Lưu
Na
Trường Gia Long. Sài Gòn xưa
3.
Ngày
thật nóng và thường mưa lúc 4 giờ chiều khiến mọi dự tính càng mỏi mệt. Ngà nửa muốn đi chơi xa cho khỏi phí những
ngày về thăm quê, nửa muốn ở nhà với gia đình.
Chờ mọi người trong nhà cùng rảnh để có một chuyến đi, chờ Loan xong
chuyến ra Trung trở về, sự chờ đợi như bầu không khí oi bức trước cơn mưa –
ngày càng to rộng như muốn vỡ toang mà không thể. Ngà muốn được đi trên những con đường của
thành phố. Khởi đầu những chuyến tắc
xi. Đường phố bây giờ sạch sẽ và bớt ồn
ào hơn cách đây 7 năm (người ta nói mỗi năm là đã mỗi khác). Nhiều cao ốc, nhiều công trình xây dựng mới
hơn, nhưng Ngà mừng nhất là những hàng cây xanh phần nhiều vẫn còn nguyên đó, đặc
biệt trên những con đường nhỏ. Góc đường
nào cũng có thể có bồn hoa hoặc cây cảnh.
Xe chạy dưới những hàng cây cao mang lại cho Ngà những kỷ niệm êm đềm,
những hình ảnh đã bao năm nằm trong trí nhớ cho dù nay đã khác xưa. Ngà ước ao thành phố ngừng phát triển ngừng
xây dựng, để Ngà còn có thể về lại chốn xưa mà không phải ngỡ ngàng như Từ Thức
về trần, nhưng Ngà biết năm sau trở lại có thể những hàng cây này sẽ được thay
bằng một cái gì khác hào nhoáng hơn, và cái cao ngất của cổ thụ trong lòng phố
nhỏ rồi sẽ là một tiếc thương mới chồng lên những tiếc thương. Nhưng thôi, hãy sống ngay bây giờ với tàn lá ấm.
Anh
chị luôn gọi Grab cho Ngà, một dạng Uber bên Mỹ, vì Grab rẻ và tiện, chỉ cần bấm
app. Vài ba lần, Ngà thấy ra không tiện
và cũng không rẻ hơn taxi thường. Dùng
app phải luôn có Wifi, không phải ai cũng mua, và rồi vẫn phải nói qua điện thoại
để xác định vị trí, nghĩa là phải qua 2 chặng.
Giá cả của Grab mắc trong giờ cao điểm, muốn rẻ phải đi những giờ phố tạm
vắng, mà công việc hẹn hò nào có chờ ai!
Anh VinaSun xác nhận: giá Grab bây giờ cũng tương đương với taxi, chỉ tại
người ta nhập tâm cái chuyện Grab rẻ.
Ngà
vào xe, anh tài xế chào đón:
–Chị
đi thẩm mỹ viện hay đi nha sĩ?
-À,
tôi đi Diamond Plaza. Người đi taxi thường
là đi thẩm mỹ viện và nha sĩ hả anh?
–Dạ,
Việt kiều về đây nhiều nhất là đi 2 nơi ấy, kế đến là chỗ mua sắm và ăn uống.
-Nhưng
ai cũng giống ai, làm sao biết là dân địa phương hay Việt kiều? Chắc Việt kiều ăn mặc lôi thôi chứ không tươm
tất như người mình phải không?
-Không
phải vậy, nét mặt họ khác.
-Khác
cái gì?
-Trông
họ sáng láng thoải mái hơn!
Ngà
cười thầm, anh này mất quan điểm lập trường quá, nhưng anh đã nói tiếp,
–Cách
nói chuyện cũng khác. Họ ít khoe và hay
hỏi! Ngà tự hỏi không biết anh có nghĩ
mình hỏi vớ vẩn! Như để giải thích cái
chuyện ai sáng láng hơn ai, anh nói tiếp:
–Ở
đây giàu thì rất giàu, khoe thì không còn chỗ.
Đi xe mô tô phân khối lớn giá hơn trăm nghìn đô mà mặc quần short tennis
áo polo. Người ta ở Mỹ đội nón bảo hiểm
to, mặc quần áo da để bảo vệ thân thể còn chưa xong… Xe to máy rất nóng, chỉ cần nó đổ đè lên người
thì chết bỏng. Cái bọn khoe ngu…
Anh
nói tiếp năm ba câu chuyện về cung cách của khách hàng gọi taxi. Ngà ngẫm thấy giới tài xế cực quá. Họ lái xe một ngày 10-12 tiếng, 6 hay 7 ngày
một tuần mới mong đủ sống. Với giá xăng
leo thang như bây giờ mà mỗi người khách gọi taxi rồi bỏ đều khiến cho tài xế
thiệt thòi: hoặc họ phải từ chối mối khác trên đường đến đón mình, và cả tốn
xăng nếu như đến nơi hẹn mà người gọi taxi đã nhảy lên xe khác cho nhanh hơn được
5, 3 phút!
Anh
taxi dừng xe, chỉ lối vào cho Ngà và dặn cách gọi taxi lúc ra về. Yên tâm!
Ngà
dạo quanh nửa giờ và nhận ra, hàng hiệu, dù là quần áo, mỹ phẩm, hay đồ tiêu
dùng đều tựa như xe hơi, giá mắc hơn bên Mỹ.
Riêng cái khoảng xe hơi thì phải nói là chóng mặt: xe cũ giá gấp đôi, xe
mới gấp 3 gấp 4, và xe sang gấp 6 gấp 7 thêm các khoản phụ phí đổ mồ hôi. Mới hay dân mình bây giờ giàu hết biết. Không tìm được món hàng mình cần, Ngà ra đúng
cửa khi nãy anh taxi dặn và lên xe về.
-Anh
có đủ tiền thối tờ 500 không?
-Dạ
em vừa hết vì thối cho khách trước.
-Chết
rồi, tôi chỉ có bốn mấy ngàn.
-Không
sao, chắc đủ rồi, mà thiếu chút đỉnh nhằm nhò gì.
Cái
giọng miền Nam chân chất khiến Ngà tin anh nói thật, nhưng Ngà vẫn gọi anh rể.
-Em
trên taxi, khoảng 10 phút nữa tới ngõ, anh mang tiền ra chuộc em nha!
-Rồi
rồi, anh rể cúp.
Anh
taxi lắc đầu,
-Em
đã nói là không sao, mà như nếu có muốn trả đủ thì nói ảnh đem ra cho mượn một
hai trăm ngàn, chớ chi đến nỗi phải chuộc!
Ngà cười òa,
-Là
nói cho vui đó thôi, chứ biết em có lòng tử tế, chỉ là không muốn em thiệt
thòi.
Xe
tới đầu ngõ, anh rể vừa ra tới, tài xế hô: ba mươi lăm ngàn, em đã nói là đủ
mà! Ngà trao hết số tiền bốn mấy ngàn
cho anh, lòng thật mát!
Anh
rể cười cười, ba lăm ngàn cuốc xe đó thì rẻ, hắn đã không nhấn ga bấm số với
dì. Ngà thấy thương họ, quả những lời đồn
trên mạng rằng dân Sài gòn sởi lởi không sai.
Vẫn
còn sớm, Ngà gói mấy tấm áo dài vào bao rồi gọi Lan lấy địa chỉ và lại trở ra đầu
ngõ đón taxi.
Đường
đến nhà Lan cũng khá xa và địa chỉ có vẻ không rõ ràng. Ngà dùng google để dò đường phụ tài xế. Em nói chuyện rất dễ chịu và lịch sự, cái
chuyện tên đường và số nhà chợt dẫn đến các loại xe!
–Xe
VinFast lấy mẫu của Bi Mờ đó chị, em nói.
Hm, Bi Mờ, Ngà tự hỏi em từng ở Mỹ?
–Như
vậy là mình mua quyền sản xuất hả em?
–Dạ
đúng.
–Giá
thành chắc là mắc, đâu ai mua để làm taxi phải không?
-Dạ
xe nhỏ thì cũng không mắc, nhưng mua xe loại nào là tùy nhu cầu. Xe dùng cho taxi không cần sang mà cần bền và
dễ sửa, ít tốn xăng.
Cái
cách trả lời và kiến thức của em khiến Ngà chợt thấy lạ.
-Em
có học đại học không vậy?
-Dạ
em có bằng kỹ sư điện tử.
-???
-Những
việc em tìm được chỉ toàn là “sale” chứ không đúng ngành học. Làm một thời gian em chán nên cho phép mình nghỉ
3 năm. Em lái taxi để bù đắp, không dè kẹt
thêm hai năm Covid. Để qua rồi thì em sẽ
trở lại tìm việc!
Ngà
nhớ tới hai bận làm nghề taxi bất đắc dĩ của mình. Lần đầu là công việc trong chương trình vừa học
vừa làm dành để trợ giúp cho học trò đại học cộng đồng, lúc Ngà vừa qua Mỹ. Trong ba tháng hè ấy Ngà đã đưa đón một ông họa
sĩ Việt Nam đi bác sĩ nhà thương gì đó.
Tên của ông Ngà đã có nghe qua, nhưng lúc ấy cuộc sống nhiều nỗi lo toan nên Ngà chẳng nhớ được
tên ông sau đó. Lần thứ hai làm công việc
tài xế chỉ là chuyện tình cờ nhưng đã lưu lại lòng Ngà nhiều điều suy nghĩ.
Lúc
ấy Ngà mỗi chiều vào nhà dưỡng lão với Má, tiện thể thỉnh thoảng mua giúp cho
người này món đồ chở giúp người kia một đoạn đường. Ngà gặp ông bà ngay tại nhà dưỡng lão ấy, vào
thăm một người bạn già vừa xuất viện cần được chăm dưỡng. Khi Ngà ra về, thấy hai ông bà đang lúng túng
vì không liên lạc được với người đón, Ngà đã mau mắn nhận lời chở giúp ông bà về
nhà. Ngà không hiểu điều gì nơi ông bà
khiến Ngà sinh lòng lân mẫn, là cái giọng Bắc nhẹ nhàng của Hà Nội xưa hay là sự
từ tốn dè dặt của những người muôn năm cũ, là gì cho đến bây giờ Ngà vẫn không
phán định được, nhưng chẳng bao lâu sau Ngà hưu non và đã trở nên một người tín
nhiệm thân tình để đưa ông bà đi đó đây.
Ông nhất quyết trả tiền công, Ngà chỉ muốn giúp đỡ. Hai bên thỏa thuận giá cả mỗi buổi đưa đón là
một bữa ăn trưa. Bà cười vang sung sướng. Những buổi đón đưa ngày một kéo dài và thường
xuyên hơn. Không chỉ đi ăn, đi chợ, Ngà
kiêm luôn thông dịch viên trong những buổi hẹn với văn phòng chính phủ, thành
người chăm sóc sức khỏe những khi bác sĩ dặn dò, người liên lạc những khi bạn
già không ới được nhau và muốn gặp nhau, luôn cả công việc lặt vặt tìm mua những
gì cần thiết… Cái job lương ăn trưa ấy
chiếm một phần đời của Ngà. Nhờ chăm sóc
Má mà Ngà có thể giúp ông bà đắc lực, nhưng cũng nhờ ông bà mà Ngà hiểu nhu cầu
của Má hơn. Trong việc giúp người đã đến
cuối đường, Ngà thấy được những con đường chưa kịp bước qua: những khi ngồi vào
tay lái là những khi Ngà tìm đến được kho tàng văn hóa cũ. Vào xe bà thường dành ngồi ghế sau cho rộng
rãi, ông thường ra trước ngồi bên tài xế vì không muốn cách biệt! Bà thường cười khanh khách thú vị những khi
ông ung dung nhẹ nhàng thản nhiên kể những câu chuyện động trời của Sài gòn
xưa. Ông là một cái kho của rất nhiều
chuyện hậu trường văn nghệ văn gừng, chuyện thật chuyện giả, cũng là một tay
chơi dông dài của ngày tháng cũ. Nơi
ông, cái kiến thức và kinh nghiệm hòa trộn nên một suy nghĩ vững vàng, một suy
tư khác biệt và mới, so với cái văn hóa khá cũ đã hình thành nên chính
ông. Rất lạ, Ngà thấy ông cũng là một dạng
năm bảy lá gan, nhưng cũng lại chính ông là người chăm chút cho bà từng li từng
tí một cách kín đáo bằng tất cả sức lực và cố gắng của một thân thể héo tàn run
rẩy mệt mỏi. Có những buổi đi xa, Ngà
kiêm luôn việc thu xếp sao cho thích hợp và dễ dàng với ông bà. Dặm đường lái xe chỉ còn bị giới hạn bởi sức
người, cho đến một ngày. Ngà trở lại sau
chuyến nghỉ hè 3 tuần, ông gọi Ngà đến đón, chỉ mình ông.
-Cô
đâu rồi hả chú, bịnh hay sao?
-Bà
ấy mất rồi!
Ngà
thẫn thờ. Vẫn biết phải có ngày này bởi
bà đã ngày một yếu đi với căn bịnh bất trị, nhưng khi nó đến người ta vẫn phải
bàng hoàng.
Ngà
chở ông thăm thẳm một con đường, chờ lời yêu cầu cho điểm đến, cho một điều gì
đó cần làm. Nhưng không có gì cả. Ông chỉ lặng im suốt một giờ ngồi trên xe,
nét mặt hững hờ xa vắng. Sau cùng ông
nói:
-Tôi
không được thấy mặt bà ấy phút sau cùng.
Bà ấy chết khi vừa đến bịnh viện.
Lại
thêm nửa giờ im lặng qua đi. Ngà ngỏ ý
muốn được thăm mộ, ông gật đầu.
Chặng
đường mới bắt đầu, với mỗi 10 giờ sáng ông gọi đưa đi mua ly cà phê rồi ra mộ
ngồi. Cái bóng gầy héo hắt, ánh mắt xa
xôi. Ông chỉ ngồi được 10 phút, đủ cho
Ngà thắp ba nén nhang, sắp xếp chậu hoa mới mang đến, dẹp bỏ vài cành lá khô… Rồi
ông quay bước ra xe, chân thấp chân cao như kẻ vô hồn.
Một
ngày khi bó nhang để trong cốp xe đã hết, ông đòi đi ăn. Ngà khấp khởi mừng thầm ông đã trở lại được
nhịp sinh hoạt cũ. Ông ăn từ từ chậm
rãi, ăn cho có, ăn để mà ăn. Và ông nói,
nói những lúc ông chợt giật mình thấy mình ngồi trước màn ảnh computer không
khóc mà nước mắt ràn rụa, thấy nụ cười và ánh mắt nơi khuôn hình của bà dõi
theo ông mỗi khi ông bước quanh trong căn phòng khách nhỏ. Cho dù bao nỗi hắt hiu tràn đầy trên mặt
trong mắt, giọng ông vẫn đều đều thản nhiên.
Ngà chở ông về căn gác nhỏ. Lên đến
cửa ông từ từ chậm rãi mở khóa và quay lại nhẹ nhàng bảo Ngà:
–Từ
đây về sau cô không cần đón tôi nữa, cô nhớ bảo trọng.
Ông
vỗ nhẹ lên cánh tay Ngà thay cho lời giã biệt.
Cánh cửa xanh thẫm khép lại. Ngà
lái xe về, tự hỏi trong những năm vừa qua mình đã ăn với ông bà bao nhiêu bữa
trưa, mình đã đi với ông bà bao nhiêu dặm đường, mình đã cười bao nhiêu trận lo
bao nhiêu điều, đã biết hết chưa Sài gòn ngày tháng cũ? Hỏi để mà hỏi, Ngà không trả lời mình. Tài xế e có khi phải chở quá nặng cuộc đời.
–Đến
rồi chị, em taxi nhẹ nhàng nói. Ngà trả
tiền, chào em, đôi bên chúc nhau những lời vui vẻ và Ngà tưởng như mình đã nói
chuyện với một người quen bên Mỹ!
Ngà
vào nhà Lan, cái chuyện trước tiên là vào phòng ngủ nằm ngả xuống giường chờ
máy lạnh làm dịu mồ hôi. Vẫn lấn quấn
câu hỏi “làm sao sống được,” như thể mình có dự định về lại quê nhà để dưỡng
già. Hai đứa nằm bên nhau nói chuyện tào
lao rồi dẫn nhau ra vườn chụp hình. Mồ
hôi vắn dài, được khoảng một tiếng thì chấm dứt chương trình “tạo dáng!” Lan cho Ngà ăn bánh hỏi heo quay và lẫu rau
các loại với mì. Ăn bát canh rau thật
mát ruột, Ngà bỏ qua các món khác và tận tình xơi món lẩu. No kềnh, lại chuyện tào lao. Ngà nghĩ, người ta có thể nói chuyện xã giao
qua quýt, nhưng tào lao đòi hỏi một quan hệ có cả chiều dài và chiều rộng để có
thể thò chân xuống mà khuấy động mặt hồ.
Tình bạn thường hình thành một cách bất ngờ không tùy thuộc vào sự lựa
chọn, và tuổi thọ của nó cũng lại định bởi những cơ duyên của cuộc đời. Với một người đã muôn dặm xa quê như Ngà, điều
gì còn lưu giữ được đều trở nên quí giá.
Gió
chợt mát lạnh và trời dịu hẳn xuống. Ngà
nhìn đồng hồ.
–Thôi
tao về, trời mưa đón xe lật đật lắm.
-Ừ,
vậy thôi nha. Chữ thôi âm thầm rơi xuống,
mình chưa chia tay nhưng đã từ giã nhau ở nơi này. Ngà vào taxi, thấy mình lại “một mình làm cả
cuộc phân ly.”
4.
Hết
dự tính đi chơi này phải bỏ vì quá mắc đến dự tính đi chơi kia thua vì hết
phòng, cả nhà đành tái bản đi “Vũng Tàu” bởi đi xa hơn phải tốn nhiều ngày và
như vậy sẽ không đủ mặt mọi người.
Vũng
Tàu, bãi Trước dơ đến nỗi chỉ dám thò chân nhúng xuống nước cho có! Ngoài các thực phẩm đồ biển là chính, Vũng
Tàu còn có cỡ 18 tiệm bánh khọt bên cạnh các tiệm ăn khác. Các món bình dân và rẻ tiền ngày xưa bây giờ
trở thành món đặc biệt tựa như những con gì gì đó mình chả bao giờ muốn ăn giờ
thành đặc sản! Đi qua 10 cái bùng binh
và độ hơn chục tiệm cơm niêu thì đến được tiệm cơm niêu “chuẩn!” Vì đã gọi trước đặt bàn luôn cả món ăn nên
gia đình Ngà được xếp chỗ cùng lúc với một nhóm trẻ và trẻ con hơn chục người
đã đợi từ trước. Thức ăn dọn ra, bên kia
khiếu nại luôn một thể cái chuyện xếp bàn, cái chuyện bàn bên tới sau ăn trước. Nhưng không thấy họ thắc mắc sao bàn bên có
thức ăn mà không có cơm – cơm nấu không kịp!
Cái
giọng oe óe cứ lanh lảnh bên tai suốt buổi ăn, gọi hết món này sang món khác, họ
ăn như không biết no! Và cái giọng oe óe
ấy còn vang suốt luôn cả thời gian ở Cấp, hầu như khắp mọi nơi. Từ cửa phòng ra đến bãi tắm, từ chỗ đậu xe đến
quán ăn, nơi vui chơi công cộng… Rất tự
tin, rất thoải mái, như toàn bộ đất đai lãnh thổ đều là sân nhà mình. Thanh niên tuổi đôi mươi còn mang theo cả bộ
dọc tẩu thuốc lào kéo ro ro trước cửa tiệm trong lúc chờ bàn. Thảng hoặc nghe được một giọng trầm, một tiếng
nói nhỏ nhẹ thì mới tin là mình không đi lộn đất. Anh chị em chỉ nhìn nhau mà cười. Không biết ở những địa điểm du lịch khác có
âm thanh gì chờ đợi mình…
Ngà
về đến Sài Gòn thì hâm hấp sốt. Bác sĩ
cho miếng giấy đi thử máu.
Viện
Pasteur không nhận thêm thử nghiệm vì thiếu nhân viên, đành phải vào Chợ Lớn. Trung tâm này lớn thứ 2 sau Pasteur, xe đến
xe đi người ra người vào như hội chợ.
Chưa kịp vào cửa, một thanh niên giống như bảo vệ chặn lại. Anh ta chỉ tay ra phía bên phải, bảo:
-Chị
đi tới một chút là văn phòng ghi tên thử nghiệm, cửa này hiện đang chuẩn bị cho
xe cấp cứu vào.
Ok,
đi tới. Bước vào, một lô nhân viên ra nhận
giấy, điền sổ sách, nộp tiền và dẫn lên lầu gặp “bác sĩ.” Trong vòng 10 phút lấy xong mẫu máu và nước
tiểu, mời xuống lầu chờ lấy kết quả. Ngà
chưa kịp khen sự mau chóng đắc lực và đổi mới của dịch vụ y tế thì được mời ra
bàn kế toán.
-Em
trả lại chị 425 ngàn, xin chị ký vào sổ.
-Tại
sao?
-Tại
vì dịch vụ của em không thể thực hiện thử
nghiệm máu phức tạp như toa của chị đòi hỏi.
-Ủa,
đây không phải…
-Tụi
em có người đưa chị qua nhà thương chính ở bên cạnh!!!
Ngà
vẫn chưa hiểu hết mọi sự, bước chân theo người thanh niên vào nhà thương. Anh ta giúp ghi tên, nộp toa, và đóng tiền, rồi
mới nói rõ:
-Bọn
nó cò mồi dẫn khách cho văn phòng thử nghiệm tư ngay sát bên nhà thương. Họ không phải trực thuộc nhà thương.
Ngà
nghĩ tới lớp lớp người vào ra nơi cái phòng thử nghiệm lập lòe ấy mà ái ngại,
nhưng nỗi ái ngại chưa lên tới đâu thì phải nhường cho sự hồi hộp không biết
mình đã có rước thêm vào người thứ bịnh gì qua mũi kim lấy máu của họ.
Họ
chỉ có thể làm những thử nghiệm đơn giản, không chắc tìm ra được bịnh trạng gì mà
tính giá tiền gấp ba lần giá nhà thương đòi.
Những người nghèo mắc bịnh e chết trước khi tìm được đúng bịnh, vào được
đúng nơi chữa trị. Về đến nhà thì Ngà
cũng nghĩ ra, rằng chính anh thanh niên đưa Ngà trở lại nhà thương cũng là
trong bọn cò mồi, bởi nhà thương chẳng ai quởn mà ra giúp dân! Anh ta sợ bị chửi thay cho đồng bọn nên đóng
vai anh hùng cứu mỹ nhân ngu! Cái ngọt
ngào xởi lởi của người Sài Gòn chỉ còn như giọt sương hiếm hoi trong trời nắng
hạn. Ngọt ngào ấy cũng có thể cắt ngọt đến
xương.
Nỗi
ngao ngán khiến Ngà quên cả cơn sốt đang hành hạ. Ngà bật cười khi nhớ đến sự khác biệt: cái
phòng thử nghiệm dỏm ấy có số nhân viên bằng một nửa số lượng khách hàng, dẫn dắt
mời chào nhanh như chớp, bước một bước qua nhà thương chính thì không ai nhìn
mình và không ai chỉ dẫn mình. Có lẽ đó
là một đặc điểm để phân biệt chân giả!
Anh
chị có vẻ ái ngại, nhưng lòng Ngà còn ái ngại hơn khi nhìn hai mái đầu điểm bạc. Sáu mươi lăm tuổi, đã phải nghỉ làm từ lâu vì
luật lao động nhưng lại không có lương hưu vì không phải là công chức. Không có trợ cấp xã hội họ sống bằng gì? Chút tiền dành dụm còm cõi sao đủ để vào bịnh
viện Việt Pháp hoặc những bịnh viện tử tế tính rất nhiều tiền? Dẫu trời sinh voi sinh cỏ, dẫu hy vọng xã hội
ngày càng tốt đẹp vẫn hiện diện, lòng tin vào nhau lại sẵn sàng bị cướp bất cứ
lúc nào. Ngà nằm mãi trên phòng không buồn
xuống ăn cơm. Mai này lại bỏ lại anh chị
với cuộc sống không có gì để “hồ hởi” sao thấy lòng thắt lại không yên. Má, Má ở đâu, Má còn có thể bảo bọc cho những
đứa con như ngày nào nơi dương thế? Trời
đổ cơn mưa chiều, Ngà xuống thắp cho Má và em nén nhang, đốt cho nó điếu thuốc
rồi lại trở lên phòng. Trời buồn chăng
giăng giăng mưa lạnh-Đất mừng chăng hứng nặng giọt sầu.
Cơn
sốt còn mang đến cho Ngà một cơn ác mộng.
Ngà thấy mình chợt dưng bị lùa ra khỏi nhà, đến ở một nơi hoàn toàn xa lạ. Leo thoát được ra thì cũng không biết đi đâu
vì đâu đâu cũng là những người lạ mặt theo lệnh của những ai ai vô hình để buộc
mình tuân thủ một luật lệ cũng không rõ là gì.
Ngà cố biện giải rằng mình có công dân Mỹ, có sổ thông hành Mỹ và muốn
được trở lại Mỹ, nhưng trong cơn mơ Ngà biết đó là điều bất khả. Hóa ra nỗi ám ảnh 30 năm trước tưởng đã tan
biến nay lại từ tiềm thức trỗi dậy. Nỗi
hoang mang như biển nước tràn, phủ dập mình.
Ngà vùng dậy – mồ hôi bết ướt hai thái dương.
Ngà
vừa hết sốt thì Loan cũng trở lại Sài Gòn.
Ngà rủ Loan qua nhà mình ăn cơm với cậu.
Loan sẽ trở lại Úc cùng ngày và có lẽ cùng chuyến bay với cậu trước khi
Ngà về lại Mỹ vài ngày. Hai đứa chỉ còn
một chút thời gian bên nhau dẫu cho chuyến về Việt Nam của Loan lần này chủ
đích là để cùng Ngà sống lại những ngày tháng cũ trên quê hương. Việc người tính rất nhiều khi phải hụt bởi những
lý do không đáng không ngờ!
Còn
một ngày bên nhau, hai đứa đi lại những bước chân của thuở học trò tiểu học rồi
trung học. Thăm lại trường Bàn Cờ, cái
trường đứng sừng sững mà Ngà không nhận ra bởi có quá nhiều nhà cửa chung quanh
làm nhỏ hẹp lại cái mênh mông trong mắt học trò 10 tuổi. Loan vẫn nắm tay Ngà như thuở xa xưa, dắt qua
những lối ngõ gập ghềnh hai đứa đã từng đi thời tiểu học. Bây giờ những gánh quà rong nơi trường học hoặc
trong ngõ hẻm mới thực là của cổ tích, của huyền thoại, bởi suốt bấy ngày tháng
về lại nhà Ngà không hề nghe một tiếng rao không hề thấy một tấm lưng còm cõi
chào mời những món ăn rẻ tiền cho học trò nghèo.
Hết
hẻm Bàn Cờ hai đứa băng ngang Phan Đình Phùng.
Loan dẫn Ngà về lại căn nhà cũ mà gia đình Ngà đã ở cho đến 1975. Nhà đã được xây lên thành 4 tầng bê tông cốt
sắt, bảng số nhà treo trên cửa kéo màu xanh lá cây mà sao Ngà lại thấy xam xám
buồn buồn. Ngà chợt nhớ một đoạn thơ của
Tố Hữu.
Tôi
hỏi nhà tôi: không phải đây
Rồi
thôi quay cửa đóng then cài
Để
ngoài sương gió chiều pha lạnh
Bên
khóm tre già khách đứng ngây
Vòng
ra ngõ Trần Quí Cáp rồi lộn lại chợ Vườn Chuối bên Phan đình Phùng. Chợ trưa im vắng, cái im vắng mỏi mệt trong nắng
nóng trong cái hầm hập của thời tiết khiến Ngà ngỡ mình đang sống lại một cảnh
nào đó của tiền kiếp mà không thể gọi tên – người vẫn vậy, hàng hóa cũng bấy
nhiêu thứ, cái khác xưa lại cũng đã là cái như xưa dù mình chưa kịp thấy
qua. Ngà bước chân như thể mình bị trói
trong một giấc mơ. Ngà đã đi một nửa đoạn
đường của quá khứ, lòng như tấm bánh cũ rời rã bột đường lả tả những mảnh vụn
rơi chầm chậm ơ thờ xuống nền đất lặng
im. Hai đứa ngang qua những hiệu may áo dài vắng khách. Có còn ai may áo dài trắng tê tơ rông, quần
sa teng đen?
Góc
Lê văn Duyệt Phan đình Phùng trước tòa đại sứ Miên cũ vẫn còn tháp miếu thờ hòa
thượng Thích Quảng Đức. Không những sạch
sẽ tươm tất hương hoa, bên kia đường bây giờ là một vườn hoa với tượng bán thân
rất to cũng của bồ tát Thích quảng Đức.
Bao nhiêu tượng đài đã bị giật đổ, bao chốn thờ phượng phải đổi thay mà
chỉ riêng hòa thượng được phong thánh.
Thôi thì được bức tượng nào hay bức
nấy. Loan dắt tay Ngà đi tiếp trên những
con đường nhỏ dẫn đến trường Gia Long.
Bước
dọc Nguyễn Thông rẽ Ngô thời Nhiệm, quanh qua Bà Huyện Thanh Quan, Loan và Ngà
trực chỉ chùa Xá Lợi. Những con đường vắng
vẻ êm đềm ấy phân nửa hoang sơ lồi lõm xập xệ, và nửa còn lại san sát biệt thự
nhiều tầng. Không còn những miếng sân
vuông vức tĩnh lặng đầy hoa kiểng. Không
có xe đậu đỏ bánh lọt, gánh xoài tượng chùm ruột, không có xe bò bía, xe khô
bò, xe bột chiên. Lề đường cũ kỹ buồn
tênh bên chùa vàng rực rỡ. Hai đứa vào
chùa Xá Lợi. Có lẽ là ngày thường nên
trong chùa vắng không một bóng người, nhưng ngoài thềm gần sát đường vẫn chốc
chốc có xe ngừng lại ghé vào bàn thờ lộ thiên thắp vài nén nhang thành kính khấn
vái. Thời đại mới nên hoa sen cũng hiện
đại! Không phải loại hoa sen trắng hồng
búp thuôn dài đơn sơ của ngày xưa; hoa sen bây giờ tròn và nhỏ hơn tí xíu, trắng
hoặc xanh lá cây lợt, với nhiều lớp cánh hơn (nhìn tựa peony) và nhụy vàng cũng
nhỏ hơn. Ngà thấy chút buồn vương vấn,
vì dẫu hoa mới sắc lạ nhìn vui mắt nhưng dường như cái thiêng liêng của việc thờ
cúng đã lạt phai!
Bốn
cổng trường Gia Long vắng lặng. Bây giờ
là mùa hè, không có học trò.
Hai
đứa vào cổng chính xin phép anh bảo vệ cho vào sân trường chụp hình. Anh lắc đầu.
Ngà dọ hỏi:
-Tại
mùa hè trường đóng cửa?
-Không,
phải mặc áo dài mới được vào!
Loan
và Ngà bật cười. Ngà tự hỏi nếu mình mặc
áo đầm hoặc quần tây thì sao? Giữ gìn
truyền thống của trường rõ ràng là hay, nhưng những ngày đầu tháng 9, 1975 khi
trở lại trường lớp, bên cạnh những đổi thay xao xác còn là một hiểu ngầm: không
cần phải đồng phục áo dài nữa. Cô giáo
có người mặc bà ba, học sinh nhiều em mặc sơ mi trắng quần đen. Tấm áo dài ngầm hiểu là tiểu tư sản, không
công khai cấm nhưng truyền thống và tiêu biểu nghiễm nhiên không còn giá trị. Trường nữ trung học rồi còn trở thành trường
phổ thông nam nữ học chung, để sau này các cựu nam sinh còn cao tiếng mình là học
trò cũ trường nữ trung học Gia Long!!!
Chưa hết một vòng đời nay còn bảo hoàng hơn vua. “Tốt thôi!”
Không
còn gì để vấn vương, hai đứa vào quán nước góc Phan thanh Giản Đoàn thị Điểm. Đang nắng chang chang trời bỗng tối sầm rồi
mưa bắt đầu lộp độp rơi trên mái. Trong
tích tắc đường phố đổi phông như trong phim trường, những cánh áo mưa vàng xanh
đỏ rộ sắc như hoa nở dưới làn mưa trắng xóa.
Mặt đường trở nên đen bóng dưới làn nước, và phố phường như thắm lên
trong mưa. Loan và Ngà nhìn nhau, rồi
như đã hẹn từ muôn kiếp trước hai đứa cùng bước khỏi mái hiên của quán nước đứng
hẳn dưới mưa để hứng những giọt mát lạnh từ trời. Tấm áo ngoài đã dán sát vào lớp áo thun bên
trong, nhưng Ngà và Loan chẳng bận tâm như những ngày còn trong tuổi học trò,
phải ôm cặp táp che lấy ngực mà tìm chỗ trú.
Những sợi mưa lạnh dường thân thuộc linh thiêng, cho Ngà thấy mình vẫn
là mình và đất này vẫn là chốn quê hương, cho dù Ngà đã hiểu vì sao mình không
còn có thể sống trên quê hương ấy. Và
Ngà cũng hiểu, mình rồi sẽ còn trở lại, trở lại, như Từ Thức ăn phải đào tiên sống
muôn kiếp đi tìm quê hương năm cũ.
LƯU
NA
01022023
No comments:
Post a Comment