Vũ
Hoàng Thư
mùa xuân nơi đất khách
ấm mấy cũng nao người
(Thi Vũ – Mùa Xuân Xa)
Nắng
lên giữa mưa và mưa rơi chen hàng nắng. Tháng giêng lạ kỳ. Tôi như giao mùa nằm
khơi biên giới. Lạnh ướt của đông và se hanh của xuân. Không thể gọi là ấm vì xuân
hãy còn xa. Xa ngút ngàn như người đã đi mất. Bây giờ người là tro bụi nằm yên
bình đâu đó trong lòng địa cầu. Có thật Paris. không thi vũ ? Mới đó, khoảng thời
gian này năm ngoái,
người
về nơi ấy
hai
tay xuôi
môi
mỉm cười thinh không
tóc
bạc luồn mây trắng
như
sông seine êm trôi
nước
đổ dài ra nghìn dặm
bóng
là vạt nắng
vờn
bay thành hoa
hoa
nắng (1)
(Vũ Hoàng Thư - paris. không thi vũ)
Vắng
mặt có thật là hư vô, khi hiện hữu được định nghĩa bằng cái không còn?
“Thi
sĩ là người không nói, những buổi mai lúc sương đông chưa vờn qua thung lũng,
thi sĩ đã thức và gọi chim trên núi. Les Matinaux.” Les Matineaux, danh từ René
Char dùng để gọi người thơ. Phạm Công Thiện viết như thế trong Đề Tựa cuốn Dặm
Thơ của Thi Vũ, và ông kết luận “Thi Vũ và René Char cùng nhau đứng trên đồi
cao, báo hiệu cho những buổi tinh mơ thi nhân, les matinaux, và triêu dương
chuyển động.”
Thật
vậy khi ánh dương ló dạng, sương sẽ tan nhưng không mất vì sương biến dạng lánh
ngời trong mắt người nữ, hoa không chỉ khoe mùi phảng phất bên mình mà cùng gió
đưa hương về chốn nhân gian, thi sĩ sẽ khơi vơi cùng chim hát, không có gì còn,
cũng không có gì mất, chỉ là biến dạng theo dòng luân sinh, les matinaux gióng
lời nguyên sơ,
Tiếng
chim ca không ngừng bên sông
và
Hoa kia
chỉ
nói bằng hương
và
Sương
tình
nhân giếng mắt.
(CHIM, HOA VÀ SƯƠNG)
Ở
một đoạn khác,
tiếng
hát và lời ca ru gió thổi
thời
xanh qua ngọn cỏ biếc quanh đồi
tôi
bỗng nhớ tôi
trong
đôi mắt em.
(NHỚ)
Tôi
bỗng nhớ tôi / trong đôi mắt em. Đó là tiếng sấm trong lặng thinh, tiếng sấm giữa
hai thời biến dịch. Tiếng hát dậy cùng lời ca trong gió mang lại thời xanh. Tuổi
xanh. Ấu thơ. Diện mục. Quê hương. Nhớ là sống, thiếu niềm nhớ mọi thứ sẽ hủy
diệt. Tôi hiển hiện khi còn em, Em-quê-hương-muôn-vàn-xa-cách, giao thoa hòa
quyện trong liên hệ giữa người với người, chúng ta làm nên thế giới. Tôi cùng
em là lẽ không hai, bất nhị từ tia mắt. Từ đó ngời xanh cỏ biếc, từ đó tình yêu
tròn trịa hôn phối...
Quê
hương phải chăng là ‘Người’ như có lần Thi Vũ viết: “Trên tạp chí Quê Mẹ cuối
năm 79 đầu thập niên 80, tôi viết bài xã luận “Quê hương là Người” làm ngạc nhiên hay thắc mắc một số độc giả.
Thời đó, lần đầu tiên tôi cảm nhận người mới là quê hương thực. Từ nhỏ, quê
hương ám ảnh tôi qua bụi tre, ao làng, sông nước, tiếng chuông chùa… nơi chôn
nhau cắt rốn. Thử hỏi nếu không có cuốn Quốc văn giáo khoa thư thời tiểu học
đăng bài quê hương là nơi đẹp hơn cả, chắc gì những hình ảnh lùa vào mắt mỗi
sáng ta mở mi cho nắng rót từng lần ấn tượng in nên cảnh thực. Một cảnh thực chập
chùng ảo giác. Ta có sẽ thốt lên ‘quê hương là nơi đẹp hơn cả’ chăng trước những
cảnh, những hình hiện quanh thế giới chập chùng lưu luyến?” (2)
Sáng
thức dậy em không còn ngồi đó
Tất
cả thành nguyên do
cho
cuộc lữ cuối trời.
(RÁCH)
Ngày
giỗ đầu của anh Thi Vũ, tôi lần đọc lại một số thơ của anh trong nhớ tưởng. Cuốn
Dặm Thơ, như một tình cờ là cuốn tôi kéo ra đầu tiên từ tủ sách. Bìa sách tím,
mang mang phong kín Huế, bao lấy nền tranh vẽ, dáng vàng đồng cô tịch, nhan đề
bằng thủ bút của tác giả như cánh hạc bay trời Đông phương. Sao gọi là Dặm Thơ?
Dặm là đơn vị đo lường khoảng cách. Thơ có thể đo lường được chăng? Hay Thơ, viết
hoa, là một cái gì ta vươn tới, một mục tiêu bất khả đạt, nó tiếp tục di dời
trong vô vọng của kẻ làm thơ? Nếu nắm được, Thơ sẽ ngừng hiện hữu? Vậy thì Dặm
Thơ ắt là con đường Thơ đi qua? Ngẫu nhĩ đến và như nhiên đi. Như nắng, như
ngày, như mộng, như hiện sinh. Không gian tuôn khơi thị giác, kết nối thời gian
tiến tạo mốc ngày, từ mộng không, Em vỡ ra thành hiện hữu, Tôi. Em là Thơ hay
người nữ thịt xương, ta liên quan gì nhau trong thế giới diệu hữu? Cogito, ergo
sum hay tâm cảnh nhân duyên? Đừng hỏi lý do, vì đó là mối tương duyên linh hoạt
nhân gian.
Nắng
hắt lên từ mắt
Chiều
hắt lên từ ngày
Em
hắt ra từ mộng
Tôi
ra đời từ em.
(LIÊN
QUAN)
Một
bài thơ khác, mới đọc tưởng là ôn tồn thân ái giữa hai người nam nữ. Vậy mà
mênh mang trầm tịch kéo về khi ngoại giới hào nhoáng làm ta vong thân chính ta,
Biển cả neo hồn ta phương xa / Gió dìu hương lòng em xa ta. Phải chăng ảo ảnh của
một lý tưởng tốt đẹp đã làm tối mắt ta? Mùa thu cách mạng năm ấy, biết bao
chàng thanh niên bỏ tất cả cho một mục đích hào hùng để rồi thất vọng não nề?
Trông một người giông giống / đến gần chẳng phải em.
ẢO
ẢNH
Sóng
triều xưa không nhìn
nhìn
môi em
Nắng
trời xưa không nhìn
nhìn
mắt em
Mây
trời xưa không nhìn
nhìn
tóc em
Biển
cả neo hồn ta phương xa
Gió
dìu hương lòng em xa ta
Sóng
chiều nay ta nhìn
môi
em không còn nữa
Nắng
trời nay ta nhìn
mắt
em không còn nữa
Mây
trời nay ta nhìn
tóc
em không còn nữa
Trông
một người giông giống
đến
gần chẳng phải em.
Thi
Vũ tham gia phong trào chống Pháp từ hồi rất trẻ, bị mật thám Pháp ở Huế bắt
giam năm 1949. Đó cũng là năm tôi còn nằm trong bụng mẹ. Tôi nghe kể, mẹ tôi
khóc lóc nhớ thương anh dữ lắm, bỏ ăn bỏ ngủ. Sau đó anh bị mật thám buộc phải
rời Huế, anh theo kháng chiến ngoài Việt Bắc một thời gian. Anh phát hiện rất sớm
mưu đồ cọng sản lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để cướp công trong phong
trào kháng chiến nên đã bỏ về thành, sống một thời gian ở Đà Lạt rồi du học
Pháp. Màu cờ đỏ mùa thu cách mạng thôi mang màu máu sục sôi huyết quản vì nó đã
biến dạng thành màu đỏ ối đậm đặc, bầm rỉ trên thân thể những con người bị đấu
tố, thanh trừng. Ngôi sao kia chẳng còn là tinh tú hướng đạo soi đường, mà đã
trở thành xa tít lịm mờ trong lệ tủi oan khiên. Bài thơ “Tuổi thơ Huế” đánh dấu
một bước ngoặc trong đời anh. Một tuổi thơ, vì cha / hay bởi vì ai / con ba tuổi
lớn / đứng phà / đợi sông (Vì đâu, thơ Rằm).
TUỔI
THƠ HUẾ
Với
tay vẫy
chào
sông
Với
trái tim
gọi
núi
Với
mây trắng
chia
tay
Người
đuổi tôi xa thành phố
Người
xua tôi xa tuổi thơ
Xô
tôi vào cuộc lữ
Người
đâu biết
mắt
thơ tôi để lại
trong
trăng
tuổi
thơ tôi
nơi
hoa quỳnh
nguyệt
vọng.
(Huế,
1949
Giáp
Tết rời Lao Mang Cá, bắt phải rời Huế)
Thế
rồi anh lao mình vào nơi gió cát, hứng chịu bao nhiêu phù phiếm biển dâu đổ vào
đầu, bài thơ “NHẬT KÝ GIỮA LOÀI CHỒN CÁO XUYÊN SA MẠC TUYẾT BẮC MỸ CH U” vạch lộ
sự nham nhở, lừa đảo nơi cuộc đời dưới những tấm áo hào nhoáng bên ngoài của những
kịch sĩ đại tài mang danh nghĩa “Triết gia”, “Thi sĩ”, “Tăng sĩ”, v..v... Thi
Vũ đã phải rời bỏ hí trường đó sau 7 năm dấn thân để ra đi vì anh kinh tởm sự
giả dối, cho dù nhớ đã se tim đường lữ thứ / một mình đem vó đọ thinh không (Độc
mã). Đoạn cuối số 12, trong bài thơ dài 12 đoạn, kết thúc như thế nầy,
12. Tiếng nói trong ngày giã từ
Tiếng
con sáng ngát thuỷ tinh
không
để lộn sòng
tiếng
hét la diễn thuyết
tiếng
con má áp vào chuông
trầm
cung ngân vọng
Những
bóng ma thầy tiệc tùng trên mộ địa
giữa
chốn tồn sinh
Chốn
này đây bảy năm gìn giữ
chưa
một lần cúi quỵ
tà
áo quỷ phất qua
Trời
sáng rồi tôi phải ra đi
Những
thượng đế của đời
đuổi
người vào cơn khổ luỵ
Trời
sáng rồi tôi phải qua sông
con
đỏ bồng tay
giòng
Marne tuyết tràn
chân
lún dấu bùn nhìn cao Bắc đẩu
Tôi
ra đi
tiếc
thương cây Tuyết đào chưa kịp nở chia tay
em
ở lại nhe
hồn
hoa trinh bạch
tới
xuân ta lại trở về
tới
xuân chim sẽ báo tin
Cuộc
tồn sinh chung thuỷ.
(1970 - Ngày giã từ ông Thầy tu giả
hiệu)
Im
lặng hay nói thẳng vào mặt những phi lý cuộc đời luôn là câu hỏi, đặc biệt đối
với Thi Vũ, một người suốt đời tranh đấu cho nhân quyền và tự do.
Thơ
giết thơ trong trứng
Đời
giết đời khi sinh
Người
giết người khi gặp
Lời
giết lời nói năng
(IM
LẶNG)
Tuy
vậy như tự bẩm sinh Thi Vũ không ngớt yêu thương, ngợi ca trần gian, tin tưởng
và sống với Chân, Thiện, Mỹ, những kim chỉ nam con người phải luôn hướng đến.
Nước
ơi có nhớ mùa nhân ái
Đất
hé đầu tiên lá lục cài
Bỗng
nhiên hoa nở như vành nguyệt
Xinh
đẹp làm sao một cõi người.
(CÕI
NGƯỜI)
Hãy
là người
đứng
bên cạnh con người
khước
từ tiêu huỷ.
(WE
TWO FORM A MULTITUDE)
tôi
quỳ dưới mái tóc xanh
ngẩng
đầu xin khấn
đừng
giết nhau cho lời thương lên tiếng
gọi
nhau về.
(DÂNG
HIẾN - 1965)
Tháng
5, 1985, anh Thi Vũ cùng chị Ỷ Lan qua New York để nạp đơn kiện chính quyền Hà
nội trước Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc về việc Việt Nam thiết lập trại “cải
tạo” [sic] nhằm giam giữ, đày đọa tù tội hàng trăm ngàn cựu quân cán chính Việt
Nam Cọng Hòa sau 1975. Sẵn dịp anh bay về Cali thăm tôi. Cũng hơn 30 năm anh em
mới gặp lại nhau. Nếu tính thời gian anh em chúng tôi sống gần nhau trước 1975
thì số ngày chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Bài thơ dài “Đêm California” nhắc đến
hầu hết những nhân vật tiếng tăm chốn thủ đô tị nạn Litle Saigon thời ấy. Tôi đọc
được điều sót lại trong anh ở cuối bài thơ có lẽ là sự cô đơn, một tâm trạng
bùi ngùi trước kho tàng thời gian quý giá thiên hạ đã đốt cháy vô vọng trong 10
năm,
Tôi
ngồi ngó gọi xin ly rau má
Đêm
Cali
còn
chi
khi
từ giã
mai
đi rồi để nắng lại quanh năm
người
gọi rằng xưa
nay
biệt lối
người
vừa tới
ôm
mối sầu rượu độc
Đêm
Cali mười năm qua vẫn thế
ngôn
ngữ đêm
là
môi em vồn vã
tiếng
hát ngày là mắt
chốn
mây qua
Và
có tôi
khua
tiếng cồng du mục
suốt
rừng nho qua sóng biếc ghềnh xa.
(ĐÊM
CALIFORNIA
Los
Angeles tháng 5.1985)
Chụp
mũ thành một thứ vũ khí đội lên đầu người khác mà ta không ưa thích, những mối
thù ghét xuất phát từ lòng đố kỵ, tị hiềm. Mũi tên được bắn ra, ta bị kết án
thành kẻ phạm tội với đủ danh xưng: phản chiến, CIA, Việt cộng, Phản động, Mỹ
Ngụy, tay sai Hồ, đầy tớ Ngô, v..v... Đối với những người quen việc kết án, Thi
Vũ chỉ có một câu hỏi giản dị cho họ,
Các
Ông đã làm chi
Những
ngày tôi phạm tội ?
(BIA MIỆNG)
Tập
thơ Mùa Rêu xuất bản năm 1966 gồm 12 bài lục bát nay được gom lại đặt ở cuối tập
Dặm Thơ. Đơn cử dăm câu lục bát đẹp thời 60 thế kỷ trước từ Mùa Rêu:
đêm
qua sao ghé về tim
hạt
xoay di động mùa sim xông rừng.
(MẮT
NAI)
phòng
kia năm trượng còn thang
cửa
xô lạc thức rảo vang tinh cầu.
(LA
CHOPE
VẮNG
SYMCHO MOSZCOWICZ)
chút
duyên trả cõi mù loà
mi
đôi khép mở trông nhòa lối xưa.
(TRÙNG
PHÙNG)
lời
chưa cất cõi chia nhà
gió
lâm râm lá người xa nghe gì
đời
quanh quẩn đảo thầm thì
giú
trong mây tóc xanh rì bến không
(HOA
ĐỖ QUYÊN)
vỏ
gầy ôm mặt cố hương
lắng
khoe dấu lục giú phương thu vàng
trái
từ vô vọng cưu mang
ngủ
yên vô lự trẩy ngàn trùng xanh
(NGÔ
ĐỒNG TRỖ LỤC)
Bài
viết này không nhắm đến điểm sách về tập Dặm Thơ của Thi Vũ. Một số bài tôi ngẫu
nhiên đọc và nhắc đến như một sự tưởng nhớ trong ngày giỗ đầu của anh. Rất nhiều
thơ trong tuyển tập, hy vọng tôi sẽ nhắc đến trong những lần khác khi có dịp.
Tôi
trích hai câu thơ từ bài “Mùa Xuân Xa” của anh Thi Vũ, làm năm 1955, đề ở đầu
bài viết, vì nhớ đến ngày tang lễ của anh năm ngoái, một đoạn trong điếu văn
tôi đọc cho anh như thế này:
“Anh
Thi Vũ,
Hôm
nay thật sự là Mùa Xuân Xa vì anh đã vĩnh viễn ra đi. Quả thật bây giờ có ‘ấm mấy
cũng nao người’! Chúng em mất đi người anh Cả đáng kính, chị Ỷ Lan và các cháu
mất đi một người chồng, người cha thân yêu, nước Việt Nam mất đi một người con
ái quốc đã hiến dâng trọn đời mình cho quê hương Việt Nam. Lý tưởng phụng sự của
anh sẽ không bao giờ tắt trong lòng chúng em cũng như trong lòng biết bao người
Việt Nam khắp mọi nơi trên thế giới. Xin chào vĩnh biệt anh!”
VŨ
HOÀNG THƯ
Tết
Giáp Thìn, 2024
1.
Hoa Nắng, thơ, Thi Vũ, nxb An Tiêm, Saigon, 1970
2.
Quê hương là Người, trích “Sống nơi cõi Người”, Thi Vũ, chưa xuất bản
Thơ
in chữ nghiêng (italic) trong bài viết được trích từ Dặm Thơ, thơ, Thi
Vũ, nxb Quê Mẹ, Paris, 2018.
No comments:
Post a Comment