NGÔ
THẾ VINH
Hình 1: Giải Nobel Văn chương 1962 được trao cho toàn sự
nghiệp của
John Steinbeck, nhà văn Mỹ thứ 6 được giải Nobel tiếp
theo sau Ernest Hemingway 1954.
[ photo from the Nobel Foundation archive ]
JOHN STEINBECK, NOBEL
VĂN CHƯƠNG 1962
Sinh ngày 27/02/1902 tại Salinas, miền
trung California. Sống và lớn lên trong một vùng thung lũng đồng quê xanh tươi,
còn được gọi là “Salad Bowl” với dòng song Salinas. Xong trung học (1919), có ước
vọng viết văn, Steinbeck ghi tên học môn Văn chương Anh và cả lớp Viết văn /
Creative writings tại Đại học danh tiếng Stanford, gần Palo Alto. Năm 1923,
Steinbeck ghi tên học thêm môn Sinh Học / Biology tại Hopkins Marine Station, tại
đây Steinbeck quen biết với William E. Ritter và quan tâm nhiều hơn tới Môi
sinh / Ecology. Do theo học thất thường, ông rời Stanford 6 năm sau (1925) và
không có một học vị nào. Steinbeck quyết định sang New York lập nghiệp, ông làm
đủ loại công việc lao động tay chân để kiếm sống và tập sự làm báo, viết văn
nhưng không thành công, không nhà xuất bản nào nhận in cuốn sách đầu tay của
ông.
Trở về California 3 năm sau (1928),
Steinbeck cũng làm đủ mọi nghề, kể cả hướng dẫn du lịch ở Lake Tahoe, nhưng vẫn
túng quẫn. Ông dọn về sống trong căn nhà nhỏ của cha ở vùng bán đảo Monterey; không phải trả tiền nhà lại được
người anh giúp đỡ, không bận bịu mưu sinh, ông tập trung viết văn. Nhưng cuộc sống
lại chật vật khi cả nước Mỹ bước vào thời kỳ Đại Suy Thoái. Steinbeck mua được một chiếc tàu nhỏ, thử sống bằng
nghề đánh cá ven biển, cá cua lưới bắt được cũng là nguồn thực phẩm cho gia
đình, còn rau tươi thì hái lượm ngay trong vườn nhà; vẫn không đủ sống, vợ chồng
ông
phải sống bằng tiền trợ cấp xã hội / welfare.
Tuy vẫn viết nhưng Steinbeck chưa gây được
tiếng vang nào. Phải mãi tới 7 năm sau (1935), với cuốn Tortilla Flat tên tuổi ông mới được biết tới. Lấy bối cảnh là vùng
Monterey, California nơi ông sinh sống, thời gian sau Thế chiến I, mô tả đời sống
của đám dân quê / paisanos nghèo khổ, sống bầy đàn, chỉ biết hưởng thụ với rượu,
ham muốn xác thịt / lust, và trộm cắp vặt / petty theft. Họ là nạn nhân của
hoàn cảnh lịch sử. Tortilla Flat bắt đầu được giới phê bình đón nhận và cả
thành công về tài chánh.
Tiếp
theo 2 năm sau, là cuốn Của Chuột và Người
(Of Mice and Men,1937), “là một bi kịch của hai nông dân tha phương cầu thực với
giấc mơ có được một mái nhà, một mảnh vườn nhưng rồi vẫn phải sống một cuộc đời
làm công lang thang khổ cực.
George Milton nhỏ con nhưng khôn lanh và
gã kia là Lennie Small, tuy có tên “Small” nhưng lại to xác rất mạnh và đần độn,
tính khí dữ dằn bất thường khiến hắn phải lệ thuộc vào George trong sinh hoạt
khó khăn hàng ngày – tác phẩm chỉ với hơn 100 trang sách mà sau này được Hội đồng
giải Nobel văn chương 1962 gọi đó là một “tiểu tuyệt phẩm / a little
masterpiece”.
Rồi tới Chùm Nho Uất Hận (The Grapes of Wrath, 1939), kể chuyện về một gia
đình nông dân Joad từ vùng Oklahoma, do một thảm nạn môi sinh Dust Bowl mất hết
trang trại đất đai phải rời bỏ quê nhà di cư sang California, vùng đất của “sữa
và mật ngọt” để mưu tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng rồi họ đã phải đối đầu với
vô vàn khó khăn, không có công ăn việc làm, tiền công thì quá thấp và rơi vào cảnh
nghèo khó hơn. Cuốn sách được Steinbeck viết bằng một ngôn ngữ trần trụi /
plain spoken language giàu hình ảnh, tố cáo lòng tham của đám chủ trại giàu có,
đưa tới những bất công xã hội. Thái độ phê phán đó khiến Steinbeck trở thành
khuôn mặt khó ưa ngay nơi quê nhà. Nhóm nghiên cứu Đại học Stanford, mới đây đã
đánh giá Steinbeck như một nhà văn của môi sinh. [9]
Năm 1940, Steinbeck được giải thưởng
National Book Award với cuốn Chùm Nho Uất
Hận. Tác phẩm này cũng nhận được thêm một giải Pulitzer danh giá khác. Cuốn
sách liên tục được tái bản.
Cả
hai cuốn Của Chuột và Người và Chùm Nho Uất Hận được viết trong bối cảnh thời kỳ
Suy Thoái của thập niên 1930s, là 2 tác phẩm đỉnh cao trong văn học Mỹ được coi
là tuyệt tác của John Steinbeck. Cả hai đều được chuyển thể thành phim. Henry
Fonda đóng vai Tom Joad trong Chùm Nho Uất Hận đã được đề cử là tài tử xuất sắc
nhất cho giải Academy Award.
Tuy thành công nhưng Chùm Nho Uất Hận
cũng gây ra nhiều dư luận bất lợi cho Steinbeck, do khuynh hướng xã hội triệt để
– Steinbeck bị gán cho là thiên cộng / suspected communist leanings, do mạnh mẽ
bênh vực tầng lớp lao động cơ cực bị bóc lột bởi một giới tư bản giàu có, đầy
quyền lực sở hữu phần lớn đất đai và các trang trại, cùng liên kết với nhóm tài
phiệt chủ các ngân hàng. Chùm Nho Uất Hận xuất bản lần đầu tháng 04/1939 và trở
thành cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ nhưng ngay nơi quê
nhà, cuốn sách bị lên án là “tục tĩu / obscene, trình bày sai sự thực /
misrepresented” với những mô tả tiêu cực về đời sống di dân tới California.
Cuốn sách hai lần bị đốt công khai ở
Salinas. W.B. “Camp” viên chủ nhân giàu có với các trang trại trồng bông và
khoai tây, khi tới chủ toạ buổi đốt sách ở thị trấn Bakersfield đã tuyên bố:
“Chúng ta giận dữ không phải vì bị ai đó tấn công, nhưng chúng ta đã bị tấn
công bởi một cuốn sách tục tĩu theo cái ý nghĩa tệ hại nhất của từ ngữ này – a
book obscene in the extreme sense of the word.” Nhưng lúc đó cũng có người can
đảm như Gretchen Knief, trông coi thư viện Kern County, cô không sợ bị đuổi việc
vẫn lên tiếng cảnh báo: “Nếu cuốn sách ấy bị cấm hôm nay, liệu sẽ có them cuốn
sách nào bị cấm ngày mai?”
Chùm Nho Uất Hận bị Kern County Board cấm
trong các trường học và thư viện (1939), và chỉ được giải toả hai năm sau đó
(1941). Trong Thế chiến Thứ II, Steinbeck có thời gian làm phóng viên chiến
tranh cho tờ New York Herald Tribune (1943), đi sát theo các đơn vị xung kích đổ
bộ tấn công quân Đức
ở Ý, trên các hải đảo Địa Trung Hải. Steinbeck bị thương trở về với cả chấn
thương tâm lý; ông tự vượt qua bằng miệt mài trong viết lách.
Năm 1947, Steinbeck là một trong số những
người Mỹ hiếm hoi đầu tiên được đi thăm Liên bang Xô Viết sau Cách mạng Nga,
cùng đi với ông có phóng viên nhiếp ảnh Robert Capa. Cuốn sách Nhật Ký Nga / A
Russian Journal được xuất bản một năm sau (1948) với phần hình ảnh của Capa.
Chính quyền Cộng sản Xô Viết lúc đó đánh giá Steinbeck như một “nhà văn Mỹ tiến
bộ - American progressive writer” với cái nghĩa tả khuynh theo chủ nghĩa xã hội.
Trong cùng năm, Steinbeck được bầu vào
Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Học Hoa Kỳ / American Academy of Arts and
Letters.
Năm 1952, tiểu thuyết trường thiên Phía Đông Vườn Địa Đàng / East of Eden
được xuất bản, Steinbeck coi đó là tác phẩm lớn nhất của ông (magnum opus), sau
này lên phim (1955) với James Dean, một tên tuổi điện ảnh trẻ tài năng trong
vai Cal Trask. Năm 1961, Steinbeck cho xuất bản Mùa Đông Bất Bình / The Winter of Our Discontent, viết về sự suy đồi
đạo lý của nước Mỹ, và không được giới phê bình đánh giá là một thành công.
Năm 1962, trong sự ngạc nhiên của chính
Steinbeck, ông được trao giải Nobel văn chương cho toàn sự nghiệp văn học, “do
những trang sách viết trộn lẫn hiện thực và tưởng tượng, kết hợp sự u mặc tinh
tế và ý thức xã hội sắc bén – for his realistic and imaginative writings,
combining as they do sympathetic humour and keen social perception”. Các nhân vật
của ông đều là nạn nhân của lịch sử, của thời kỳ suy thoái.
Giải Nobel trao cho Steinbeck lúc đó đã
bị báo chí Thuỵ Điển chỉ trích nặng nề, ngay cả tại Mỹ. Nhưng sau này,
Steinbeck được mệnh danh là “gã khổng lồ của văn giới Mỹ – a giant of American
letters”, với một số tác phẩm được xem như văn học cổ điển Tây phương”.
Cũng thật trớ trêu, tuy đã là khôi
nguyên của giải văn chương Nobel, nhưng theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ /
American Library Association, thì Steinbeck là một trong số 10 tác giả từng bị
cấm đoán và chỉ trong khoảng thời gian từ 1990 tới 2004, riêng cuốn Of Mice and
Men xếp hàng thứ 6 trong số 100 cuốn bị cấm ở Mỹ.
Năm 1964, Steinbeck được Huân chương Tự
do của Tổng Thống / Presidential Medal of Freedom, từ TT Johnson là bạn ông và
Steinbeck cũng đã từng viết diễn văn cho TT Johnson.
CỦA CHA VÀ CON
STEINBECK GIỮA CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
John Steinbeck có 2 con trai với bà vợ thứ
hai Gwyndolyn Conger. Thomas Myles Steinbeck, là con cả sinh năm 1944 và John
Ernst Steinbeck IV là con thứ sinh năm 1946. Tới giai đoạn Mỹ tham chiến ở Việt
Nam, cả hai con trai Steinbeck đều tới tuổi quân dịch và bị động viên.
Khi John IV, đứa con thứ 2, vừa xong lớp
tập huấn quân sự và sắp lên đường sang Việt Nam, Steinbeck hãnh diện dẫn con tới
thăm và bắt tay TT Lyndon B. Johnson tại Oval Office, White House. John IV, tới
Việt Nam trong vai trò phóng viên chiến tranh,làm cho đài phát thanh và truyền
hình quân đội Mỹ trấn đóng ở Pleiku. Rồi tới đứa con trai cả Thomas Myles
Steinbeck cũng nhập ngũ trấn đóng ở Fort Ord, California và có thể cũng sẽ phải
sang Việt Nam.
Khi Mỹ quyết định ồ ạt đưa quân qua tham
chiến ở Việt Nam (1965), Steinbeck tuy không còn trẻ nữa ở tuổi 64, giữa cao điểm
cuộc chiến tranh đang leo thang, ông có ý định sang thăm Đông Nam Á trong vòng
5 tháng. Steinbeck không xa lạ gì với chiến tranh, từng là phóng viên chiến
tranh trong Thế chiến II. Lần này Steinbeck đến Việt Nam, vẫn như một phóng
viên chiến tranh, cho tờ báo Newsday, Long Island, New York. John Steinbeck đã
đi khắp miền Nam Việt Nam, trong vòng 6 tuần lễ, [ từ tháng 12.1966
tới đầu năm 1967 ].
JOHN STEINBECK, NOBEL
VĂN CHƯƠNG 1962
Sinh ngày 27/02/1902 tại Salinas, miền
trung California. Sống và lớn lên trong một vùng thung lũng đồng quê xanh tươi,
còn được gọi là “Salad Bowl” với dòng sông Salinas. Xong trung học (1919), có ước
vọng viết văn, Steinbeck ghi tên học môn Văn chương Anh và cả lớp Viết văn /
Creative writings tại Đại học danh tiếng Stanford, gần Palo Alto. Năm 1923,
Steinbeck ghi tên học thêm môn Sinh Học / Biology tại Hopkins Marine Station, tại
đây Steinbeck quen biết với William E. Ritter và quan tâm nhiều hơn tới Môi sinh
/ Ecology. Do theo học thất thường, ông rời Stanford 6 năm sau (1925) và không
có một học vị nào. Steinbeck quyết định sang New York lập nghiệp, ông làm đủ loại
công việc lao động tay chân để kiếm sống và tập sự làm báo, viết văn nhưng
không thành công, không nhà xuất bản nào nhận in cuốn sách đầu tay của ông.
Trở về California 3 năm sau (1928),
Steinbeck cũng làm đủ mọi nghề, kể cả hướng dẫn du lịch ở Lake Tahoe, nhưng vẫn
túng quẫn. Ông dọn về sống trong căn nhà nhỏ của cha ở vùng bán đảo Monterey;
không phải trả tiền nhà lại được người anh giúp đỡ, không bận bịu mưu sinh, ông
tập trung viết văn. Nhưng cuộc sống lại
chật vật khi cả nước Mỹ bước vào thời kỳ Đại Suy Thoái. Steinbeck mua được một
chiếc tàu nhỏ, thử sống bằng nghề đánh cá ven biển, cá cua lưới bắt được cũng
là nguồn thực phẩm cho gia đình, còn rau tươi thì hái lượm ngay trong vườn nhà;
vẫn không đủ sống, vợ chồng ông phải sống bằng tiền trợ cấp xã hội / welfare.
Tuy vẫn viết nhưng Steinbeck chưa gây được
tiếng vang nào. Phải mãi tới 7 năm sau (1935), với cuốn Tortilla Flat tên tuổi ông mới được biết tới. Lấy bối cảnh là vùng
Monterey, California nơi ông sinh sống, thời gian sau Thế chiến I, mô tả đời sống
của đám dân quê / paisanos nghèo khổ, sống bầy đàn, chỉ biết hưởng thụ với rượu,
ham muốn xác thịt / lust, và trộm cắp vặt / petty theft. Họ là nạn nhân của
hoàn cảnh lịch sử. Tortilla Flat bắt đầu được giới phê bình đón nhận và cả
thành công về tài chánh.
Tiếp theo 2 năm sau, là cuốn Của Chuột và Người (Of Mice and Men,1937),
“là một bi kịch của hai nông dân tha phương cầu thực với giấc mơ có được một
mái nhà, một mảnh vườn nhưng rồi vẫn phải sống một cuộc đời làm công lang thang
khổ cực. George Milton nhỏ con nhưng khôn lanh và gã kia là Lennie Small, tuy
có tên “Small” nhưng lại to xác rất mạnh và đần độn, tính khí dữ dằn bất thường
khiến hắn phải lệ thuộc vào George trong sinh hoạt khó khăn hàng ngày – tác phẩm
chỉ với hơn 100 trang sách mà sau này được Hội đồng giải Nobel văn chương 1962
gọi đó là một “tiểu tuyệt phẩm / a little masterpiece”.
Rồi tới Chùm Nho Uất Hận (The Grapes of Wrath, 1939), kể chuyện về một gia
đình nông dân Joad từ vùng Oklahoma, do một thảm nạn môi sinh Dust Bowl mất hết
trang trại đất đai phải rời bỏ quê nhà di cư sang California, vùng đất của “sữa
và mật ngọt” để mưu tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng rồi họ đã phải đối đầu với
vô vàn khó khăn, không có công ăn việc làm, tiền công thì quá thấp và rơi vào cảnh
nghèo khó hơn. Cuốn sách được Steinbeck viết bằng một ngôn ngữ trần trụi /
plain spoken language giàu hình ảnh, tố cáo lòng tham của đám chủ trại giàu có,
đưa tới những bất công xã hội. Thái độ phê phán đó khiến Steinbeck trở thành
khuôn mặt khó ưa ngay nơi quê nhà. Nhóm nghiên cứu Đại học Stanford, mới đây đã
đánh giá Steinbeck như một nhà văn của môi sinh.[9]
Năm 1940, Steinbeck được giải thưởng
National Book Award với cuốn Chùm Nho Uất Hận. Tác phẩm này cũng nhận được thêm
một giải Pulitzer danh giá khác. Cuốn sách liên tục được tái bản.
Cả hai cuốn Của Chuột và Người và Chùm
Nho Uất Hận được viết trong bối cảnh thời kỳ Suy Thoái của thập niên 1930s, là
2 tác phẩm đỉnh cao trong văn học Mỹ được coi là tuyệt tác của John Steinbeck.
Cả hai đều được chuyển thể thành phim. Henry Fonda đóng vai Tom Joad trong Chùm
Nho Uất Hận đã được đề cử là tài tử xuất sắc nhất cho giải Academy Award.
Tuy thành công nhưng Chùm Nho Uất Hận cũng
gây ra nhiều dư luận bất lợi cho Steinbeck, do khuynh hướng xã hội triệt để –
Steinbeck bị gán cho là thiên cộng / suspected communist leanings, do mạnh mẽ
bênh vực tầng lớp lao động cơ cực bị bóc lột bởi một giới tư bản giàu có, đầy
quyền lực sở hữu phần lớn đất đai và các
trang trại, cùng liên kết với nhóm tài phiệt chủ các ngân hàng. Chùm Nho Uất Hận
xuất bản lần đầu tháng 04/1939 và trở thành cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ
nhưng ngay nơi quê nhà, cuốn sách bị lên án là “tục tĩu / obscene, trình bày
sai sự thực / misrepresented” với những mô tả tiêu cực về đời sống di dân tới
California.
Cuốn sách hai lần bị đốt công khai ở
Salinas. W.B. “Camp” viên chủ nhân giàu có với các trang trại trồng bông và
khoai tây, khi tới chủ toạ buổi đốt sách ở thị trấn Bakersfield đã tuyên bố:
“Chúng ta giận dữ không phải vì bị ai đó tấn công, nhưng chúng ta đã bị tấn
công bởi một cuốn sách tục tĩu theo cái ý nghĩa tệ hại nhất của từ ngữ này – a
book obscene in the extreme sense of the word.” Nhưng lúc đó cũng có người can
đảm như Gretchen Knief, trông coi thư viện
Kern County, cô không sợ bị đuổi việc vẫn lên tiếng cảnh báo: “Nếu cuốn sách ấy
bị cấm hôm nay, liệu sẽ có thêm cuốn sách nào bị cấm ngày mai?”
Chùm Nho Uất Hận bị Kern County Board cấm
trong các trường học và thư viện (1939), và chỉ được giải tỏa hai năm sau đó
(1941).
Trong Thế chiến Thứ II, Steinbeck có thời
gian làm phóng viên chiến tranh cho tờ New York Herald Tribune (1943), đi sát
theo các đơn vị xung kích đổ bộ tấn công quân Đức ở Ý, trên các hải đảo Địa
Trung Hải. Steinbeck bị thương trở về với cả chấn thương tâm lý; ông tự vượt
qua bằng miệt mài trong viết lách.
Năm 1947, Steinbeck là một trong số những
người Mỹ hiếm hoi đầu tiên được đi thăm Liên bang Xô Viết sau Cách mạng Nga,
cùng đi với ông có phóng viên nhiếp ảnh
Robert Capa. Cuốn sách Nhật Ký Nga / A Russian Journal được xuất bản một năm
sau (1948) với phần hình ảnh của Capa. Chính quyền Cộng sản Xô Viết lúc đó đánh
giá Steinbeck như một “nhà văn Mỹ tiến bộ – American progressive writer” với
cái nghĩa tả khuynh theo chủ nghĩa xã hội.
Trong cùng năm, Steinbeck được bầu vào Viện
Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Học Hoa Kỳ / American Academy of Arts and Letters.
Năm 1952, tiểu thuyết trường thiên Phía Đông Vườn Địa Đàng / East of Eden
được xuất bản, Steinbeck coi đó là tác phẩm lớn nhất của ông (magnum opus), sau
này lên phim (1955) với James Dean, một tên tuổi điện ảnh trẻ tài năng trong
vai Cal Trask.
Năm 1961, Steinbeck cho xuất bản Mùa
Đông Bất Bình / The Winter of Our Discontent, viết về sự suy đồi đạo lý
của nước Mỹ, và không được giới phê bình đánh giá là một thành công.
Năm 1962, trong sự ngạc nhiên của chính
Steinbeck, ông được trao giải Nobel văn chương cho toàn sự nghiệp văn học, “do
những trang sách viết trộn lẫn hiện thực và tưởng tượng, kết hợp sự u mặc tinh
tế và ý thức xã hội sắc bén – for his realistic and imaginative writings,
combining as they do sympathetic humour and keen social perception”. Các nhân vật
của ông đều là nạn nhân của lịch sử, của thời kỳ suy thoái. Giải Nobel trao cho
Steinbeck lúc đó đã bị báo chí Thuỵ Điển chỉ trích nặng nề, ngay cả tại Mỹ. Nhưng
sau này, Steinbeck được mệnh danh là “gã khổng lồ của văn giới Mỹ – a giant of
American letters”, với một số tác phẩm được xem như văn học cổ điển Tây
phương”.
Cũng thật trớ trêu, tuy đã là khôi nguyên
của giải văn chương Nobel, nhưng theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ / American
Library Association, thì Steinbeck là một trong số 10 tác giả từng bị cấm đoán
và chỉ trong khoảng thời gian từ 1990 tới 2004, riêng cuốn Of Mice and Men xếp
hàng thứ 6 trong số 100 cuốn bị cấm ở Mỹ.
Năm 1964, Steinbeck được Huân chương Tự
do của Tổng Thống / Presidential Medal of Freedom, từ TT Johnson là bạn ông và
Steinbeck cũng đã từng viết diễn văn cho TT Johnson.
CỦA CHA VÀ CON
STEINBECK GIỮA CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
John Steinbeck có 2 con trai với bà vợ thứ
hai Gwyndolyn Conger. Thomas Myles Steinbeck là con cả sinh năm 1944 và John
Ernst Steinbeck IV là con thứ sinh năm 1946. Tới giai đoạn Mỹ tham chiến ở Việt
Nam, cả hai con trai Steinbeck đều tới tuổi quân dịch và bị động viên.
Khi John IV, đứa con thứ 2, vừa xong lớp tập
huấn quân sự và sắp lên đường sang Việt Nam, Steinbeck hãnh diện dẫn con tới
thăm và bắt tay TT Lyndon B. Johnson tại Oval Office, White House. John IV, tới
Việt Nam trong vai trò phóng viên chiến tranh, làm cho đài phát thanh và truyền
hình quân đội Mỹ trấn đóng ở Pleiku. Rồi tới đứa con trai cả Thomas Myles
Steinbeck cũng nhập ngũ trấn đóng ở Fort Ord, California và có thể cũng sẽ phải
sang Việt Nam.
Khi Mỹ quyết định ồ ạt đưa quân qua tham
chiến ở Việt Nam (1965), Steinbeck tuy không còn trẻ nữa ở tuổi 64, giữa cao điểm
cuộc chiến tranh đang leo thang, ông có ý định sang thăm Đông Nam Á trong vòng
5 tháng. Steinbeck không xa lạ gì với chiến tranh, từng là phóng viên chiến
tranh trong Thế chiến II. Lần này Steinbeck đến Việt Nam, vẫn như một phóng
viên chiến tranh, cho tờ báo Newsday, Long Island, New York. John Steinbeck đã
đi khắp miền Nam Việt Nam, trong vòng 6 tuần lễ, [ từ tháng 12.1966 tới đầu năm
1967 ].
và bắt tay Tổng thống Lyndon B. Johnson tại Oval Office,
White House ngày thứ Hai 16/05/1966
trước khi lên đường sang Việt Nam. Steinbeck là bạn của Tổng
thống Johnson từ 1963.
Cuộc gặp gỡ 4 phút theo yêu cầu của Steinbeck. [nguồn:
tài liệu LBJ Library and Museum];
phải: John IV ở Việt Nam 1966. Cả ba nhân vật nay đã là
“người của trăm năm cũ”.
Từ lâu, Steinbeck đã có thái độ khinh mạn
các nhóm phản chiến, xem họ như thành phần bạc nhược khi so sánh với những người
lính Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam. Ông không chỉ lên án họ, Steinbeck còn có ý
tưởng kỳ lạ là phải đem bọn phản chiến này thả vào đường mòn Hồ Chí Minh để xem
bọn chúng sống ra sao.
Do danh tiếng của Steinbeck với giải
Nobel và cả mối liên hệ quen biết với TT Johnson, Steinbeck được đối xử rất đặc
biệt, di chuyển với máy bay riêng thường cùng đi với cấp chỉ huy quân sự cao cấp
Mỹ, kể cả với tướng William Westmoreland, và Steinbeck cũng thường xuyên được
“briefing – tường trình” về tình hình chiến sự với bức tranh màu hồng về tương
lai thắng lợi của Mỹ ở Việt Nam.
Thường là ban ngày có mặt nơi chiến trường,
nếu không quá xa Sài Gòn và không phải ở lại qua đêm, buổi tối Steinbeck trở về
khách sạn Caravelle, dùng bữa tối trong một nhà hàng sang trọng trên lầu 9, từ
nơi đây vẫn có thể thấy ánh hỏa châu và cả tiếng trọng pháo từ xa vọng về. Những
Lá Thư gửi Alicia / Letters to Alicia được viết ở đây. [Alicia Patterson – là
tên người vợ của Harry Guggenheim, đồng sáng lập tờ Newsday, Alicia là nhà báo
tên tuổi, được giải thưởng báo chí Pulitzer, nhưng Alicia đã chết trước đó 3
năm].
Đặt chân tới Việt Nam, ngay từ đầu,
Steinbeck bị mê hoặc với những vũ khí tối tân của quân đội Mỹ, điều mà ông chưa
từng được thấy trong Thế chiến thứ II. Như khi ông chứng kiến những chiếc máy
bay DC3 “Hỏa Long –Puff the Magic Dragon”
trang bị những cỗ đại liên với hỏa lực khủng khiếp, chỉ trong vòng vài
giây có thể nhả đạn 50-ly bao trùm khắp một sân banh rộng lớn khi lâm trận như
một con rồng phun lửa. Steinbeck rất chủ quan cho rằng, “với trang bị vũ khí tối
tân như vậy làm sao mà Mỹ có thể thua cuộc chiến tranh trước đám địch quân quê
mùa ấy.”
Steinbeck cũng từng đeo súng M-16 ra bãi
tập bắn. Có điều mà Steinbeck không được cho biết là, khác với khẩu AK của VC, súng
M-16 trang bị cho lính Mỹ lúc đó thường bị hóc đạn ngoài trận địa; scandals chết
người đó đã không bao giờ được Steinbeck ghi lại trong những lá thư viết từ Việt
Nam cho tờ Newsday.
Chỉ 6 tuần lễ sống trong vùng chiến, được
bảo vệ an toàn, làm sao John Steinbeck hiểu được rằng: quân cộng sản Bắc Việt
lúc ấy cũng đã được trang bị với những vũ khí tối tân nhất của Liên Xô và Trung
Quốc, và ngay ở lãnh thổ miền Bắc lúc đó đã có hàng sư đoàn quân chí nguyện
Trung Quốc giả dạng quân Bắc Việt với những dàn hỏa tiễn phòng không tối tân sẵn
sàng nghênh chiến với hàng đoàn phản lực cơ Thần Sấm từ Hạm đội 7 bay vào oanh
tạc miền Bắc.[6]
Sự kiện lớn lao và quan trọng như vậy mà
trong bộ chính sử mới nhất của Hà Nội cho đến nay vẫn còn giấu giếm, đó là
trong cuộc chiến tranh để đối phó với Mỹ và miền Nam, giữa giai đoạn 1965 và
1970, thể theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông đã đưa sang miền Bắc VN
320.000 Hồng quân Trung Cộng. Tới 1968, Mao đưa thêm sang Lào 110.000 quân nữa
(tổng cộng: 430.000 quân). Những sư đoàn “chí nguyện quân” ấy đã ẩn náu ở rất
nhiều nơi trong các hang động như ở Lạng Sơn, Hà Nam, hay sống trong các khu rừng
biệt lập, sinh hoạt kín đáo và không được phép tiếp xúc với dân chúng. [6B]
Hình 3: trái, Rồng Ẩn Trong Rừng: Quân đội Trung Quốc
(hay còn gọi là Chí nguyện quân Trung Quốc)
trong chiến tranh Việt Nam. Xiaobing Li / Lý Tiểu Bình;
Oxford University Press 2020 [6A];
giữa: bản đồ ghi những vị trí Hồng Quân Trung Quốc trấn
đóng ở Bắc Việt Nam và Lào trong
chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1965-1970. [6B] phải, bìa
Lịch Sử Việt Nam Tập 13 xuất bản năm 2017
của Viện Sử Học, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam
giai đoạn từ 1965 tới 1975, suốt 2 trang từ
125 -126 đã hoàn toàn “giấu giếm” sự kiện lịch sử trọng đại
này. Một bộ sử Việt Nam trung thực sẽ phải là
một công trình với hùng tâm của Thế hệ Việt Nam thứ II.
[tư liệu Từ Mai Trần Huy Bích]
Nhiều chi tiết về “đạo quân ma” ấy cũng
được viết ra trong cuốn “The Dragon in the Jungle, The Chinese Army in the
Vietnam War” của Lý Tiểu Bình / Xiaobing Li do Oxford University Press xuất bản
2020. [4] Đến nay (2021) vẫn còn tìm thấy những khu hang động trong núi rừng miền
Bắc đã bỏ hoang ấy với các khẩu hiệu chữ Hán lưu dấu trên vách đá như: Trung Việt hữu nghị vạn tuế,
Hồ chủ tịch vạn tuế, Đả đảo Mỹ đế. [8]…
Steinbeck được xem như phe “diều hâu /
hawk” công khai ủng hộ sự tham chiến của
quân đội Mỹ ở Việt Nam mà ông coi đó một cuộc dấn thân anh hùng / heroic
venture, thái độ hiếu chiến của Steinbeck đã gây nhiều phản cảm trong công luận
Mỹ và ngay chính trong gia đình ông lúc
bấy giờ. Ở Mỹ, Steinbeck lúc đó không chỉ bị căm ghét bởi giới trí thức cánh hữu,
ngay cả phe tả có người không ngần ngại gọi ông là “phản bội / betrayal”. [2]
Hình 4: trái, “Diều hâu Steinbeck” với súng nón sắt và áo
giáp trong hầm cá nhân / foxhole
trên một trận địa miền Nam Việt Nam. Qua những bức thư viết
từ tiền tuyến trên tờ Newsday,
Steinbeck công khai ủng hộ sự tham chiến của quân đội Mỹ ở
Việt Nam. [nguồn: Associated Press ];
phải, John IV con trai Steinbeck (dưới cùng trong hình),
ngược với cha, là tiếng nói phản chiến mạnh mẽ,
John IV sau này trở thành đệ tử của Ông Đạo Dừa nơi Cồn
Phụng trên sông Mekong, Đồng Bằng Sông Cửu Long. [nguồn: Gale Literature
Resource Center]
John Ernst Steinbeck IV [06/12/1946 –
02/07/1991], hết thời gian quân dịch, được giải ngũ ngày 07/12/1967. Chỉ một thời gian ngắn về Mỹ, năm 1968 John IV trở
lại Việt Nam như một nhà báo với khuynh hướng phản chiến – hoàn toàn đối nghịch
với quan điểm của cha mình. John IV đã hợp
tác với Sean Flynn [con của tài tử Errol
Flynn] cùng làm tại Dispatch News Service, cung cấp cho truyền thông Mỹ những
thông tin một chiều hết sức bất lợi cho Washington như vụ Thảm sát Mỹ Lai, câu
chuyện Chuồng Cọp của trại giam Côn Sơn…
Trong khi John Steinbeck Cha vẫn còn sống,
ngày 05/03/1968, sau Tết Mậu Thân, John IV đã ra điều trần trước một Uỷ ban Thượng
viện Mỹ, nói ra những điều mà không một chính giới Hoa Kỳ nào muốn nghe, rằng:
có tới 60% lính Mỹ tuổi từ 19 tới 27 nghiện cần sa / Marijuana, và chính cơ
quan MACV cũng khuyến khích tình trạng nghiện ngập này bằng cách cung cấp thuốc
gây nghiện như Amphetamines / hay còn được gọi là pep pills cho lính Mỹ. Như một
scandal trên báo chí lúc bấy giờ, và đã có một đụng độ công khai giữa Pentagon
và John IV.
Hình 5: Chính con trai Steinbeck, từng phục vụ tại Việt
Nam cũng chống lại cha,
John IV ra điều trần trước một tiểu ban Thượng viện cho rằng
“cuộc chiến Việt Nam
là một sai lầm, lính Mỹ thì nghiện ngập, báo cáo số thương
vong thì sai sự thật, đó là
một tình trạng hỗn mang / a mess, và chúng ta cần thoát
ra.” Importance of being Stoned in Vietnam,
Steinbeck’s Son, Pentagon Clash Over Soldiers’ Pot Use.
Trang
A4 báo Independent AM Press-Telegram PM [Long Beach, California, Thứ Năm
28.12.1967]. [2]
Sự phân hóa “Của Cha và Con – Of Father
and Son” trong gia đình Steinbeck, cũng là hình ảnh bi kịch phân hóa của nước Mỹ
trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.
“Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the
War” [1] (University of Virginia Press, 2012), có thể xem là những
trang sách cuối đời gây chấn động của Steinbeck khi ông đã bước vào tuổi 64.
John Steinbeck được chẩn đoán có bệnh
nghẽn mạch tim nhưng từ chối một cuộc mổ tim [heart bypass surgery]. Ông mất tại
New York ngày 20/12/1968, giữa một trận
đại dịch cúm (1968 flu pandemic) nhưng do suy tim, và ông cũng là người nghiện
thuốc lá trong nhiều năm.
STEINBECK VÀ MỘT
THOÁNG VIỆT NAM
An Khê, Việt Nam 22/12/1966
An Khê là thị xã của tỉnh Gia Lai trên Cao
nguyên Trung phần Việt Nam, nằm bên Quốc lộ 19 giữa Pleiku và Qui Nhơn. An Khê
có giá trị chiến lược quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ tháng
8/1965 Mỹ đã xây dựng trại Radcliff, là căn cứ chính của Sư đoàn Kỵ Binh Số 1 /
US 1st Cavalry Division. Radcliff chỉ được trao lại cho Việt Nam vào cuối năm
1970 khi có chính sách Việt Nam hoá cuộc chiến tranh, chuẩn bị cho Mỹ rút khỏi
Việt Nam.
Trước Giáng Sinh 3 ngày [22/12/1966],
Steinbeck đã tới thăm căn cứ An Khê. Với hào quang của giải Nobel văn học,
Steinbeck trông phong trần ở tuổi 64, trong bộ áo lính GI’s, buổi tối ngồi trên
một chiếc thùng gỗ vây quanh là đám lính trẻ quân dịch / enlisted men, lứa tuổi
con ông, nao nức tới gặp và nghe ông nói. Bằng ngôn ngữ bộc bạch, Steinbeck tâm
sự: “Sáu tháng trước, tôi rất buồn vì 2 đứa
con trai tôi bị động viên. Nhưng rồi 6 tháng sau, bởi Chúa / by God! Tôi hãnh
diện vì chúng đã nên người. Đàn ông trai tráng thực sự là những giá trị hôm nay
/ valuable things today.” Con trai
ông John IV thì đang đóng ở
Pleiku;
một đứa khác cũng trong quân ngũ đóng ở Fort Ord, Monterey California.
Có lần được phóng viên một tờ báo hỏi: Có
phải Mỹ đang bị kẹt / locked in trong một cuộc chiến vô vọng không? Steinbeck
nói: “Đó là một câu hỏi hài hước nhất,” ông tiếp: “Mọi cuộc chiến tranh đều vô vọng
nhưng là cần thiết, và cuộc chiến tranh này cũng là cần thiết.”
Steinbeck cho biết ông tới đây để viết về
cuộc chiến tranh, chủ yếu là những cảm tưởng của ông về cuộc chiến này.
Trong cuộc gặp gỡ, John Steinbeck trả lời
mọi câu hỏi của đám GI’s về cuộc đời trải qua của ông nếu như không quá riêng
tư. Rằng ông cũng đã từng làm phu bến tàu / longshoreman, sống với nông dân,
lao động làm thuê hái bông / picked cotton. Có cả những chi tiết thú vị như
toàn bộ tác phẩm của ông đều được viết tay / written in longhand chứ ông không
đánh máy.
Hình 6: John Steinbeck vẻ già nua mỏi mệt ngồi trong
doanh trại Radcliff, An Khê
nói chuyện với đám binh lính quân dịch Mỹ lứa tuổi con
trai ông, vào buổi tối 3 ngày
trước Giáng Sinh, 22/12/1966. [nguồn: Ray Belford / Stars
and Stripes]
“Có
những câu hỏi của các bạn mà tôi chưa từng trả lời cho ai, nhưng tôi ngưỡng mộ
những gì các bạn đang làm ở đây và đáng cho tôi kính trọng”. Ngồi nói chuyện suốt
hai tiếng đồng hồ, với 2 ly cà phê, cũng đã thấm mệt, Steinbeck phải xin lỗi
đám lính trẻ đang say sưa nghe ông nói, để đi ngủ. Cảm tưởng của một tân binh
có mặt trong suốt buổi nói chuyện của
Steinbeck, có thể tóm gọn trong một câu: “He just seems to radiate greatness / Ông ấy thực lớn lao tỏa sáng.”
[3]
Pleiku, Việt Nam 07/01/1967
Ngày 7/01/1967, trong chuyến thăm Pleiku,
John Steinbeck từ trên một chiếc trực thăng UH-1B Huey quan sát cuộc chiến Việt Nam. Ông đã không tiếc lời ca
ngợi toán phi công trực thăng: “Họ lái những con tàu giống như các kỵ sĩ điều
khiển con ngựa đua của họ. Họ uốn lượn dọc theo những con suối, bay bổng trên đỉnh
cây như những cánh chim én, quay vòng và nhào xuống nhanh như cắt trong buổi
chiều. Tôi quan sát đôi bàn tay họ nơi phòng lái, rất nhịp nhàng và phối hợp
như đôi bàn tay của nhạc sĩ Pablo Casals trên chiếc đàn trung hồ cầm / cello.
Chắc bạn còn nhớ giấc mơ hồi trẻ nhỏ là được tự do bay bổng và cảm giác tuyệt vời
như thế nào. Cảnh tượng bây giờ giống như vậy, nhưng đôi bàn tay tôi thì đã già
và lú lẫn để theo lệnh, bảo phải bay vút lên / updrafts và cắt ngang / side
winds, né tránh hoả lực từ dưới đất / ground fire báo hiệu bằng một nháng lửa /
tiny puff or flash, hay một va chạm / a hit và tất cả phải tức thời và tự động.
Và tôi chỉ biết ngưỡng mộ và có niềm vui được ngắm nhìn họ.” [1]
Hình 7: Ngày 7/01/1967, nhà văn John Steinbeck trên chuyến
bay quan sát
cuộc chiến Việt Nam từ một chiếc trực thăng UH-1B “Huey”,
thuộc Trung Đoàn Không Kỵ 10
đồn trú tại Pleiku, bên cạnh ông là viên xạ thủ khẩu đại
liên M60 7.62 mm. Mấy ngày sau sau Tết Mậu Thân,
Thomas Myles Steinbeck con trai cả của Steinbeck cũng bị
đưa sang Việt Nam và từng là một xạ thủ đại liên trực thăng. [nguồn: Associated Press]
STEINBECK VÀ 2 CUỘC GẶP
GỠ CHƯA GHI LẠI
Cần Thơ, Việt Nam, Ngày…
Tháng 12 Năm 1966
BS Hoàng Ngọc Khôi,
YKSG 1960:
“Khi John Steinbeck được giải Nobel văn
chương 1962, tôi – Hoàng Ngọc Khôi và anh DS Nguyễn Phúc Bửu Tập đang làm
tại Trường Quân Y và cùng phụ trách tờ Tập San Quân Y (TSQY). Anh Bửu Tập
mua được cuốn Of Mice and Men (OMAM), đọc xong đưa cho tôi đọc. Khi trả
lại, Bửu Tập bảo: Hay là chúng mình dịch rồi đăng vào Tập San. Chúng
tôi bắt đầu dịch và cho đăng vào TSQY khoảng giữa năm 1963, dựa theo
cuốn tiếng Anh OMAM nhưng vẫn có thêm cuốn tiếng Pháp Des souris et des
hommes để tham khảo. Nhà văn Trần Phong Giao, lúc đó là Thư ký Tạp chí Văn,
tình cờ đọc được vội tìm hai chúng tôi đặt cọc là khi viết xong giao
cho Tạp chí Văn xuất bản. Tôi không biết Nxb Văn có liên lạc với John
Steinbeck hay không, nhưng hình như hồi đó chưa có thoả hiệp về tác
quyền giữa hai nước.
Khi Steinbeck sang Việt Nam thì tôi
đang làm Y sĩ trưởng Quân y viện Trương Bá Hân tại Sóc Trăng. Lúc đó,
có một Đại úy cố vấn Mỹ thuộc Cục IV Tiếp Vận phụ trách tiếp vận cho
Quân y viện TBH cứ khoảng hai tháng lại tới kiểm tra xem QYV có nhu cầu
gì không và không hiểu sao ông ta lại biết tôi có dịch cuốn OMAM.
Bỗng một hôm, cuối năm 66 hay đầu năm
67 gì đó, cũng viên Đại úy cố vấn ấy (mà nay tôi quên mất tên) bay trực
thăng ghé thăm QYV bảo tôi là John Steinbeck đang ở Cần Thơ và có hẹn
gặp ông ta ngày mai đi uống cà phê trưa từ 2 tới 3 giờ chiều và hỏi
tôi có muốn gặp Steinbeck không? Ông
bảo tôi có thể lên ngay trực thăng đi cùng nhưng khi về phải tự lo. Tôi
mừng quá nhưng trả lời sáng mai tôi sẽ lấy xe Jeep đi và về cho tiện vì
từ Sóc Trăng sang Cần Thơ chỉ khoảng hơn một giờ lái xe.
Hôm sau đúng giờ, viên đại úy Mỹ đã đợi
tôi tại QYV Phan Thanh Giản, Cần Thơ và rồi ông chở tôi tới một câu lạc
bộ sĩ quan Mỹ. Tới nơi thì Steinbeck cũng vừa tới, ông ta mặc đồ như
một quân nhân tác chiến, có khoác cả áo giáp, có bộ râu lẫn ria cắt
tỉa gọn ghẽ. Khi gặp Steinbeck tôi còn là Y sĩ Đại uý, ông ta gọi tôi là
Doctor và hỏi tôi có sang Mỹ bao giờ chưa và sao lại chọn dịch cuốn
sách OMAM của ông? Tôi nói tôi đã sang Mỹ hai lần rồi và lần nào tôi
cũng muốn mau trở về vì nhớ quê nhà và bằng hữu. Ông cười bảo vậy
đúng là điều ông muốn nói trong cuốn truyện rồi, ước vọng sao có
một mảnh đất, một khu vườn và ngày ngày gặp bạn bè tán gẫu với
nhau. Tôi mang theo hai cuốn truyện dịch, một cuốn OMAM và một cuốn Des
souris et des hommes để ông ký cho tôi và Bửu Tập, còn tôi cũng tặng ông
một cuốn truyện dịch Của Chuột và Người. Tôi chỉ được viên Đại úy cố vấn
nhường cho nửa giờ nên tôi chỉ hỏi ông một câu duy nhất là ông có dự tính gặp một
nhà văn Việt Nam nào không? Ông trả lời chuyến đi này của ông không có liên
quan gì tới văn chương cả, mà là quan sát tại chỗ về tình hình miền Nam xem có
cơ thắng trận hay không. Hôm đó viên Đại úy cố vấn có chụp cho tôi với John
Steinbeck một tấm hình polaroid lấy liền. Nửa giờ quá ngắn ngủi và
Steinbeck chỉ ở VN có sáu tuần mà phải đi khắp 4 vùng chiến thuật
và viết bài hàng ngày cho tờ báo Newsday mà ông là đặc phái viên.
Steinbeck ủng hộ Mỹ đem quân tới VN để chống sự bành trướng của CS và
rất ghét nhóm phản chiến. Ngược lại con ông, đang phục vụ tại VN
trong đoàn Truyền thông quân sự Hoa Kỳ thì lại chống chiến tranh VN.
Những bài báo của ông viết từ VN sau được in lại thành một cuốn
sách: John Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the war. Và anh cũng đã biết
rồi.
giữa: Des souris et des hommes bản tiếng Pháp; phải: Của
Chuột và Người,
bản dịch của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập, Nxb
Văn Sài Gòn 1967.
Từ sau 1975, bản tiếng Việt này đã được tái bản nhiều lần
ở Việt Nam.
Đêm 29/04/1975 do tôi di tản nhờ tàu Hải
quân rất bất ngờ nên đã không mang theo được gì. Sau 1975 có người nhà bên
Việt Nam gửi cho tôi cuốn Của Chuột và Người do Hội Nhà Văn in lại và đây
là lần xuất bản thứ hai, đề năm 1997. Cuối sách có lời viết như sau:
“Chúng tôi đã nhiều lần liên lạc với các ông Hoàng Ngọc Khôi và
Nguyễn Phúc Bửu Tập. Rất tiếc cho đến nay chúng tôi vẫn không nhận
được tin tức cụ thể từ hai dịch giả”. Sau đó bên nhà lại gửi cho
cuốn Của Chuột và Người nhưng lần này do nhà Xuất bản Văn Học ấn hành năm
2001. Và tôi nghe nói cuốn truyện được tái bản nhiều lần vì được
dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường Đại học về môn Anh ngữ.
Người bạn cùng dịch sách OMAM với tôi, DS Nguyễn Phúc Bửu Tập, thì nay cũng đã mất [1930-2020]. BS Hoàng Ngọc
Khôi, Toronto, Email ngày 21.03.2021.
Tây Ninh, Việt Nam, Ngày… Tháng 01 Năm 1967
BS
Trần Văn Khánh, YKSG 1965
BS Khánh nguyên cựu nội trú các bệnh viện,
anh là bạn đồng khóa YKSG 1965 và rất thân với Nghiêm Sỹ Tuấn, trong Ban Quan
Điểm báo SVYK Tình Thương. Ra trường bị động viên với cấp bậc Y sĩ Trung úy, là
bác sĩ chuyên khoa giải phẫu thần kinh / neurosurgeon hiếm hoi, anh được bổ nhiệm
về làm trưởng khoa Giải Phẫu QYV Tây Ninh. Anh Khánh kể: Giai đoạn ấy, do đụng
độ hai bên thương vong nhiều, ngày đêm tôi làm việc trong Quân y viện và cả
sang giúp bên Dân y viện! Tôi mổ đủ thứ; có thể tưởng tượng là tôi đã làm cả giải phẫu thần kinh
Stellectomie, với những dụng cụ dã chiến!
“Tôi
có diễm phúc gặp văn hào John Steinbeck tại Tây Ninh năm 1967, không nhớ rõ
ngày tháng trong một dịp bất ngờ khó tin! Như một “duyên khởi” vào một buổi
sáng sau vòng thăm các bệnh nhân sau mổ, rất tình cờ tôi gặp nhóm người Mỹ trên
một xe Jeep chạy vào Quân y viện, hai người đàn ông và một phụ nữ. Họ cần có nước
rửa tay và khu vệ sinh. Trong đám người ấy, tôi nhận ra ngay nhà văn Steinbeck
qua chùm râu và ria mép trên khuôn mặt nông dân của ông ấy. Steinbeck trông
phong trần trong bộ quân phục GI’s với cả áo giáp và nón sắt.
Qua
vài câu trao đổi, Steinbeck quá đỗi ngạc nhiên khi có một người bản xứ xa lạ
nói tiếng Anh lưu loát và nhận ra mình; hơn thế nữa anh ta còn là độc giả từ
bao năm của ông. Khánh nhắc tới cuốn sách The Grapes of Wrath, nhắc tới cảnh tượng
một người mẹ vừa sẩy thai đã cố gắng cứu sống một người đàn ông sắp chết đói và
cho ông ta bú bầu sữa từ chính nơi ngực mình. Khánh nói với Steinbeck, trang
sách cuối ấy không chỉ vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng và cả tuyệt đẹp, đã đọc rồi
không sao có thể quên.
Chỉ
bấy nhiêu thôi, Steinbeck đã hoàn toàn bị chinh phục. Steinbeck thân thiết mời
Khánh – mà ông gọi là “young man” lên chuyến xe Jeep cùng ông trong chuyến thăm
đi một trại Lực Lượng Đặc Biệt không xa chân núi Bà Đen mà lính Mỹ gọi đó là
Black Virgin Mountain, cũng là nơi mà Steinbeck tưởng như đó là điểm cuối của
con đường mòn Hồ Chí Minh.
Ấn
tượng sâu đậm nhất nơi Khánh: Steinbeck nói nhiều như là một war advocate /
bênh vực chiến tranh, ông tin rằng với vũ khí tối tân như hiện nay Mỹ sẽ thắng
đám lính VC hỗn tạp và cả quê mùa. Trong khi đó thì cô Mỹ tóc bạch kim ngồi
phía sau – không biết có phải là vợ mới cưới của ông hay không, đi theo làm
sténodactylo / tốc ký ghi xuống những điều Steinbeck đang nói.
Không
phải là không nhớ, nhưng Khánh không muốn nói nhiều về chuyến field trip ngày
hôm ấy với Steinbeck, Khánh coi đó như một chút riêng tư mà Khánh muốn giữ cho
riêng Anh. Khánh viết: “Tôi xin được phép không làm nhân chứng lịch sử của một
giai đoạn chiến tranh tương tàn mà rốt cuộc miền Nam bị miền Bắc cưỡng chiếm”.
Sau này sang Mỹ, Khánh đã có dịp tới thăm The National Steinbeck Center ở
Salinas, tới thành phố Carmen, cả ôm pho tượng Steinbeck. Trần Văn Khánh, Oklahoma, Email: ngày 7 tháng
3, 2021.
MỘT CUỐN SÁCH GÂY
TRANH CÃI
“Những
bức thư gửi Alicia” trên tờ Newsday được tập hợp trong một cuốn sách có tên là
Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the War, nhưng rồi đã không được in ra
vào thập niên 1960s, do những e ngại danh tiếng của Steinbeck bị thêm tổn
thương và mãi tới 44 năm sau khi Steinbeck mất (1968), cuốn sách mới được
University of Virginia Press xuất bản (2012), với Thomas Barden giáo sư Đại học
Toledo, Ohio từng là cựu chiến binh ở Việt Nam và là một học giả chuyên về
Steinbeck viết lời Dẫn Nhập và Kết Từ cho tác phẩm cuối đời của Steinbeck.
Theo
Barden, chính TT Johnson cũng muốn Steinbeck tới Việt Nam tường trình tại chỗ
những gì đang diễn ra lúc đó. Steinbeck muốn có một chuyến đi độc lập, nhưng
qua nội dung các bức thư viết từ chiến trường, rõ ràng Steinbeck có quan điểm ủng
hộ cuộc chiến tranh, phản ánh chính sách của TT Johnson lúc đó với chủ thuyết
Domino, và tính tất thắng / winnability của Mỹ trong cuộc chiến này. Giữa Cha
và Con Steinbeck đã có đụng độ với cách
nhìn khác nhau về cuộc chiến tranh Việt Nam. John IV con trai Steinbeck cho rằng
đây là một cuộc chiến sai lầm, “đa số lính Mỹ thì nghiện ngập, con số thương
vong thì không chính xác, và rằng chúng ta – người Mỹ phải rút chân ra khỏi cuộc
chiến tranh này.”
Sau
thời gian ở Việt Nam trở về Mỹ và trong những
trao đổi riêng tư, Steinbeck đã tỏ ra bất
bình về những tin tức sai lạc về cuộc chiến tranh hàng ngày cung cấp cho dân
chúng Mỹ. Chính Elaine vợ ông cũng khuyên Steinbeck cần thay đổi cách nhìn về
cuộc Chiến tranh Việt Nam, nhưng Steinbeck đã không còn sống lâu hơn để viết
thêm gì khác về cuộc chiến tranh ấy.
Đồng
ý với John Steinbeck hay không, thì sự nghiệp của ông đã hoàn tất. Tất cả những
trang viết của ông trước sau, thì nay vẫn hiện diện trên các kệ sách trong các
thư viện và trường học. Sẽ vẫn là một bài học cho các thế hệ tương lai.
đã không ra mắt vào thập niên 1960s, mà mãi tới 44 năm
sau khi Steinbeck mất.
University of Virginia Press (2012).
IN RETROSPECT – NHÌN LẠI
Năm 1972, thời gian tôi đi tu nghiệp ở
San Francisco về chuyên ngành Y Khoa Phục Hồi, John Steinbeck đã mất trước đó 4
năm (1968). Tiếp sau Lyndon B. Johnson, Richard Nixon là Tổng thống Mỹ, đang
theo đuổi chính sách Việt Nam hóa cuộc chiến tranh – mà báo chí Mỹ gọi đó là kế
hoạch đổi màu da trên xác chết, chuẩn bị cho Mỹ hoàn toàn rút chân ra khỏi Nam
Việt Nam.
Và cũng chưa bao giờ phong trào phản chiến
với teach-in, sit-in lên cao và lan rộng
ra khắp các đại học trên toàn nước Mỹ như vậy. Nơi sân trường Đại học Berkeley,
đám sinh viên “con ông cháu cha” từ miền Nam Việt Nam sang du học Mỹ cũng hòa
nhập vào đám phản chiến ấy, chúng mặc bộ áo bà ba đen tổ chức các nhạc hội hát
“Quảng Bình Quê Ta ơi” quyên tiền ủng hộ Hà Nội và Mặt trận Giải Phóng. Và ở
đâu đó, hai con trai của John Steinbeck cũng đang hòa nhập vào dòng người đó.
Cũng trong năm 1972 và cả sau này, tôi đã
hơn một lần tới thăm Monterey, Salinas quê hương của Steinbeck. Steinbeck mất ở
New York, tro cốt của ông được đưa về California và chôn cất lặng lẽ trong khu
nghĩa trang của gia đình. Ba mươi năm sau khi ông mất, một National Steinbeck
Center được khai trương (27/06/1998) nơi thị trấn Salinas, nơi quê hương ông
sinh ra.
Hình 10: trên, Trung tâm Quốc gia Steinbeck, [địa chỉ 1
Main Street, Salinas, CA 93901]
nơi thị trấn Salinas quê hương của Steinbeck. Trung Tâm
Steinbeck được xây dựng và khai
trương (1998) 30 năm sau khi ông mất (1968); dưới, câu
trích dẫn của John Steinbeck được
phóng lớn và trưng nơi sảnh đường của National Steinbeck
Center Salinas, California.
Trong một lần đã tới thăm, điều vẫn còn
lưu lại trong trí nhớ là câu trích dẫn của John Steinbeck được phóng lớn và
trưng bày nơi sảnh đường của National Steinbeck Center Salinas, California.
“Nhà văn phải
tin tưởng rằng điều hắn đang làm là quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải
giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết được điều đó là không thực.”
Dĩ nhiên đây không phải là câu văn hay
nhất của Steinbeck nhưng có lẽ phản ánh đúng nhất về cuộc đời 66 năm đầy thăng
trầm và cả nghịch lý của Steinbeck mà ông đã bướng bỉnh lựa chọn để đi tới vinh
quang và cả đôi khi chống lại chính mình.
Hình 11: Bức tượng đồng John Steinbeck,
nơi thành phố Monterey, California, quê hương ông.
NGÔ
THẾ VINH
California 28/03/2021
THAM
KHẢO:
1/ Steinbeck in
Vietnam: Dispatches from the War, March 29, 2012 by John Steinbeck (Author),
Thomas E. Barden (Editor)
2/ Steinbeck In
Vietnam: A Great Writer’s Last Reports, April 21, 2012, 6:25 AM
https://www.npr.org/2012/04/21/150012711/steinbeck-in-vietnam-a-great-writers-last-reports
3/ War hopeless but
necessary, Steinbeck says. Ray Belford, The Stars and Stripes Archives,
December 22, 1966
https://www.stripes.com/news/war-hopeless-but-necessary-steinbeck-says-1.84079
4/ John Steinbeck,
despised and dismissed by the right and the left, was a real American radical.
America’s Best Hated Author by Eric Johnson. Aug 5, 2004
https://www.montereycountyweekly.com/news/local_news/john-steinbeck-despised-and-dismissed-by-the-right-and-the-left-was-a-real-american/article_4bd65e88-6803-59da-9ec2-0a62c5c8adbb.html
5/ John Steinbeck IV
and the Coconut Monk. Alison Teal, Contributor 04/09/2014, HuffPost
https://www.huffpost.com/entry/john-steinbeck-and-the-co_b_5089375
6/ (A) The Dragon in
the Jungle: The Chinese Army in the Vietnam War. Xiaobing Li. Oxford University
Press, Jan 30, 2020. (B) A History of the Modern Chinese Army. Xiaobing Li. The
University Press of Kentucky, 2007
7/ Của Chuột và Người.
John Steinbeck. Bản dịch của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập. Nxb Văn,
Sài Gòn, 1967
8/ Khám Phá Việt Nam
Hầm bí mật dưới lòng
đất của Lạng Sơn có nhiều ghi chú bằng cả chữ Hán và
https://youtu.be/mpuudi8AMIU
9/ Great Writers of
the West: Steinbeck and the Environment. The Bill Lane Center for the American
West. Stanford University Wednesday, May 10, 2017
https://west.stanford.edu/events/great-writers-west-steinbeck-and-environment
No comments:
Post a Comment