NGÔ THẾ VINH
Tôi thường
nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm
thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại
lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui
vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà…
Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho
mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã
sống 60 năm trời!
Tạ Tỵ [thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 &
27.7.2000]
Hình
1: trái, Tạ Tỵ 31 tuổi, sau 4 năm theo kháng chiến chống
Pháp và về thành (Hà Nội, 1952); giữa,
Năm 1941,
ở tuổi 20, do đoạt
một giải
thưởng tranh của nhà trường, Tạ Tỵ được đến thăm kinh đô Huế.
Năm 1943,
Tạ Tỵ tốt nghiệp khoa Sơn Mài tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương nhưng dấu ấn Hội hoạ của ông không phải là những
tác phẩm Sơn Mài. Tạ Tỵ luôn
luôn đi tìm cái mới, và được xem là người đi tiên phong vào lãnh vực Lập Thể / Cubisme và Trừu Tượng / Abstrait của
hội hoạ Việt Nam.
Và cũng năm 1943, sau khi vừa tốt nghiệp, Tạ Tỵ đoạt ngay một giải thưởng với bức tranh “Mùa Hạ” (tân ấn tượng / néo-impressionnisme) được giải thưởng tại phòng Triển lãm Duy nhất (Salon Unique) “vì có một phương pháp diễn tả theo khuynh hướng mới, tuy chưa hẳn là lập thể, nhưng các hình thể đã được biến cải theo sở thích riêng.” [1]
Năm 1946, trong cuộc triển lãm Hội hoạ
Tháng Tám tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, với số lượng tác phẩm đông đảo, Tạ Tỵ đã tham
dự với bức tranh sơn mài “Hoa Đăng” (siêu thực / surréalisme) được
Hiệp Hội Báo Chí VN trao giải, nhưng tiền thưởng chưa lãnh thì ngay sau đó chiến
tranh toàn quốc bùng nổ. [1]
Năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Tạ Tỵ đã cùng với nhiều văn nghệ sĩ yêu nước khác, hăng hái tham gia mặt
trận kháng chiến chống Pháp và ông là giáo sư dạy Mỹ thuật đầu tiên trong Liên Khu
3. Tác phẩm "Nhớ Hà Nội" năm 1947 (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ
trong giai đoạn này.
Năm 1948, trong một hội nghị Văn Hoá Văn Nghệ, Trường Chinh đã mạnh mẽ lên án: “Chủ nghĩa Lập Thể, Siêu Thực, Đa Đa là những cái nấm độc trên cái thân thể mục ruỗng của nền văn hoá đế quốc.” [Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam, 1948].
Tháng Năm 1950, sau bốn năm đi theo kháng chiến, thấy rõ bộ mặt thật của Việt Minh, cùng với cách suy nghĩ không hợp với họ, Tạ Tỵ đã cùng nhiều văn nghệ sĩ khác như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Phạm Duy, Tam Lang Vũ Đình Chí, Hoàng Công Khanh đã dứt khoát từ bỏ khu chiến để trở về Hà Nội.
Từ đầu thập niên 1950, trở về với nếp sống văn hoá Hà Nội 36 phố phường với Năm Cửa Ô, Tạ Tỵ đã mạnh mẽ đi tiếp con đường sáng tạo với tự do đi tìm cái mới; ngoài vẽ tranh, vẽ ký / biếm hoạ chân dung (caricatures) các văn nghệ sĩ, ông còn cầm bút sáng tác: truyện, thơ, kịch, bút ký, viết nhận định văn học, trình bày sách báo… chứng tỏ Tạ Tỵ là một tài năng rất đa diện.
Năm 1951, ông mở cuộc triển lãm cá nhân đầu tiên mang tên Hội Hoạ Hiện Đại tại Hà Nội, trưng bày 60 bức
tranh Lập thể.
Năm 1953, Tạ Tỵ nhận
được lệnh động viên, ông phải
tạm xa Hà Nội và gia đình để vào Nam, gia nhập Khoá 3 Trường Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức và ra trường với cấp bậc thiếu uý. Ông phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà tại Tổng Cục Chiến tranh Chính trị cho tới khi giải ngũ, với cấp bậc sau cùng là Trung Tá.
Năm 1956, Tạ Tỵ triển lãm cá nhân lần thứ hai với 50 hoạ phẩm lập thể, tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn, nhưng là lần đầu tiên ở miền Nam, được đánh giá là thành công cả về nghệ thuật cũng như tài chánh.
Trong tập sách mỏng giới thiệu cuộc triển
lãm (ngày 8/8/1956), Tạ Tỵ viết: “Mời bạn
hãy vào – Cửa vườn tôi đã mở sau 5 năm trời khép kín – vườn của tôi sau khoảng
thời gian giam cầm trong suy nghĩ, trong dằn vặt, trong giận hờn để tìm những
cánh màu của tâm tư chắp nối lại và thêu dệt bằng tin tưởng, tạo thành một thế
giới của hình thể, của sắc màu, qua bức tường vách ngăn của lý trí và rung động…”
[5]
Tuy là họa sĩ
Việt Nam tiên phong và thành công trong Hội Hoạ Lập Thể, nhưng ông vẫn luôn luôn có ý hướng đi tìm cái mới, từ thập
niên 1960, Tạ Tỵ đã chuyển hướng sang tranh Trừu Tượng.
Năm 1961, ông triển lãm cá nhân lần thứ hai với 60 bức tranh trừu tượng và lập thể cũng tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn. Đánh dấu một bước thành công sáng tạo mới của Tạ Tỵ.
TẠ TỴ: TẠI SAO LẬP THỂ
Trong một Hồi
ký viết ở hải ngoại Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi [Nxb Thằng Mõ 1990], Tạ Tỵ
đã giải thích do cơ duyên nào mà anh đi vào Hội Hoạ Lập Thể:
“Tôi bẩm sinh là một con người thích tiến
bộ, thích cái gì mới. Khi còn học ở trường Mỹ Thuật, tôi không mấy thích lối vẽ
chân phương theo quy luật của nhà trường bắt buộc. Tôi thường đến thư viện mượn
sách đọc, lẽ dĩ nhiên, loại sách thuộc về mỹ thuật. Tôi mê các tác phẩm của Van
Gogh, Gauguin và Matisse. Tôi nghiên cứu và tìm hiểu mỹ thuật tạo hình ở mỗi
tác giả. Nhưng sau một thời gian, tôi thấy các nhà danh hoạ trên vẫn phải dựa
vào thiên nhiên và sự vật cũng như con người để tạo dựng tác phẩm. Tôi nghiên cứu
và tìm hiểu các hoạ phái khác nhau như Siêu Thực, DaDa và Lập Thể. Tôi thích trường phái Lập Thể qua các tác
phẩm của G. Braque hơn là Picasso. Tôi mê chiều thứ tư (4ème dimension) của hoạ phái này – mà Tạ Tỵ gọi đó
là chiều động trong kỹ thuật tạo hình, vì nó làm cho tác phẩm trở nên sống động,
chứ không trơ trơ như các hoạ phái khác.” [1]
TẠ TỴ: TẠI SAO TRỪU TƯỢNG
Trả lời Nguiễn Ngu Í Bách Khoa [Báo Bách
Khoa, số 131, ngày 15-6-1962]:
“Hội hoạ Việt Nam hiện có nhiều xu hướng từ Ấn tượng tới Trừu tượng, nhưng tất cả đang ở giai đoạn tìm tòi và khai thác. Riêng tôi, từ 18 năm nay đã chọn con đường Hội hoạ mới. Tôi đã đi qua trường phái Ấn tượng, Tân Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực và trong 6 năm gần đây tôi vẽ tranh Trừu tượng…
Sự nhầm lẫn và cũng là điều tai hại cho
Nghệ thuật Hội hoạ là mỗi người yêu hội hoạ khi đặt chân vào phòng Triển lãm Hội hoạ Mới, hoặc đứng trước hoạ phẩm Trừu tượng, đều cố
tìm xem hoạ sĩ vẽ cái gì, “nói” gì ở trong kích thước đó? Sự băn khoăn thắc mắc
này nhiều khi gây khó chịu đến độ trầm trọng nếu người thưởng ngoạn không kiên
tâm tìm hiểu.
Nhưng đứng trước một hoạ phẩm Trừu tượng dù cho người thưởng ngoạn có kiên tâm, thiện chí đến đâu, nếu không biết qua về kỹ thuật Tạo Hình do kinh nghiệm hoặc sách vở, báo chí chuyên môn về Hội hoạ, cũng đành lắc đầu chán nản trước bức trường thành cao vút ngăn đôi thông cảm. Sự kiện ấy có, vì chúng ta quen nhìn Hội họa với quan niệm thưởng ngoạn cũ. Hôm
nay quan niệm về cái đẹp đã đổi khác, lẽ dĩ nhiên cái nhìn cũng phải thay đổi. Hôm nay đứng trước một hoạ phẩm trừu tượng, người thưởng ngoạn không nên và không bao giờ nên tìm hiểu hoạ sĩ đã vẽ gì trong kích thước đó, mà chỉ nên tìm hiểu mình đã nghĩ gì về tác phẩm trước mắt mình? Cảm giác đầu tiên nào đã đột nhập vào trí não mình để bắt nguồn cho rung động.
Những màu sắc và hình thể kia có phải là những dấu hiệu của riêng mình đã in vào tiềm thức? Người hoạ sĩ không có lý do để hiện diện trong tác phẩm thuộc loại Trừu tượng, trừ cái tên ký ở góc tranh. Cái tên này cũng chỉ được dùng như một thứ nhãn hiệu, vì trong lúc sáng tạo, chính hoạ sĩ cũng là kẻ thưởng ngoạn có “quyền ưu tiên” vì họ có kỹ thuật, thế thôi. Trong Nghệ
thuật Hội hoạ hiện tại,
không ai có quyền bắt ai lệ thuộc vào ý nghĩ, vào kỹ thuật tạo hình do cá nhân
đảm nhiệm. Mỗi người tự tìm lấy sự say mê của mình trong từng kích thước nhất định.” [2]
Năm 1966, dự
định trưng bày lần thứ ba tại Sài Gòn 50 hoạ phẩm Trừu tượng mới nhất nhưng
không thành. Năm 1971, Tạ Tỵ lại dự định tổ chức phòng triển lãm tranh gồm 50
chân dung văn nghệ sĩ miền Nam nhưng rồi cũng dở dang do tình hình chiến sự sôi
động lúc đó.
Và gần như theo chu kỳ, cứ mỗi 5 năm, Tạ Tỵ mới
triển lãm một lần: 1951, 1956, 1961, 1966, 1971… Khi trao đổi với nhà văn Nguiễn
Ngu Í, hoạ sĩ Tạ Tỵ giải thích:
“Sở dĩ tôi phải
để một thời gian lâu như thế như anh biết những
thì giờ tốt đẹp nhất trong một ngày để sáng tác tôi không được sử dụng, tôi
chỉ còn làm việc quanh năm với ánh đèn, với muỗi [Tạ Tỵ vẫn còn làm việc toàn
thời gian trong quân ngũ quân lực VNCH – ghi chú của người viết]; vả lại muốn mỗi
phòng triển lãm của tôi ít nhất phải ghi lại trong tâm người thưởng ngoạn một
chút kỷ niệm về sự cố gắng của cá nhân trong phạm vi Nghệ thuật. Muốn thâu được kết quả ấy, yếu tố thời gian
là yếu tố quyết định.” [2]
Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt chân dung các văn nghệ sĩ Việt Nam với một phong cách rất độc đáo, anh nhạy bén bắt được cái thần ở từng khuôn mặt, và đây là một lãnh vực tài hoa khác của Tạ Tỵ mà chưa ai sánh được.
Tác phẩm của Tạ Tỵ còn được trưng bày tại các bảo tàng viện
nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New York và Paris.
Bức tranh "Đàn bà" còn có tên là “Cô đơn” (1951) được nhà Sotheby’s đấu giá hồi tháng 4 năm 2000, và bán được với giá khá cao 19.550
Singapore dollars. Trong catalogue của Sotheby’s đã nhận xét bức tranh: "Đây
là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ. Tác giả sử dụng tài tình những màu sắc mạnh mẽ, đặt nhân vật
ngay vào ngay trung tâm bức tranh, những hình thể kỷ hà, chẳng hạn như việc xử
lý mái tóc không tuân theo luật đăng đối, đường nét mạnh bạo của chiếc cổ và sự
sắp xếp của khăn quàng thành những mặt cắt của một hình kim cương… tất cả bố cục
này tạo thành một bức tranh Lập Thể độc đáo."
Bức Mùa hè đỏ lửa (1972, 350 x 170 cm), tranh sơn dầu, phong cách trừu tượng, được treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Sài Gòn từ năm 1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất Cánh. Đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của nhà bảo tàng này.
TẠ
TỴ: TẠI SAO VIẾT
Trả lời
câu hỏi ấy trên tạp chí Hợp Lưu (số 32, Xuân Đinh Sửu 1997, trang
216), khi Tạ Tỵ đã ở tuổi 76, ông
tâm sự:
“Tôi sinh ra đời, hình như định mệnh đã an bài, bởi vậy tất cả những
gì tôi làm ra đều có bàn tay của định mệnh dính vào. Lúc còn trẻ tôi yêu tất cả những thứ gì thuộc
về văn chương nghệ thuật, nhưng tôi mê kéo vĩ cầm hơn cả. Vào năm 1936-37 gì
đó, tôi được nghe tiếng đàn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Giệp tại Nhà Hát Lớn Hà Nội.
Anh chơi bản Danse Macabre với
tiếng dương cầm phụ họa của nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiếu. Tất cả nhà hát đều yên lặng
để thưởng thức tiếng đàn tuyệt vời của hai nhạc sĩ trứ danh nhất của đất Thăng
Long thời đó. Tôi về nhà xin Mẹ tiền mua cây đàn và quyển Mazas, là cuốn sách học kéo
violon vỡ lòng. Tôi học kéo đàn song song với học vẽ ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật
Đông Dương. Vì mê học nhạc nên tôi quen với cố nhạc sĩ Đỗ Thế Phiệt. Sau mấy
năm học thấy không có tiến bộ, tôi bỏ đàn, chuyên về vẽ…
Còn một
trở ngại to lớn nữa là người họa sĩ chỉ vẽ tấm tranh duy nhất, nếu bán đi, người
họa sĩ không còn gì ngoài tấm ảnh chụp giữ làm kỷ niệm. Vì nhìn thấy cái thế “yếu”
của hội họa, vả lại, cuộc sống trong chiến tranh có rất nhiều sự việc tác động
mạnh và sâu đậm trong tâm cảm mà hội họa bất lực, không thể nói bằng màu sắc được.
Do đó, tôi phải nhờ tới văn chương cũng như thi ca để bày tỏ lập trường, cùng
thái độ sống trước tập thể, trước xã hội.
Biết bao nhiêu đổ vỡ, tang thương do chiến
tranh gây ra. Biết bao nhiêu tuổi trẻ đã lên đường và cũng có bao nhiêu vòng
khăn tang đã quấn ngang đầu, bao nhiêu tiếng khóc than vật vã, với đôi tay bé
nhỏ xanh xao của người góa phụ, ôm lấy chiếc quan tài phủ lá quốc kỳ với vòng
hoa cườm có hàng chữ “Tổ Quốc Ghi Ơn”,
nhưng tôi được biết, trong chiếc quan tài đó chỉ có chiếc bọc nylon ôm gọn thây
người chiến sĩ đã nát bấy vì pháo địch, chỉ còn lại một đống thịt xương bầy nhầy
với chiếc thẻ bài lẫn lộn trong vũng máu đông đặc vì được cất kỹ trong ô kéo của
căn phòng chứa xác cực lạnh. Ngay cạnh đó, một đứa nhỏ chừng ba tuổi gầy ốm đứng
nhìn ngơ ngác!
Còn biết bao nhiêu cuộc tình tan tác như những chiếc bong bóng thổi bằng bọt xà bông. Đại lộ kinh hoàng còn đó. Xác những chiếc xe tăng của Trung Cộng, của Liên Xô, của Mỹ còn nằm rải rác dọc theo đường số 1 như những con quái vật thời tiền sử và còn nhiều, nhiều nữa những dấu ấn của chiến tranh cần phải nói ra, nhưng hội họa quả tình bất lực trước vấn đề này. Chỉ có văn chương mới đủ sức khai quật những oan khuất chìm ở đáy sâu tâm cảm.” [1]
VĂN HỌC:
– Đã cộng tác với các tạp chí văn học tại miền Bắc và miền Nam từ năm 1950 đến 30-4-1975: Thế Kỷ, Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Sáng Tạo, Văn, Văn Học, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Bách Khoa và Tin Văn, và sau 1975: Thế Kỷ 21 tại Hoa Kỳ.
Những Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại
Miền Nam trước 1975
Những Viên Sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư, 1962
Yêu Và
Thù, tập truyện, Phạm Quang Khai, 1970
Mười
Khuôn Mặt Văn Nghệ, nhận định văn học, Nam Chi Tùng Thư 1970.
Phạm
Duy Còn Đó Nỗi Buồn, văn sử học, 1971
Cho Cuộc
Đời, thơ, Khai Phóng, 1971
Mười
Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, nhận định văn học, Lá Bối, 1972, Xuân Thu
tái bản tại Hoa Kỳ, 1991
Bao Giờ, tập
truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản, 1972
Ý Nghĩ, tạp
văn, Khai Phóng, 1974.
Những Tác Phẩm Xuất Bản Tại Hoa
Kỳ
1. Đáy Địa Ngục, hồi ký cải tạo, Cơ Sở Thằng Mõ, 1985
2. Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi, hồi ký, Thằng Mõ, 1990
3. Xóm Nhà Tôi, tập truyện viết
trong những ngày tháng lưu vong nơi đất khách, Nxb Xuân Thu, 1992
4. Mây Bay, thi phẩm, Miền Nam
xuất bản, 1996
Thơ Tạ Tỵ
Tạ Tỵ được giải ngũ vào
tháng 6 năm 1974 theo quy chế sau 21 năm công vụ, ở tuổi 53, vẫn còn khoẻ mạnh,
đang ở cái tuổi chín muồi của sáng tạo. Anh rất vui với ý nghĩ rằng từ nay sẽ có
thời gian để phụng sự nghệ thuật. Nhưng rồi ngày 30/4/1975 đổ ập đến, tất cả mọi
dự án về nghệ thuật đều tan biến. Đã thế, cho dù đã giải ngũ, anh vẫn bị bắt đi
tù cải tạo. Cùng với bao nhiêu đồng đội và thế hệ văn nghệ sĩ miền Nam, anh đã bị đày ải
trong những nhà tù từ Nam ra Bắc, rồi nhà tù lớn là một đất nước Việt Nam CS, tổng
cộng 6 năm (1975-1981), nhưng may mắn sống sót, trong khi đó nhiều đồng
đội cùng với các nhà văn nhà báo miền Nam bạn
anh thì đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc,
Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh
Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Vũ
Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường.
Vào đầu năm 1981, Tạ Tỵ được tha về với tấm thân tàn ma dại, tóc bạc răng long. Và nơi chương cuối cuốn hồi ký Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi, xuất bản tại Hoa Kỳ (1990), Tạ Tỵ viết: “Trước khi đi tù cải tạo tôi cân được 62 kg, khi ra tù chỉ còn đúng 35 kg. Tôi gầy như bộ xương biết đi. Răng rụng gần hết, còn vài cái kể như vô dụng trong vấn đề ăn uống. Trong tờ “Giấy Ra Trại”, Cộng sản ghi lý do: “Quá già yếu, không còn đủ sức lao động”! Họ tha và tin rằng, thế nào tôi cũng chết, có thể trên đường về, và có thể gặp vợ con rồi xuống đất !” Nhưng rồi Tạ Tỵ vẫn sống sót. [1]
Tạ Tỵ là bạn thân thiết với Lê Ngộ Châu từ hồi báo Bách Khoa, nên hai người vẫn gặp nhau luôn. “Khi mới được tha về, Lê Ngộ Châu bảo tôi phải đi chụp gấp tấm ảnh làm kỷ niệm, kẻo sau này, nhờ dinh dưỡng cậu khác đi làm sao có được cái hình hài này? Tôi nghe lời, hôm sau đến tiệm hình chụp một tấm. Mấy bữa sau, khi nhìn mình qua tấm ảnh, chính tôi cũng không nhận ra! Sao tiều tụy như vậy được? Anh chị Châu làm bữa cơm thịnh soạn mời tôi, gọi là bữa cơm “Mừng Người Về Từ Cõi Chết.” [1]
Sau một thời gian ra tù, được sự chăm sóc tích cực của gia đình, sức khoẻ của anh dần hồi phục. Tạ Tỵ vẫn nuôi ý chí đi tìm tự do. Chuyến vượt biên đầu tiên, vào đầu năm 1982, mới xuống tới Bạc Liêu bị đổ bể may kịp quay về mà không bị bắt lại vào tù. Phải đến giữa năm 1982, cũng là lần vượt biên thứ hai, Tạ Ty cùng gia đình đã xuống được một chiếc ghe mong manh chật ních người, ra khơi ngày 12/6/1982, lênh đênh trên biển đúng bảy ngày, đến ngày 19/6/1982 được tàu dầu Anh quốc vớt đưa vào đảo Pulau Bidong, Malaysia. Từ đó Tạ Tỵ bắt đầu cuộc đời tỵ nạn ở tuổi 61.[1]
ĐÁY
ĐỊA NGỤC: HỒI KÝ VIẾT TRÊN ĐẢO
Ngay từ ngày đặt chân lên đảo, Tạ Tỵ đã cầm bút ghi lại kinh nghiệm những năm tù đày kinh hoàng mà anh và các đồng đội vừa trải qua. Cuốn Hồi ký Đáy Địa Ngục, dày 678 trang được khởi viết ngày 25/9/1982 và viết xong ngày 15/12/1982 tại trại Tỵ Nạn chuyển tiếp Sungai Besi, Malaysia, được Nxb Thằng Mõ, California xuất bản năm 1985 và tái bản một năm sau đó. Ngay trang mở đầu cuốn Hồi ký, Tạ Tỵ viết:
Cuốn “Đáy
Địa Ngục” được thực hiện trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, giữa những tiếng
ồn ào, sinh động của một trại Tỵ Nạn trên vùng đất Mã Lai… Khoảng thời gian, từ
ngày Cộng sản chiếm miền Nam, tính đến hôm nay, mới gần 8 năm. Quả thực không
lâu so với cuộc luân hành miên viễn của thời gian, nhưng đích thực, đó là một
chuỗi đau thương đan kết bằng máu và nước mắt của mỗi con người Việt Nam đã và
đang sống trong một bối cảnh vô cùng khốn khổ trực diện với một chế độ mình
không ưa thích, không muốn phục vụ, vẫn phải làm như nhiệt tình, thành khẩn!
Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam là một nhà tù lớn, bên trong nó, có rất nhiều nhà tù nhỏ, được quây kín sau dãy Trường Sơn trùng điệp, sau những lũy tre dày đặc, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Không một ký giả nào thuộc Thế Giới Tự Do, kể cả các ký giả thuộc các nước Cộng sản anh em, được “tham quan” những vùng đất cấm đó. Đối với Cộng sản, cái gì cũng được giữ bí mật tối đa, cái gì cũng được che giấu bằng dối trá, lừa bịp!
Tôi đã trải qua 8 trại Tập Trung Cải Tạo, từ Nam ra Bắc. Tôi đã sống và đã chứng kiến bao nhiêu trạng thái bi thương…
Người tù chính trị Việt Nam sau ngày 30-4-1975, quả thực, một vết nhơ trên “tấm thảm lương tri nhân loại”. Họ được đối xử như những con vật, đôi khi không bằng con vật. Họ luôn luôn sống trong lo âu, hồi hộp, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến với họ, buổi sớm mai khi thức dậy, sau một đêm trằn trọc với ác mộng và muỗi rệp! Họ “ăn không đủ no, đói không đủ chết”, nên lúc nào miếng ăn cũng ám ảnh, giày vò họ, làm khổ sở, ngày này qua ngày khác, mùa nắng cũng như mùa mưa, mùa hạ cũng như mùa đông, không mùa nào họ có thể tìm thấy chút gì để tạo nên nguồn hy vọng. Nếu ai đã trải qua một lần trong bất cứ Trại Tập Trung Cải Tạo nào của Cộng sản Việt Nam, người đó có quyền coi thường mọi nhà tù trên Thế Giới!
… “Nhưng trang sử đã lật. Cái gì qua, phải qua. Nó là bài học vô cùng quý giá, miễn rằng bài học này đừng bao giờ ôn / lặp lại trong ngày mai.” [1] [hết trích dẫn]
Tạ Tỵ đã đặt
chân tới Mỹ với tập bản thảo hồi ký Đáy
Địa Ngục vừa được viết xong.
RA
MẮT TUYỂN TẬP VĂN – THƠ – HOẠ TẠ TỴ 2001
Trong khoảng thời gian 21 năm sống tại California Hoa Kỳ, khi thì San Diego, khi thành phố Garden Grove, Tạ Tỵ tiếp tục sáng tác vẽ và viết; ông hoàn tất được một số tranh với phong cách trừu tượng và một số tác phẩm viết và xuất bản ở hải ngoại.
Tuyển Tập Văn – Thơ – Hoạ của Tạ Tỵ là
cuốn sách cuối cùng được xuất bản và ra mắt tại Hoa Kỳ. Sách gồm bốn tập truyện:
Những Viên Sỏi, Yêu và Thù, Bao Giờ, Xóm Cũ, và một tập thơ Mây Bay, đặc biệt có 12 phụ bản màu: gồm 6 bức tranh Sơn Dầu Trừu
Tượng, tất cả được vẽ tại Hoa Kỳ và 6 Ký hoạ Bột màu / Gouache các Khuôn Mặt
Văn Nghệ Sĩ.
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ:
HOẠ SĨ TẠ TỴ VÀ GIẤC MỘNG CON NĂM 2000
Từ
trước 1975, tôi đã được xem tranh, đọc thơ văn và cả sách nhận định văn học của
Tạ Tỵ (Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, Nam
Chi Tùng Thư Sài Gòn 1970, Mười Khuôn Mặt
Văn Nghệ Hôm Nay, Lá Bối Sài Gòn 1972), và không thể quên các caricatures chân dung văn nghệ sĩ được Tạ
Tỵ phác thảo với những đường
nét hết sức độc đáo.
Nhưng tôi
chỉ thực sự được quen anh Tạ Tỵ trên đất Mỹ từ những năm 1980, khi cả hai cùng
một lứa bên trời lận đận, trong
hoàn cảnh tỵ nạn sau những năm tháng tù đày. Tạ Tỵ cùng thế hệ với Vũ
Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng…
Về tuổi tác Tạ Tỵ hơn tôi một thế hệ, đúng 20 năm nhưng tâm hồn thì trẻ
trung, và cả khiêm cung, nên trong giao tiếp
tôi vẫn gọi Tạ Tỵ là anh.
Thiếu Tá
Tạ Tỵ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà; phải, chân dung Tạ Tỵ năm 2000.
Sau 1975,
ông đã phải đi tù cải tạo 6 năm, hồi ký Đáy
Địa Ngục ghi lại kinh nghiệm
ông đã
trải qua trong những năm tháng nghiệt
ngã tù đày với lao động khổ sai
“ăn không đủ no, đói không đủ chết”; [nguồn: album gia đình Tạ Tỵ, photo by
Phạm Phú Minh, Đáy Địa Ngục, Nxb Thằng Mõ 1985]
TIỂU SỬ
Tạ Tỵ là bút danh,
Tạ Văn Tỵ là tên thật, sinh
ngày 3 tháng 5 năm 1921
(tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội,
nhưng trên
giấy khai sinh lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn một năm. Ngay từ khi còn là một
sinh viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương / École Supérieure
des Beaux-Arts de l’Indochine, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm.Và cũng năm 1943, sau khi vừa tốt nghiệp, Tạ Tỵ đoạt ngay một giải thưởng với bức tranh “Mùa Hạ” (tân ấn tượng / néo-impressionnisme) được giải thưởng tại phòng Triển lãm Duy nhất (Salon Unique) “vì có một phương pháp diễn tả theo khuynh hướng mới, tuy chưa hẳn là lập thể, nhưng các hình thể đã được biến cải theo sở thích riêng.” [1]
Hình 2: Tác phẩm “Hoa
Đăng” sơn mài (siêu thực / surrealisme)
của Tạ Tỵ
trong cuộc triển lãm Tháng Tám 1946 tại Nhà Hát Lớn
Hà Nội,
được Hiệp Hội Báo Chí VN trao giải thưởng.
giai đoạn theo kháng chiến trong Liên Khu Ba.
Năm 1948, trong một hội nghị Văn Hoá Văn Nghệ, Trường Chinh đã mạnh mẽ lên án: “Chủ nghĩa Lập Thể, Siêu Thực, Đa Đa là những cái nấm độc trên cái thân thể mục ruỗng của nền văn hoá đế quốc.” [Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam, 1948].
Tháng Năm 1950, sau bốn năm đi theo kháng chiến, thấy rõ bộ mặt thật của Việt Minh, cùng với cách suy nghĩ không hợp với họ, Tạ Tỵ đã cùng nhiều văn nghệ sĩ khác như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Phạm Duy, Tam Lang Vũ Đình Chí, Hoàng Công Khanh đã dứt khoát từ bỏ khu chiến để trở về Hà Nội.
Từ đầu thập niên 1950, trở về với nếp sống văn hoá Hà Nội 36 phố phường với Năm Cửa Ô, Tạ Tỵ đã mạnh mẽ đi tiếp con đường sáng tạo với tự do đi tìm cái mới; ngoài vẽ tranh, vẽ ký / biếm hoạ chân dung (caricatures) các văn nghệ sĩ, ông còn cầm bút sáng tác: truyện, thơ, kịch, bút ký, viết nhận định văn học, trình bày sách báo… chứng tỏ Tạ Tỵ là một tài năng rất đa diện.
là hai tác phẩm tiêu biểu thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ, 1951 – Tạ Tỵ gọi đó là
chiều thứ tư (4ème
dimension), chiều động trong kỹ thuật tạo hình. [1]
Năm 1956, Tạ Tỵ triển lãm cá nhân lần thứ hai với 50 hoạ phẩm lập thể, tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn, nhưng là lần đầu tiên ở miền Nam, được đánh giá là thành công cả về nghệ thuật cũng như tài chánh.
Hình 5: “Nhịp
Calypso” (1960), tranh lập thể sơn dầu trên canvas,
sưu tập của Mặc Đỗ, bức tranh đã phải bỏ lại khi Mặc Đỗ âm thầm di tản
khỏi Sài Gòn ngày 29/04/1975.
Năm 1961, ông triển lãm cá nhân lần thứ hai với 60 bức tranh trừu tượng và lập thể cũng tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn. Đánh dấu một bước thành công sáng tạo mới của Tạ Tỵ.
“Hội hoạ Việt Nam hiện có nhiều xu hướng từ Ấn tượng tới Trừu tượng, nhưng tất cả đang ở giai đoạn tìm tòi và khai thác. Riêng tôi, từ 18 năm nay đã chọn con đường Hội hoạ mới. Tôi đã đi qua trường phái Ấn tượng, Tân Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực và trong 6 năm gần đây tôi vẽ tranh Trừu tượng…
Nhưng đứng trước một hoạ phẩm Trừu tượng dù cho người thưởng ngoạn có kiên tâm, thiện chí đến đâu, nếu không biết qua về kỹ thuật Tạo Hình do kinh nghiệm hoặc sách vở, báo chí chuyên môn về Hội hoạ, cũng đành lắc đầu chán nản trước bức trường thành cao vút ngăn đôi thông cảm. Sự kiện ấy có, vì chúng ta quen nhìn Hội họa với quan niệm thưởng ngoạn cũ. Hôm
nay quan niệm về cái đẹp đã đổi khác, lẽ dĩ nhiên cái nhìn cũng phải thay đổi. Hôm nay đứng trước một hoạ phẩm trừu tượng, người thưởng ngoạn không nên và không bao giờ nên tìm hiểu hoạ sĩ đã vẽ gì trong kích thước đó, mà chỉ nên tìm hiểu mình đã nghĩ gì về tác phẩm trước mắt mình? Cảm giác đầu tiên nào đã đột nhập vào trí não mình để bắt nguồn cho rung động.
Những màu sắc và hình thể kia có phải là những dấu hiệu của riêng mình đã in vào tiềm thức? Người hoạ sĩ không có lý do để hiện diện trong tác phẩm thuộc loại Trừu tượng, trừ cái tên ký ở góc tranh. Cái tên này cũng chỉ được dùng như một thứ nhãn hiệu, vì trong lúc sáng tạo, chính hoạ sĩ cũng là kẻ thưởng ngoạn có “quyền ưu tiên” vì họ có kỹ thuật, thế thôi. Trong Nghệ
Hình 6: Nguiễn Ngu Í phỏng
vấn Tạ Tỵ trên báo Bách Khoa số 131, ngày 15-6-1962,
từ trái, bìa và hai trang báo Bách Khoa số 131; phải,
chân dung nhà văn nhà báo Nguiễn Ngu Í,
người thực hiện đợt phỏng vấn về Quan Niệm Hội Hoạ của khoảng 40 hoạ sĩ Việt Nam.
Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt chân dung các văn nghệ sĩ Việt Nam với một phong cách rất độc đáo, anh nhạy bén bắt được cái thần ở từng khuôn mặt, và đây là một lãnh vực tài hoa khác của Tạ Tỵ mà chưa ai sánh được.
Hình 7: Chân dung văn nghệ sĩ qua nét vẽ Tạ Tỵ, từ trái
trên Mặc Đỗ, Mai Thảo,
Thanh Tâm Tuyền; từ trái dưới Nhật Tiến, Nguyễn
Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu
[nguồn: từ album gia đình Tạ Tỵ]. Đây cũng là sáu
chân dung có trong Tuyển Tập Chân Dung
Văn Học Nghệ Thuật và
Văn Hoá của Ngô Thế Vinh, Việt
Ecology Press xuất bản 2017.
Bức Mùa hè đỏ lửa (1972, 350 x 170 cm), tranh sơn dầu, phong cách trừu tượng, được treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Sài Gòn từ năm 1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất Cánh. Đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của nhà bảo tàng này.
Hình 8: từ phải, Tạ Tỵ, Phạm Đình Chương, Nguyễn Sỹ Tế, Vũ
Khắc Khoan,
Mai Thảo trong một buổi họp mặt trước 1975 ở Sài
Gòn. [nguồn: album gia đình Tạ Tỵ]
Còn biết bao nhiêu cuộc tình tan tác như những chiếc bong bóng thổi bằng bọt xà bông. Đại lộ kinh hoàng còn đó. Xác những chiếc xe tăng của Trung Cộng, của Liên Xô, của Mỹ còn nằm rải rác dọc theo đường số 1 như những con quái vật thời tiền sử và còn nhiều, nhiều nữa những dấu ấn của chiến tranh cần phải nói ra, nhưng hội họa quả tình bất lực trước vấn đề này. Chỉ có văn chương mới đủ sức khai quật những oan khuất chìm ở đáy sâu tâm cảm.” [1]
VĂN HỌC:
– Đã cộng tác với các tạp chí văn học tại miền Bắc và miền Nam từ năm 1950 đến 30-4-1975: Thế Kỷ, Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Sáng Tạo, Văn, Văn Học, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Bách Khoa và Tin Văn, và sau 1975: Thế Kỷ 21 tại Hoa Kỳ.
Những Viên Sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư, 1962
Hình
9: Những
Tác Phẩm Tạ Tỵ đã Xuất Bản Tại Miền
Nam trước 1975,
trên từ trái,
Những
viên sỏi, tập truyện, Nam Chi
Tùng Thư, 1962.
Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, văn sử học, 1971. Mười Khuôn Mặt Văn
Nghệ Hôm Nay, nhận định văn học, Lá Bối, 1972. Bao Giờ, tập truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản 1972. Riêng
tác phẩm Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, do Nam Chi Tùng Thư
xuất bản năm 1970 ở Sài Gòn, đã được nhà xuất bản
Hội Nhà Văn Việt Nam tái bản tại Hà Nội năm 1996,
nhưng họ đã tuỳ tiện biên tập, cắt bỏ khuôn mặt văn nghệ Mai Thảo ra khỏi cuốn
sách, thay vào Trịnh Công Sơn, mà không hề có phép của Tạ Tỵ.
[tư liệu của Thành Tôn]
1. Đáy Địa Ngục, hồi ký cải tạo, Cơ Sở Thằng Mõ, 1985
Hình 10: Những cuốn sách của Tạ Tỵ xuất bản ở hải
ngoại, từ trái, Đáy Địa Ngục,
Xóm
Nhà Tôi, Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi. [tư
liệu Thành Tôn]
Hình 11: từ trái, Một Chuyến Ngao Du, truyện, nhà
xuất bản Xuân Thu,
California
2000, với thủ bút đề tặng của tác giả. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Thương về
năm cửa Ô xưa Tôi đứng bên này vỹ tuyến Thương về năm cửa Ô xưa Quan
Chưởng đêm tàn dẫn
lối Đê cao hun
hút chợ Dừa Cầu Rền
mưa dầm lầy lội Gió về đã
buốt lòng chưa? Yên Phụ
đôi bờ sóng vỗ Nhị Hà lấp
lánh sao thưa Cầu Giấy
đường hoa phượng
vĩ Nhớ nhung
biết mấy cho vừa... Cửa Ô ơi,
cửa Ô Năm ngả đường
đất nước Trôi từ vạn
nẻo sông hồ Nắng mưa bốn
hướng đổ vào lòng Hà Nội Gục đầu nhớ
tiếng võng đưa!... Có biết
chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy xuôi ý đẹp Có nhớ
chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người Tê tái tiếng
cười Từng cánh
hoa đời khép lại Thương về
năm cửa Ô xưa! ... |
|
Vào đầu năm 1981, Tạ Tỵ được tha về với tấm thân tàn ma dại, tóc bạc răng long. Và nơi chương cuối cuốn hồi ký Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi, xuất bản tại Hoa Kỳ (1990), Tạ Tỵ viết: “Trước khi đi tù cải tạo tôi cân được 62 kg, khi ra tù chỉ còn đúng 35 kg. Tôi gầy như bộ xương biết đi. Răng rụng gần hết, còn vài cái kể như vô dụng trong vấn đề ăn uống. Trong tờ “Giấy Ra Trại”, Cộng sản ghi lý do: “Quá già yếu, không còn đủ sức lao động”! Họ tha và tin rằng, thế nào tôi cũng chết, có thể trên đường về, và có thể gặp vợ con rồi xuống đất !” Nhưng rồi Tạ Tỵ vẫn sống sót. [1]
Tạ Tỵ là bạn thân thiết với Lê Ngộ Châu từ hồi báo Bách Khoa, nên hai người vẫn gặp nhau luôn. “Khi mới được tha về, Lê Ngộ Châu bảo tôi phải đi chụp gấp tấm ảnh làm kỷ niệm, kẻo sau này, nhờ dinh dưỡng cậu khác đi làm sao có được cái hình hài này? Tôi nghe lời, hôm sau đến tiệm hình chụp một tấm. Mấy bữa sau, khi nhìn mình qua tấm ảnh, chính tôi cũng không nhận ra! Sao tiều tụy như vậy được? Anh chị Châu làm bữa cơm thịnh soạn mời tôi, gọi là bữa cơm “Mừng Người Về Từ Cõi Chết.” [1]
Sau một thời gian ra tù, được sự chăm sóc tích cực của gia đình, sức khoẻ của anh dần hồi phục. Tạ Tỵ vẫn nuôi ý chí đi tìm tự do. Chuyến vượt biên đầu tiên, vào đầu năm 1982, mới xuống tới Bạc Liêu bị đổ bể may kịp quay về mà không bị bắt lại vào tù. Phải đến giữa năm 1982, cũng là lần vượt biên thứ hai, Tạ Ty cùng gia đình đã xuống được một chiếc ghe mong manh chật ních người, ra khơi ngày 12/6/1982, lênh đênh trên biển đúng bảy ngày, đến ngày 19/6/1982 được tàu dầu Anh quốc vớt đưa vào đảo Pulau Bidong, Malaysia. Từ đó Tạ Tỵ bắt đầu cuộc đời tỵ nạn ở tuổi 61.[1]
Ngay từ ngày đặt chân lên đảo, Tạ Tỵ đã cầm bút ghi lại kinh nghiệm những năm tù đày kinh hoàng mà anh và các đồng đội vừa trải qua. Cuốn Hồi ký Đáy Địa Ngục, dày 678 trang được khởi viết ngày 25/9/1982 và viết xong ngày 15/12/1982 tại trại Tỵ Nạn chuyển tiếp Sungai Besi, Malaysia, được Nxb Thằng Mõ, California xuất bản năm 1985 và tái bản một năm sau đó. Ngay trang mở đầu cuốn Hồi ký, Tạ Tỵ viết:
Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam là một nhà tù lớn, bên trong nó, có rất nhiều nhà tù nhỏ, được quây kín sau dãy Trường Sơn trùng điệp, sau những lũy tre dày đặc, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Không một ký giả nào thuộc Thế Giới Tự Do, kể cả các ký giả thuộc các nước Cộng sản anh em, được “tham quan” những vùng đất cấm đó. Đối với Cộng sản, cái gì cũng được giữ bí mật tối đa, cái gì cũng được che giấu bằng dối trá, lừa bịp!
Tôi đã trải qua 8 trại Tập Trung Cải Tạo, từ Nam ra Bắc. Tôi đã sống và đã chứng kiến bao nhiêu trạng thái bi thương…
Người tù chính trị Việt Nam sau ngày 30-4-1975, quả thực, một vết nhơ trên “tấm thảm lương tri nhân loại”. Họ được đối xử như những con vật, đôi khi không bằng con vật. Họ luôn luôn sống trong lo âu, hồi hộp, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến với họ, buổi sớm mai khi thức dậy, sau một đêm trằn trọc với ác mộng và muỗi rệp! Họ “ăn không đủ no, đói không đủ chết”, nên lúc nào miếng ăn cũng ám ảnh, giày vò họ, làm khổ sở, ngày này qua ngày khác, mùa nắng cũng như mùa mưa, mùa hạ cũng như mùa đông, không mùa nào họ có thể tìm thấy chút gì để tạo nên nguồn hy vọng. Nếu ai đã trải qua một lần trong bất cứ Trại Tập Trung Cải Tạo nào của Cộng sản Việt Nam, người đó có quyền coi thường mọi nhà tù trên Thế Giới!
… “Nhưng trang sử đã lật. Cái gì qua, phải qua. Nó là bài học vô cùng quý giá, miễn rằng bài học này đừng bao giờ ôn / lặp lại trong ngày mai.” [1] [hết trích dẫn]
Hình
12: Tạ
Tỵ và các thân hữu ở Little Saigon, hàng ngồi từ phải: Tạ Tỵ, Ngô Bảo;
hàng đứng từ trái: Thanh Chương, Phan Diên,
Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Văn Định. [photo by Phạm Phú Minh,
do Phạm Quốc Bảo
nhận diện]
Trong khoảng thời gian 21 năm sống tại California Hoa Kỳ, khi thì San Diego, khi thành phố Garden Grove, Tạ Tỵ tiếp tục sáng tác vẽ và viết; ông hoàn tất được một số tranh với phong cách trừu tượng và một số tác phẩm viết và xuất bản ở hải ngoại.
Hình 13: Buổi ra mắt sách Tuyển Tập Văn – Thơ – Hoạ Tạ Tỵ (2001) tại quán cà phê
Factory rất đặc biệt và cực kỳ đơn giản của “lão
ông Tạ Tỵ” ở tuổi 80 Quận Cam,
Thủ đô Tỵ nạn, hay còn có tên gọi là Little Saigon.
Hình ảnh một Tạ Tỵ với mái tóc bạc phơ,
ngồi ký từng cuốn sách với vây quanh là đông đảo lớp
người trẻ, xúm lại vui vẻ trò chuyện
với bác Tạ Tỵ. [photo by Phạm Phú Minh]
Gouache
19” x 24”; phải, nhà văn, nhà báo, học giả Hồ Hữu Tường, Gouache 19” x 24”.
Sau 1975, cả hai bị Cộng sản bắt đi tù cải tạo, và khi vừa
ra tù chỉ vài ngày
sau đó thì chết, Vũ Hoàng Chương (6/9/1976) và Hồ Hữu Tường
(26/6/1980).
[nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]
Hình 15a: Những bức tranh sơn dầu rất đẹp được vẽ tại hải ngoại
theo phong cách trừu tượng của Tạ Tỵ, với
bút pháp và màu sắc thật mạnh mẽ;
trái, Trôi
giạt, trừu tượng, sơn dầu 48” x 72” (1984); phải, Cơn Giận của Thượng Đế,
trừu tượng, sơn dầu 48” x 72” (1985) [nguồn:
Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]
Hình 15b: trái, Ngày Hạ, trừu tượng sơn dầu 48” x 72” (1986);
phải, Tạ Tỵ đứng trước bức tranh
Những Mảnh Đời Tỵ Nạn, sơn dầu 48” x
60”
(1995);
có thể
coi như bức tranh trừu tượng cuối đời của Tạ Tỵ. [nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001]
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ:
HOẠ SĨ TẠ TỴ VÀ GIẤC MỘNG CON NĂM 2000
từ năm
1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức
tranh được đổi tên Cất Cánh,
đây là
bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của bảo tàng thành phố.
[hình chụp tại Sài Gòn
tháng 11/2019, tư liệu Ngô Thế Vinh]
Rồi Tạ Tỵ đã có dịp đọc "Giấc Mộng Con năm 2000" và anh nồng nhiệt chia sẻ với tôi về dự án một Công viên Văn hóa Việt Nam ở hải ngoại mà anh gọi đó là Giấc Mộng Lớn.
CÂU CHUYỆN CUỐI NĂM. Người đàn ông nông dân ấy gốc lính cũ, hai mươi năm sau đã bước vào tuổi trung niên, chưa tới tuổi năm mươi nhưng cuộc sống lao động lam lũ khiến anh ta trông xanh xao và già sọm. Anh mất một bàn chân trái khi đã mãn lính do đạp phải mìn ngay trên ruộng nhà. Không cần là bác sĩ cũng biết là anh ta mang trên người đủ thứ bệnh tật: thiếu ăn suy dinh dưỡng, sốt rét kinh niên và thiếu máu. Tất cả sinh lực và nhân cách của anh là nơi đôi mắt sáng tuy hơi buồn nhưng luôn luôn nhìn thẳng vào mặt người đối diện. Hôm nay anh tới đây vì một lý do khác. Một mảng đen bầm nơi lưng không đau rỉ nước vàng từ bấy lâu, trị cách gì cũng không hết. Chầu chực lên trạm y tế huyện được y sĩ cách mạng cho ít viên thuốc tây, rồi đến thầy đông y cho bốc thuốc nam và cả châm cứu nữa mà bệnh thì vẫn không chuyển trong khi người anh cứ gầy rốc ra. Nay nghe có đoàn y tế thiện nguyện ở ngoại quốc về, anh cũng muốn tới thử coi, biết đâu anh lại được gặp ông thầy cũ - người y sĩ trưởng của anh năm nào. Và rồi anh chỉ gặp toàn những khuôn mặt trẻ lạ, nhưng anh vẫn cứ đưa lưng ra cho người ta khám. Một tiếng ồ rất đỗi kinh ngạc của cả toán. Tim người bác sĩ trẻ trưởng đoàn như lạc một nhịp. Không cần một chẩn đoán phức tạp, Toản nhận ra ngay đây là một dạng ung thư mêlanin ác tính - malignant melanoma, chắc chắn với di căn đã tràn lan. Dĩ nhiên căn bệnh có thể trị khỏi nếu phát hiện sớm; nhưng trường hợp này cho dù với phương tiện tiên tiến nhất trên đất Mỹ cũng đành bó tay. Chẳng phải là người bệnh mà là người thầy thuốc trẻ nói giọng buồn bã: Ông tới trễ quá, lẽ ra bệnh có thể trị khỏi... Bệnh nhân không tỏ vẻ bối rối, anh vẫn nhìn thẳng vào mặt người thầy thuốc, ánh mắt tím thẫm xuống vừa giận dữ vừa nghiêm khắc: Tới trễ? Chỉ có bác sĩ các ông là Những Người Tới Trễ chứ tôi cũng như mọi người dân vẫn ở đây từ bao giờ... Dứt khoát không chờ đợi một điều gì thêm ở đám thầy thuốc xa lạ ấy, anh quay lưng bước ra khập khễnh trên đôi nạng tre mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, khắc khổ cam chịu và vẫn can trường như một người lính thuở nào.
Hơn một lần viếng thăm Cali, nhưng mỗi chuyến đi đều đem lại cho Chính những cảm tưởng đổi mới của những cộng đồng Việt Nam rất sinh động. Thay vì chỉ hơn một giờ bay, Chính đã quyết định thuê một chiếc xe của hãng Hertz từ phi trường, đích thân lái từ Palo Alto về tới Little Saigon. Chuyến đi hướng về một thành phố trẻ trung của tương lai nhưng cũng lại là một cuộc hành trình ngược về quá khứ nhìn lại khoảng thời gian đã mất. Anh nghĩ cho dù trong bối cảnh lạnh lùng của thực tế chính trị, đương đầu với những vấn đề của Việt Nam tương lai ở ngưỡng cửa thế kỷ 21, không phải chỉ có vận dụng bộ óc mà phải là sự hoà hợp với rung động của con tim. Quỷ dữ không chỉ là bóng ma cộng sản mà ngay chính cõi lòng sao vẫn cứ chai đá của chúng ta.
NGÔTHẾVINH
Little
Saigon, 01/1995
…
Trong một thư riêng gửi đi từ Garden Grove ngày 1/2/1995, anh Tạ Tỵ viết:
Anh Ngô Thế Vinh,
Trước hết, nhân dịp đầu năm mới Ất Hợi, tôi xin gửi đến anh cũng như gia đình, một năm mới an khang thịnh vượng, gặp nhiều may mắn, sau, xin chân thành cám ơn anh đã có lòng quý mến mà gửi cho tập bản thảo “Giấc mộng LỚN năm 2000”.
"Tôi chia sẻ rất nhiều
với anh về những điều anh viết, dù rằng tuổi tôi đã cao, cái sự “nhìn thấy những điều mình mơ ước” chắc cũng khó mà thực hiện, nhưng đó
cũng chẳng sao, vì tất cả đều cho mai sau và cái “mai sau” đó so với sự luân chuyển của thời gian
cũng như lịch sử nó chẳng đáng gì. Ngọn lửa đã nhúm lên rồi, chỉ cần có thêm
nhiều nguyên liệu tạo nên sự bùng cháy trường
kỳ trong lòng mỗi người tỵ nạn có tâm huyết, bất luận trí thức hay bình dân.
Mong lắm thay! Hy vọng, hy vọng và hy vọng! Mong anh đừng bao giờ để có người nói:
"Các ông là những người đến muộn."
Anh Tạ
Tỵ cũng đã hào hứng hứa hẹn, là khi Công Viên Văn Hoá ấy hình thành, anh sẽ tặng bộ sưu tập tranh quý giá của anh,
cùng với một bức tranh tường Mural
5m x 3m “Gửi
Cho Thế Hệ Mai Sau”.
San Diego, Feb 29, 2000
Thân gửi Anh
Ngô Thế Vinh,
Rất cám ơn anh đã gửi cho 2 số báo Đi Tới. Nhìn qua, tuy chưa đọc nhưng đã thấy rất có giá trị về phương diện Sử học và Địa lý. Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà!...
Hôm nào rảnh
rỗi mời anh xuống dưới San Diego, anh em mình tiếp nối giấc mơ café, ngồi nhìn
ra biển, ở một quán nào đó chưa biết! Riêng anh, luôn luôn khoẻ mạnh, viết nhiều.
Tạ Tỵ
Nhưng rồi, khá bất ngờ
vào ngày 27/7/2000
từ San Diego cũng trong một thư riêng khác anh Tạ Tỵ
cho biết quyết định sẽ về sống ở Việt Nam.
San Diego, July 27, 2000
Thân gửi Anh Ngô Thế Vinh,
Trước hết, xin gửi nơi đây lời cầu chúc anh cùng gia đình luôn luôn an mạnh.
Sau, xin báo tin để anh được biết đến tháng 10 này [năm 2000], chúng tôi sẽ về Việt Nam để sống… chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết trước cái gì sẽ xảy ra cho đời mình? Nhưng dù sao tôi cũng muốn được an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Nếu có dịp nào, anh gặp anh Bùi Khiết, anh cho tôi gửi lời thăm anh ấy. Anh Khiết là người bạn tốt, rất tốt với tôi. Chúc anh sáng tác được nhiều tác phẩm hay để đời thế là tôi vui rồi. Về Việt Nam, tôi vĩnh viễn rửa tay gác bút, chờ ngày đi vào cõi Hư Không. Nhớ các anh lắm. Tạ Tỵ
Dù anh Tạ Tỵ đã có quyết định về sống ở Việt Nam từ tháng 7 năm 2000, nhưng rồi lần lữa thêm 3 năm nữa vì lý do sức khoẻ và chăm sóc y tế. Tới năm 2003, sau khi vợ anh mất, Tạ Tỵ đã một mình âm thầm trở về Sài Gòn, sống những tháng ngày cuối đời, cũng vẫn trong căn nhà cũ, cùng với gia đình người con gái út Tạ Thuỳ Châu.
Chỉ một năm sau, anh Tạ Tỵ mất, ngày 24 tháng 8 năm 2004, hưởng thọ 83 tuổi. Bạn bè văn nghệ cũ còn ở lại Sài Gòn đều tới tiễn đưa anh. Đặc biệt có thêm một vòng hoa viếng của Đinh Cường từ Mỹ, do Dương Nghiễm Mậu – cũng là người anh em cột chèo với Đinh Cường đại diện đem tới.
Anh Tạ Tỵ đã
toại nguyện, anh được an nghỉ nơi quê nhà, “tấm thân tứ đại” của
anh được hỏa táng để trở về với cát bụi, nhưng tên tuổi Tạ Tỵ và các tác phẩm của
anh thì vẫn trường tồn trong suốt dòng chảy của văn
hóa dân tộc.
CON CÁ HỒI VỀ NGUỒN
Tạ Tỵ là hình ảnh con cá Hồi dũng mãnh sau những tháng năm vẫy vùng ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, để từ biển rộng trở lại con sông dài, bất chấp những ghềnh thác, chỉ để được trở về nguồn – nơi mảnh đất có tên gọi rất thiêng liêng là Việt Nam, nơi anh đã được sinh ra và lớn lên, nơi vẫn còn đó những con người đã từng đày ải anh tới “đáy địa ngục” nhưng rồi bất kể những gì có thể xảy ra cho anh, con cá hồi Tạ Tỵ cũng đã trở về nơi quê hương cội nguồn.
NGÔ THẾ VINH
100 năm sinh [1921-2021]
Và ngày giỗ thứ 17 của Tạ Tỵ
[24/08/2004 – 24/08/2021]
Tham khảo:
1/ Tạ Tỵ. Hồi ký Đáy Địa Ngục, Nxb Thằng Mõ 1986; Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi, Nxb Thằng Mõ 1990; Tuyển Tập Văn Thơ Hoạ Tạ Tỵ, Nxb Thằng Mõ 2001.
2/ Nguiễn
Ngu Í phỏng vấn Tạ Tỵ. Báo Bách
Khoa, số 131, ngày 15-6-1962
3/ Tạ Tỵ, Vì sao tôi viết. Hợp Lưu số 32, p. 216, Xuân Đinh Sửu 1997
4/ Đinh Cường, Đi Vào Cõi Tạo Hình: Tạ Tỵ người hoạ sĩ luôn ưu tư về cái mới, p.86-94. Văn Mới 2015
5/ Văn Quang. Tạ Tỵ – vườn xưa đã khép. Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự, ngày 26/8/2004
6/ Ngô Thế Vinh. Tuyển Tập I Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hoá, Nxb Việt Ecology Press 2017
Hình
17a: trái, thư viết ngày 1/2/1995; phải, nhà văn Ngô Thế Vinh
nhìn bởi Tạ Tỵ
Garden
Grove, California, Jan 1996. [tư liệu
Ngô Thế Vinh]
Anh Ngô Thế Vinh,
Trước hết, nhân dịp đầu năm mới Ất Hợi, tôi xin gửi đến anh cũng như gia đình, một năm mới an khang thịnh vượng, gặp nhiều may mắn, sau, xin chân thành cám ơn anh đã có lòng quý mến mà gửi cho tập bản thảo “Giấc mộng LỚN năm 2000”.
Hình 17b: trái,
thư viết ngày 29/2/2000: Tôi thường nghĩ,
nước Việt Nam
dù dưới
chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc
dựng
nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận,
lòng thấy
vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải luỵ
phà!...; phải, thư viết
ngày 27/7/2000: Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không
biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình?
Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở
Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời
[tư liệu
Ngô Thế Vinh]
San Diego, Feb 29, 2000
Rất cám ơn anh đã gửi cho 2 số báo Đi Tới. Nhìn qua, tuy chưa đọc nhưng đã thấy rất có giá trị về phương diện Sử học và Địa lý. Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà!...
Thân gửi Anh Ngô Thế Vinh,
Trước hết, xin gửi nơi đây lời cầu chúc anh cùng gia đình luôn luôn an mạnh.
Sau, xin báo tin để anh được biết đến tháng 10 này [năm 2000], chúng tôi sẽ về Việt Nam để sống… chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết trước cái gì sẽ xảy ra cho đời mình? Nhưng dù sao tôi cũng muốn được an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Nếu có dịp nào, anh gặp anh Bùi Khiết, anh cho tôi gửi lời thăm anh ấy. Anh Khiết là người bạn tốt, rất tốt với tôi. Chúc anh sáng tác được nhiều tác phẩm hay để đời thế là tôi vui rồi. Về Việt Nam, tôi vĩnh viễn rửa tay gác bút, chờ ngày đi vào cõi Hư Không. Nhớ các anh lắm. Tạ Tỵ
Dù anh Tạ Tỵ đã có quyết định về sống ở Việt Nam từ tháng 7 năm 2000, nhưng rồi lần lữa thêm 3 năm nữa vì lý do sức khoẻ và chăm sóc y tế. Tới năm 2003, sau khi vợ anh mất, Tạ Tỵ đã một mình âm thầm trở về Sài Gòn, sống những tháng ngày cuối đời, cũng vẫn trong căn nhà cũ, cùng với gia đình người con gái út Tạ Thuỳ Châu.
Chỉ một năm sau, anh Tạ Tỵ mất, ngày 24 tháng 8 năm 2004, hưởng thọ 83 tuổi. Bạn bè văn nghệ cũ còn ở lại Sài Gòn đều tới tiễn đưa anh. Đặc biệt có thêm một vòng hoa viếng của Đinh Cường từ Mỹ, do Dương Nghiễm Mậu – cũng là người anh em cột chèo với Đinh Cường đại diện đem tới.
Tạ Tỵ là hình ảnh con cá Hồi dũng mãnh sau những tháng năm vẫy vùng ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, để từ biển rộng trở lại con sông dài, bất chấp những ghềnh thác, chỉ để được trở về nguồn – nơi mảnh đất có tên gọi rất thiêng liêng là Việt Nam, nơi anh đã được sinh ra và lớn lên, nơi vẫn còn đó những con người đã từng đày ải anh tới “đáy địa ngục” nhưng rồi bất kể những gì có thể xảy ra cho anh, con cá hồi Tạ Tỵ cũng đã trở về nơi quê hương cội nguồn.
đến cuối đời sức cùng lực
kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, đã bất chấp
những ghềnh thác, để từ
biển rộng trở lại con sông dài, chỉ để
được trở về nguồn.
100 năm sinh [1921-2021]
Và ngày giỗ thứ 17 của Tạ Tỵ
[24/08/2004 – 24/08/2021]
1/ Tạ Tỵ. Hồi ký Đáy Địa Ngục, Nxb Thằng Mõ 1986; Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi, Nxb Thằng Mõ 1990; Tuyển Tập Văn Thơ Hoạ Tạ Tỵ, Nxb Thằng Mõ 2001.
4/ Đinh Cường, Đi Vào Cõi Tạo Hình: Tạ Tỵ người hoạ sĩ luôn ưu tư về cái mới, p.86-94. Văn Mới 2015
5/ Văn Quang. Tạ Tỵ – vườn xưa đã khép. Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự, ngày 26/8/2004
6/ Ngô Thế Vinh. Tuyển Tập I Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hoá, Nxb Việt Ecology Press 2017
No comments:
Post a Comment