Đặng Mai Lan
Nhà văn Phùng Nguyễn
và tác giả (Cali, 2009)
Paris gần cuối mùa thu. Cây chỉ còn cành trụi.
Những chiếc lá lìa cành soãi mình an phận trên mặt đất cũng đã sẫm màu, cong
queo. Nhưng lạ là trời không lạnh. Những cơn mưa, những không gian mù sương đã
trốn biệt nơi nào. Có lẽ không khí được hâm nóng bằng máu và nước mắt từ đêm thứ
sáu, thứ sáu 13.
Tháng mười một, hoa không chỉ rực rỡ sắc
màu trên những ngôi mộ trong nghĩa trang. Hoa và nến tiếc thương tràn ngập trên
những lề đường Paris. Hoa đầy trước thềm
nhà hát Bataclan, nơi gánh chịu hậu quả tàn khốc nhất trong những địa điểm bị tấn
công đồng loạt của những kẻ khủng bố Hồi Giáo. Hơn ba trăm người bị thương và một
trăm hai mươi chín người chết. Còn những cái chết dường như đang chọn lựa trên
từng sinh mệnh trong số hơn ba trăm nạn nhân bị thương trầm trọng đang nằm bệnh
viện. Vậy mà sáng nay, nhận thêm tin của một người vừa qua đời, tôi lại không
thể tin một chút nào.
Qua đời! Sao nghe như thơ, như nhạc, như ai
đang hát “có một dòng sông đã qua đời.”
Nghe như đùa thôi.
Sau những giây phút bần thần trước khung ảnh
nhỏ của điện thoại, tôi mở máy vi tính, mở hộp thư và tìm tên anh. Để làm gì
tôi không biết. Nhưng tôi phải tìm lại dấu tích của anh. Muốn
nghe lại tiếng nói của anh qua
những con chữ nằm trong điện thư. Máy chỉ tìm được cho tôi vài điện thư
gần đây. Thư cuối cùng tôi gửi anh ngày 17/8 năm ngoái. Tôi hỏi, “Anh khoẻ
không ? ML sẽ qua Cali. Tháng chín này có về OC chơi thì cho biết. Lâu rồi
không gặp ‘xem dung nhan đó bây giờ ra sao.’” Anh nói, “Rất vui khi biết tin ML
sắp qua Mỹ, tuy nhiên rất buồn vì có lẽ không còn cơ hội gặp trừ khi ML dự định
ghé thăm thủ đô nước Mỹ. Dung nhan của tôi…” Anh đã kèm theo trong thư một
gương mặt màu vàng méo mó như khóc. Anh luôn đùa như thế. Điện thư nào của anh cũng chấm dứt bằng một ký hiệu
mang biểu tượng cảm xúc do Yahoo tạo dựng, tùy nội dung, tâm trạng của anh lúc
đó. Và ký hiệu nào cũng làm tôi mường tượng ra nụ cười của anh.
Bao nhiêu lần đến Cali, lần nào tôi cũng gặp
anh nhưng chuyến đi vừa rồi thì không. Giờ đọc lại thư cuối, sao nghe buồn như
một lời trối. Tôi cố tìm thêm một lần nữa trong hộp thư lưu trữ. Nhưng máy chỉ
còn giữ lại vài thư của tháng bảy năm vừa rồi, khi tôi gửi anh bài viết cho
NXH, những ngày ông đang nằm bệnh. Dù sao, ông NXH cũng đã đọc, đã hiểu những
tình cảm tôi dành cho ông. Còn Nguyễn Đức Phùng thì không. Anh ra đi, bất ngờ
quá. Đến lúc biết tin, tôi mới nhận ra rằng tôi đã quý mến anh biết ngần nào.
Mà sao tôi lại ít liên lạc với anh đến thế. Trễ rồi! Bây giờ thì chỉ còn tôi
nói với tôi. Trò chuyện với chính mình.
Qua đời, âm bằng của hai chữ này nhẹ hẫng,
lạ lùng như chưa bao giờ tôi được nghe qua. Tôi nói trong buổi sáng với tách
trà đầu ngày, bỏ quên nguội lạnh trong một góc bếp. Tôi nói trên những con đường
tấp nập, trên những chuyến tàu, những trạm dừng, những hồi còi hối hả rời bến.
Tôi nói trong một quán cà phê ở quảng trường Victor Hugo, một chỗ ngồi mỗi khi
tôi đến nơi làm việc quá sớm. Nói cùng nỗi buồn giữa một Paris còn đang hoảng hốt,
căng thẳng bởi trận tàn sát đẫm máu vừa
xảy ra. Và tôi nói với ký ức, hoài niệm.
Trí nhớ dẫn tôi về một ngày hè, một
quãng đường khá dài từ Winnetka về Orange County cũng phải bảy tám chục cây số. Từ nơi anh đến
nơi tôi ở chắc còn xa hơn nữa. Thế mà anh đã vượt đường để đón tôi về OC. Cũng
chỉ để rong chơi cho hết ngày. Ngày hè ấy dài đến nỗi sau khi đến nhà thăm anh
chị Nguyễn Mộng Giác, chúng tôi lại cùng với một nhà văn lão thành, một nhà thơ
trẻ đi vòng vo trên phố, rồi ngồi tiếp hai ba quán nữa. Ngồi để chờ giờ Đặng
Thơ Thơ đi làm ra, rồi đi tiếp. Lại quán, lại hàng mãi tận đêm khuya. Quán
trong phố nhỏ, quán trên đồi cao.
Tôi quen anh trước hay quen Thơ Thơ trước
tôi cũng không nhớ. Bao giờ gặp anh cũng có mặt Thơ Thơ. Sau này, qua anh tôi
có thêm vài người bạn khác. Nhưng Cali mà tôi đến và đi, mong và nhớ như thể chỉ
có Thơ Thơ và Phùng Nguyễn.
Nhớ thuở mới có email để liên lạc, hầu như
ngày nào chúng tôi cũng gửi cho nhau vài dòng thăm hỏi. Có lần anh hỏi:
– ML đang làm gì vậy?
– Làm hoạ sĩ.
– Vẽ gì vậy?
– Không vẽ mà sơn. Sơn nhà sơn cửa. Biết
sơn không? qua đây phụ đi.
– Vẽ mắt cho ML còn được, sơn ba cánh cửa
nhằm nhò gì.
Chỉ là những câu chữ trên màn ảnh, nhưng
như nghe thấy một thứ âm hưởng rặt “Nam kỳ” của anh. Anh cũng biết nghịch,
nhưng tôi thấy anh chỉ đùa với chữ nghĩa thôi. Bởi vì lần đầu gặp anh, tôi ngạc
nhiên, không nghĩ anh lại là người ít nói. Ít nói, nhưng không lạnh lùng. Là bạn
anh, gặp anh, sự nồng nhiệt, chân tình tự toát ra từ cung cách. Anh không mồm
mép, đỏm dáng. Chính điều này đã giữ thân tình lâu dài giữa tôi và anh dù sự
liên lạc khá rời rạc.
Tôi không hề biết là anh đau tim và nhiều
năm nay sức khỏe anh yếu đi. Nhiều năm nay tôi làm gì? Tôi có liên lạc thăm hỏi
anh không? Có chứ! Nhưng có bao giờ anh nói là anh bệnh.
Mới hôm nào đây anh còn cho tôi biết là anh dự định chỉnh đốn lại kệ sách và ấn hành sách theo dạng
Print-on-Demand trên Amazon như Người Việt
đã làm, và cả ebook. Nếu tôi có tác
phẩm kể cả muốn tái bản sách cũ thì cho anh biết. Cũng mới hôm nào, tôi còn rủ
rê anh và Quỳnh Loan qua Paris chơi. Tôi quảng cáo, nếu không chê, sẽ có free hotel. Không cần đi đâu xa, khoảng
hơn trăm bước là có thể đến dạo chơi trong một khu vườn nổi tiếng, rộng như một
cánh rừng. Nơi có lâu đài, cung điện, ông vua, bà chúa thời Louis XIV. Tôi nói,
đến đây là coi như đã biết được một phần lịch sử văn hóa Pháp rồi đó. Và anh
còn hỏi tháng nào là tháng tôi rảnh để anh qua Paris nữa cơ mà!
Chỉ mới hôm nào thôi! Bây giờ, nhìn căn
phòng nhỏ free hotel mà tôi nói dành
cho vợ chồng anh. Nhìn những vạt sương tối lạnh lẽo bên ngoài khung cửa sổ, dưới
ánh điện vàng trên con đường trước nhà, có tấm bảng và mũi tên chỉ hướng đi đến
lâu đài. Tôi buồn xót xa. Lâu đài nằm trong một khu vườn mà mùa xuân hoa anh
đào nở rực không thua gì xứ Phù Tang. Tôi đã hẹn anh tháng tư, mùa xuân, nơi
này, nơi vườn hoa ấy... Bây giờ là tháng mười một, anh ra đi. Không hẹn quay về,
ngay cả về với ngôi nhà, mái ấm của anh. Nói gì nơi đây.
Không biết khi nào tôi sẽ trở lại Cali?
Nhưng chắc chắn một điều là khi trở lại tôi sẽ cảm thấy thiếu vắng và buồn lắm.
Dù anh đã bỏ thành phố ấy về sống một nơi khác. Và cũng lại bỏ đi thêm một lần
nữa rồi. Anh đi, một nơi không ai biết, chỉ để lại tro than.
Tin tức đài truyền hình tối nay xác định
trong trận thảm sát kinh hoàng vừa qua, con số tử vong là một trăm ba mươi người,
vì có thêm một người mới chết. Người già nhất sáu mươi hai tuổi và trẻ nhất là
mười sáu tuổi.
Vậy mà đến giờ tôi vẫn còn chưa tin một người
sáu mươi lăm tuổi sao vội vã qua đời.
Dạo sau này, không hiểu sao những lần vào
nghĩa trang, đứng trước ngôi mộ của người thân, tôi vẫn nhìn quanh quất rồi tự
hỏi, có phải thực sự linh hồn của người quá cố đang ở nơi này, khuất sau tấm
bia cứng kia, hay đang lảng vảng đâu đó nhìn thấy tôi đến, ngắm chùm hoa tươi
mà tôi đã nâng niu đặt trên bia mộ?
Tôi đến nghĩa trang với sự thôi thúc, vì
không an lòng khi nghĩ đến hình ảnh quạnh quẽ của một ngôi mộ không hương khói.
Và tôi lại nhìn ra sự rỗng không, vô nghĩa
từ những ngôi mộ ấy. Tôi hoàn toàn không có cảm xúc. Bia mộ, chỉ nhắc nhở
tôi rằng tôi đã có một người thân không còn nữa. Có ai đó đã nói, nghĩa trang
chỉ ở trong ta. Nghĩa trang được dựng lên chỉ để cho người đang sống.
Phùng Nguyễn, một người bạn, một người anh
mà tôi thương quý đã qua đời. Mùa xuân tôi hẹn anh không bao giờ đến nữa. Tôi
đang nói với tôi điều này. Tôi ở xa, tôi không có một cành hoa, một nén hương
cho anh. Tôi không được nhìn anh phút cuối. Nhưng trong lòng tôi, trong nghĩa
trang tưởng tiếc, tôi nhớ anh mãi.
ĐẶNG MAI LAN
Paris, 11/2015
No comments:
Post a Comment