bất
hoặc? Bày ra to nhỏ tấc lòng:
Chừng
nào thì chị in ra một tập thơ? Bóng hồng diện áo màu xanh phóng mắt ngó tới anh
với sóng thu ba đọng nhiều mắc câu của váng vất những dấu hỏi. Người thơ câm lặng.
Anh thưa thêm: Tôi biết có nơi hoàn tất mọi thứ cho một thi tập dày chừng 150
trang giá không mất tới hai ngàn đô đâu. Ngang đây thì người ấy có hơi ngờ ngợ
bán tín bán nghi như kiểu bước tới đèo Ngang bóng hết xế tà, trong cỏ cây chen
lá lòi ra một tiếng chuông dộng sáng. Xưa kia nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn có viết
truyện ngắn “Hình Như Là Tình Yêu”, bây chừ nhà thơ chưa chịu in sách có thể mọc
lên một ý: Hình như thằng cha này từng viết email ca ngợi thơ mình, thư đầu nhờ
toà soạn chuyển giúp. Còn ai trồng khoai đất này! Hắn ở tận phía Bắc heo hút mà
chẳng ngại cà kê dê ngỗng tới đứa ở phương Nam. Nói thế cũng hàm oan, trên
internet mần chi có rạch ròi định phận vùng miền, quốc gia này nọ thảy phù vân
treo tình trên lưới cả, đẹp xấu tuỳ người đối diện cả và sáng khen chiều chê vốn
là chuyện thường tình. Y như có vị bác sĩ (không phải thú y) lên truyền hình sửa
giọng: Cà phê tốt lắm ngen, chất nước đó giúp điều hoà kinh mạch, kích hoạt những
bộ phận trước đây từng yếu đuối, giúp sáng dạ sáng lòng. Bản tin chiều hôm sau
cho hay rằng thương hiệu Starbucks nên ghi chú ở ngoài bao bì là cà phê dễ mang
lại mầm bệnh ung thư, blah blah blah.
Người
ở Mỹ nên người hổng hay, bên Paris nói chung là dân Pháp (vừa vô địch toàn cầu
môn đá banh, món này Mỹ rất tệ) chúng xơi cà phê trung bình ngày ba tô (bằng
size tô phở nhỏ) mà có chết thằng Tây nào đâu. Uống gì nhiều dữ thần vậy cha? Ừa,
uống để ngang miệng khỏi mất công nhá Big Mac đó mờ!
Tui
biết vẽ nè. Tui biết trình bày bìa sách nè. Mà nhỡ như in được cuốn sách hổng
chừng tui dụ khị bà con đứng ra tổ chức cho đằng ấy sang đây mần buổi ra mắt thật
xôm tụ. Nghĩ trong bụng là thế mà chuyển thành lời ở cửa miệng thì thậm khó. Dù
sao thì sau rốt song phương đã biết tên thật của nhau, đã thật thà khai báo cho
số phone cũng như địa chỉ thường trú của nhau. Anh thêm: Tôi là người sẵn lòng
và quyết tâm góp phần nuôi sống nhân viên bưu điện. Tôi yêu hình ảnh chong đèn,
bơm mực vào cây viết Pilot hoặc Parker hoặc Mont Blanc, giấy xanh màu da trời
chừng ba bốn tờ, phong bì có in chữ Par Avion hay By Air Mail rồi dán con tem
tính thuế có đồng tám chín chứ bi nhiêu. Trời, khi nhận lấy, nó nằm co quắp, bị
chèn ép giữa bao tờ rơi quảng cáo, bao bức thư đòi nợ tiền điện tiền nước thật
ghẻ lạnh. Xé nó ra đọc, ôi có thứ hạnh phúc nào có thể mang ra để so sánh? Ừa,
cảm giác chẳng khác mấy khi mình cầm một cuốn sách trong tay, sướng gấp vạn lần
chong mắt trước màn hình điện toán. Một bên thấy mát con mắt trong khi bên kia
thì rất đỗi xót xa. Đọc những gì hiển thị trên lưới sao thấy khổ sở như kiểu có
người đang dí súng bên lưng! Nôm na là vạn bất đắc dĩ! Cực chẳng đã!
Trời
chiều chóng ngã về Tây, nói trắng ra là hoàng hôn khiến nhọ mặt người. Điều kiện
ắt có và đủ: Chia tay. Nguyễn Tất Nhiên bảo là “nói năng chi cũng thừa”, Hoài
Khanh thì “mây của trời rồi gió cũng mang đi” mà Thâm Tâm kết luận “người đi? ừ
nhỉ, người đi thật”. Người đi, người nhắn lại đôi câu của Bùi Giáng:
Xa nhau chừng đó cũng vừa
Gió trần gian lạnh có chừa ai đâu!
Rất
thần sầu, những gì thi nhân bảo ban. Ngậm mà nghe. Tuần sau anh đi lùng sục
trong các mạng lưới để đọc được bản tin ra mắt sách thành công dù bọn Mễ vẫn
siêng ăn đậu khiến người mình phải chăm đi trễ. Có đứa đã chụp lén ảnh người
thơ đang trò chuyện lăng nhăng cùng anh, post lên không áy náy dưới tiểu tựa
“quan khách tham dự hăng say bàn về tác phẩm”. Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi
vì đâu. Đi mà mỏi tay mỏi mắt, cái mới lạ! Đành đóng màn hình lại, ngồi không
những ưa làm thơ mới gớm. Thơ rác gửi nhà thơ tên T. Cách đây không lâu, báo điện
tử Vietnam net giật tít “Ham làm thơ khiến bị vợ bỏ” với nội dung: Từ ngày nghỉ
hưu chẳng có việc chi mần nên tui sanh ra thích làm thơ. Lơ là công vụ nhặt rau
rửa chén chăm con đổ rác nên bả chửi một hồi rồi dứt khoát đoạn tình. Bài báo kết
luận bằng hai câu: “Đãi nhau chén rượu dĩa mồi, đừng mang thơ tặng thôi rồi, chết
cha”.
Nhân
vật phụ nữ trong câu chuyện buồn nọ thật đáng khiển trách. Hại cả bạc vạn! Ai
cũng chơi theo kiểu bả thì thật thiệt hại cho nền thi ca đương đại nước nhà. Tổn
thất trầm trọng, thất thoát thơ thẩn. Ông Mao Trạch Đông khi còn tại thế làm tới
chức chủ tịch đã phán: “Các đồng chí sinh hoạt ở mặt trận văn hoá cứ mạnh dạn
sáng tác cho nhiều vào, bởi đội ngũ của ta đông vô số kể, trong một triệu bài dở
thế nào cũng nhặt ra được một bài hay”.
Thưa
thớt tin tức, tâm thần tịnh thể tương tư, thì ngày nọ “nàng” gửi bưu điện hẳn
hòi một tấm thiệp hồng. Người thơ bảo, riêng cái việc này thì chớ nên lợi dụng
quen tay đụng vào internet làm mất linh, và xem ra có đôi phần coi thường người
đón nhận niềm vui của mình. Chú rể nào ai xa lạ gì, chính là ông văn sĩ bữa nọ
sang đây ra mắt sách. Tháng tới, chắc đã lựa ngày lành tháng tốt, ổng ra mắt
quan viên hai họ người đóng vai vợ, là thi nhân môn đăng hộ đối nồi nào úp vung
nấy. Than ôi, chắc đôi uyên ương nọ chưa từng đọc qua bản tin sứt mẻ ở trên? Nếu
chồng ham viết văn, vợ chăm làm thơ thì ai nhặt rau ai rửa chén ai chăm con ai
đổ rác? Cuộc đời đó có thiếu khối chi việc mà hững hờ! Bởi lao động mục văn thơ
chưa chắc là đã vinh quang. Chết chắc, chắc chết! Tan đàn sẩy nghé, như chim
thôi liền cánh như cá hổng cắn câu (nói theo kiểu thú y). Rồi vạc sẽ kêu sương
bởi đời sinh voi mà không sinh cỏ. Con sâu làm rầu nồi canh, cẩu tặc mãi săn
lùng làm chó hết đường sống. Dồn nó vào chân tường nó hổng cắn đâu, nó chỉ biết
khóc thét!
Và
email: Đã nhận thiệp cưới của tôi chưa? Có dàn xếp qua chung vui được không? Mướn
Holiday Inc cho tiện, vì nó nằm sát nhà hàng bọn này nhắm tổ chức. Lo việc đại
sự xong, tôi sẽ xúc tiến việc in tập thơ. Ông trình bày giúp cái bìa như đã hứa?
Bằng không thì nặn óc viết giúp tôi cái tựa, hay bạt cũng được. Rồi khi mưa thuận
gió hoà, chúng tôi sẽ mang sách qua bển ra mắt một lần nữa xem sao. Nếu OK thì
đó chính là món quà cưới đặc biệt, rất giá trị mà chúng tôi có. Cảm ơn mạng ảo
đã tác thành ra tình bạn giữa chúng ta.
Anh
đóng máy, đi pha cái nồi ngồi trên cái cốc, cà phê đen đậm đặc rặn từng giọt
khoan thai tới độ ngao ngán, chưa nhấm nháp đã nghe mệt con tim. Hơi đâu ngồi
chờ đợi, anh bước ra bao lơn thắp lửa một điếu thuốc, cho khói huyền bay lên cây.
Trong mọi trường hợp, câm lặng là cách mà thiền giả vẫn thực thi. Anh làm thinh
làm tịnh, chẳng nói chẳng rằng, i meo i miếc làm chi khiến thân tâm chẳng an lạc.
Hình như trong Kiều có câu “người đâu gặp gỡ làm chi”. Anh liều đánh bài chuồn.
Xập xám chướng chia duy một cù lũ, không dương mà chẳng thủ, đành xoá bỏ một cuộc
chơi. Đơn thân, không có đồng minh để cùng tháo chạy. Cho em nhờ tí, để em nói
lời hấp hối: “Sức mọn đừng vác nặng, lời nhẹ chớ khuyên người”.