Câu thơ gọi tình
ngọt ngào hương vỊ
phù sa miền đồng bằng sông Cửu Long
Nhà thơ Trần Phù Thế được nhiều người biết đến ở hải ngoại sau khi anh xuất bản hai tập thơ : Giỡn bóng chiêm bao [ 2003 ], Gọi khan giọng tình [ 2009 ], những bài thơ đăng trên các báo Khởi Hành , Văn Hóa Việt Nam , Thư Quán Bản Thảo … và trên các trang báo điện tử như : Sáng tạo , Da màu , Phố Văn… Anh còn phụ trách trang thơ trên tuần báo Trẻ ở Dallas – Texas . Thật ra, anh làm thơ đã lâu, lúc còn ở Việt Nam, từ thuở cắp sách đến trường , gần nửa thế kỷ nay. Năm 1962 , anh cùng với Lâm hảo Dũng - Lưu Vân - Triệu Ngọc thành lập thi văn đoàn Cung Thương Miền Nam tại tỉnh Sóc Trăng, về sau có thêm nguyễn lệ Tuân - Trần biên Thùy, mục đích phổ biến thơ văn của nhóm trên các tạp chí văn nghệ Sài Gòn . Bài thơ đầu tiên của anh mang tựa NHẠC TRĂNG đăng trên báo VĂN cuối năm 1962 với bút hiệu MẶC HUYỀN THƯƠNG. Cần phải nói thêm , tạp chí Văn là tờ báo văn học nghệ thuật nổi tiếng tại Việt Nam. Chủ nhiệm Nguyễn đình Vượng , thư ký tòa soạn Trần phong Giao, và sau là nhà văn Nguyễn xuân Hoàng . Bài vở chọn lọc cẩn thận , thơ văn đăng trên báo này rất có giá trị. Những nhà văn đã thành danh như Y Uyên , Lê văn Thiện…đều xuất thân từ tờ Văn . Anh còn có bài trên các tạp chí Thời Nay của Khánh Giang , Khởi Hành của Viên Linh …Năm 1967 , anh định in tập thơ đầu tay “Thầm yêu trộm nhớ’’ nhưng không thực hiện được vì có lệnh nhập ngũ vào trường SQTB Thủ Đức.
Bút hiệu Mặc huyền
Thương không phải tự nhiên mà có, nó bắt đầu bằng hai chữ tình yêu. Cô bé mang
tên Thương Huyền đã hớp hồn cậu học trò vừa mới lớn đang tuổi mộng mơ. Cậu lộn
ngược tên Thương Huyền thành Huyền Thương rồi thêm chữ Mặc đặt trướcchữ Huyền
cho có vẻ thơ. Thật ra, theo tâm sự của nhà thơ, chữ Mặc có nghĩa im lặng,
yêu không dám nói. Tình yêu tuổi học trò
bao giờ cũng e ấp , chỉ biết thẫn thờ nhìn người yêu trong tà áo dài nữ sinh
thướt tha cắp sách đến trường, hoặc đôi khi gặp mặt thì ngần ngại mở lời, chỉ
nói bâng quơ chuyện trên trời dưới đất. Và phải chăng bài thơ “Nhạc Trăng” là
kỷ niệm một thời tuổi trẻ của nhà thơ về mối tình đầu đơn phương này:
Trăng nhập vào trăng
lạnh tiếng đàn
Nghe sao giòn vỡ thủy
tinh tan
Chơ vơ tiếng hát cao
trừng vọng
Ta gửi hồn qua giấc
hỗn mang
Rỉ máu lên từng giọt
ngón tay
Ta thương hồn chết đã
bao ngày
Trăng mơ chảy mượt
từng chân tóc
Ta uống trăng vàng
giọt giọt say
Trăng hát miên man
buồn chậm chậm
Mây đời che khuất bóng
trăng tan
Hồn ta treo cổ vầng
trăng khuyết
Và chết vào đêm bóng
nguyệt tàn
( Nhạc trăng . TPT )
Cô bé Thương Huyền
diễm phúc thật, được hóa thân thành vầng
trăng, và thi sĩ đã ngụp lặn trong tiếng đàn trăng nghe như những mảnh vỡ thủy
tinh hòa tan vào tiếng hát trăng buồn muôn thuở . Bài “Nhạc Trăng” là tiếng
lòng thổn thức bi thương đầy huyết lệ, thống thiết như bài thơ
PHAN THIẾT - PHAN THIẾT của Hàn Mặc Tử: Trăng vàng ngọc , trăng ân tình chưa phỉ / Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm
ngùi trăng / Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng / Thơ phép tắc bỗng kêu rên
thống thiết / Hỡi Phan Thiết , Phan Thiết / Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu ,
Mi là nơi ta sầu hận ngất ngư / . Nhạc Trăng ý và từ mượt mà, điêu luyện,
vậy mà Trần phù Thế sáng tác vào cuối năm 1962 , lúc đang học lớp đệ nhất
trường trung học Hoàng Diệu - Sóc Trăng . Đây có phải là điềm báo hiệu cho
những mối tình đầy sóng gió của thi sĩ sau này, hay là những nụ hoa bắt đầu
chớm nở trong khu vườn văn học nghệ
thuật Việt Nam .
Người đẹp Thương
Huyền sau hơn bốn mươi năm vắng bóng bỗng nhiên xuất hiện bất ngờ qua lời kể
của Trần Phù Thế : “Năm 2004. Võ Đức Trung của nhóm Văn Hóa Pháp Việt tại
Paris, có mời tôi góp mặt trong tuyển tập thơ Một Phần Tư Thế Kỷ Thi ca Việt Nam Hải Ngoại 3. Sách phát hành một
tháng sau tôi nhận được một phong thư gởi từ nước Germany trời Âu. Tôi ngỡ
ngàng khi hai chữ Thương Huyền nằm trên góc trái bìa thư đập nào mắt tôi. Dễ
chừng hơn bốn mươi năm không gặp nàng. Bây giờ bỗng nhiên xuất hiện. Tôi vội
vàng xé phong bì với niềm xúc động. Tội đọc ngấu nghiến, những con chữ như nhảy
múa dưới mắt tôi …Gia đình nàng vượt biên năm 1980 và hiện định cư tại Đức.
Nàng cho biết ngày xưa có biết tôi làm thơ và đã từng thích thơ MHT nhưng không
biết là bút hiệu của tôi…. Nàng cho biết đã đọc bài thơ “Tuổi Thơ Đại Ngãi”
trong tuyển tập của Nhóm Văn Hóa Pháp Việt và bần thần suốt ngày. Những kỷ niệm
thời thơ ấu như sống lại, hiển hiện trước mắt. Nàng bèn liên lạc với Võ Đức
Trung xin địa chỉ tôi và đã viết thư cho tôi với lời cám ơn. Đọc thư xong, niềm cảm khái dâng trào, tôi
ngồi vào bàn viết và viết trong bốn mươi lăm phút là hoàn tất bài thơ “Bậu về”:
bậu về liếc mắt
đong đưa
gió Xuân đầy mặt
như vừa chín cây
bậu về má đỏ hây
hây
ta mười lăm đã lòng
say bậu rồi
bậu còn
chơi ác nói cười
những câu dí dỏm
chết đời ta chưa
bậu về nhớ nắng
thương mưa
hình như cây cỏ
cũng ưa bậu về
như là có chút nắng
hè
như là có cả
chùm me chua lừng
như là xoài tượng
thơm giòn
thêm vào nước mắm
chút đường khó quên.
bậu về
Đại Ngãi mình ên
bỏ quên kẹp tóc
bắt đền tội ta
bậu quên là tại bậu
mà
tại sao bậu bắt đền
ta một đời
tội này không chịu
bậu ơi !
( Bậu Về - TPT )
Chữ BẬU rất nhiều
nghĩa, thường được dùng trong ca dao Việt Nam hoặc trong lời hát ru
con của những bà mẹ miền quê, được Trần
Phù Thế đem vào thơ thật tài tình, vừa dí dỏm lại vừa nũng
nịu của lứa tuổi mộng mơ “chùm me chua
lừng – xoài tượng thơm giòn” . Một bài thơ tình tuyệt vời , từng câu từng chữ
mộc mạc , bình dị như lời nói thường ngày rất gần gũi thủ thỉ bên tai : bậu về
/ Đại Ngãi mình ên / bỏ quên kẹp tóc / bắt đền tội ta / bậu quên là tại bậu mà
/ tại sao bậu bắt đền ta một đời / tội này không chịu bậu ơi / .Hình ảnh
chiếc kẹp tóc trong thơ sao mà dễ thương quá, khiến ta nhớ đến những mái tóc
thề vừa chấm ngang vai, những tà áo dài
trắng của những nữ sinh thời trung học… và chắc chắn ta không thể nào quên
những dỗi hờn trách yêu: bậu còn / chơi ác nói cười / những câu dí
dỏm / chết đời ta chưa.
Tôi và Trần Phù Thế
có duyên văn nghệ với nhau vào cuối thập niên 1960. Trần Phù Thế làm trưởng ban
2 Liên đội ... BCH đóng tại Bà Hom - Gia
Định. Đại đội tôi trực thuộc Liên đội, và tôi là trung đội trưởng đóng quân tại
mật khu Lý văn Mạnh. Biết tên nhau qua thơ văn đăng trên Văn , Khởi Hành , Thời
Nay … nay lại là lính cùng chung đơn vị
nên lần đầu gặp mặt không hề có những rào đón, khách sáo xã giao mà rất cởi mở, chân tình. Giờ đây đã hơn bốn
mươi năm , tuổi đời đã trên dưới bảy mươi, trải qua một cuộc bể dâu: Trầm luân
và khổ nạn, tình bạn chúng tôi cũng vẫn nồng ấm như ngày xưa cùng với những tình thân trong nước và ở hải
ngoại như : Ngô Nguyên Nghiễm , Lưu Vân , Nguyễn Thành Xuân , Phạm Nhã Dự , Hà
Thúc Sinh , Vũ Uyên Giang , Nguyễn lê La Sơn…
Nhắc đến những
người bạn cùng thời mà không nhắc đến Khánh Giang và Dương Trữ La thì quả là
điều thiếu sót không thể nào tha thứ được, có phải không Trần Phù Thế? Hai anh
là nhà báo, nhà văn chuyên nghiệp. Khánh Giang làm tổng thư ký bán nguyệt
sanThời Nay , chủ nhiệm tuần báo Đời Nay. Dương Trữ La viết feuilleton trên các
nhật báo, đồng thời cộng tác với tuần báo Khởi Hành, Đời Nay và một vài tờ báo
khác.Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau tại nhà Phạm Nhã Dự ở Mười tám thôn vườn
trầu Bà Điểm - Hốc Môn, thảo trang của
Ma Xuân Đạo ở Thạnh Lộc Thôn sát bờ sông Sài Gòn, hoặc nhà Khánh Giang ở Chợ
Lớn, nhà Dương Trữ La tại con hẻm nhỏ đường Trần Quốc Toản …Chúng tôi đầy ắp
những kỷ niệm với nhau, văn nghệ là lẽ đương nhiên còn đời thường rất nhiều
lần bên tách trà chung
rượu.
Nhớ đêm khai
trương quán cà phê văn nghệ Phương tại đường Nguyễn Trãi , ca nhạc do ca sĩ
Quốc Phong đảm trách với sự có mặt chung vui của Lâm Chưong , Tô Đình Sự, Trần
Phù Thế, Phạm Nhã Dự , Nguyễn Lê La Sơn …Tất cả đều mặc quân phục chỉ riêng có
Khánh Giang và Dương Trữ La mặc đồ dân sự , không nhớ Lâm Chương hay Trần Phù
Thế nói khích thế nào , hai anh về thay hai bộ đồ lính mới tinh cổ áo mang cấp
bậc chỉnh tề . Thì ra hai anh là quân nhân biệt phái.
Nhà thơ Phạm Nhã Dự viết: “ Từ đó chúng ta
tìm gặp nhau ở Khởi Hành hoặc Tin Sáng với Dương Trữ La lân la “ Cây Lý” thân
tình; ở Thời Nay với Khánh Giang , ngồi vỉa hè Phạm Ngũ lão bên “ dĩa cơm sườn
và chai Vĩnh tòn ten”, cùng những bài chưa đăng đã trả tiền trước, ở Kim Sơn
hay La Pagode ’’. “Cùng những bài thơ
chưa đăng đã trả tiền trước’’, ý Phạm Nhã Dự đề cập đến con người Khánh Giang,
rất hào sảng và rất phóng khoáng .Tôi nhớ rất rõ tòa soạn báo Thời Nay nằm trên
đường Phạm ngũ Lão, tầng một là nơi làm việc của Khánh Giang, tầng trệt dành
riêng cho cô thư ký. Mỗi lần đến đưa bài anh đều bảo cô thư ký ứng tiền trước
hoặc chờ anh lo xong bài vở rồi chúng tôi sẽ kiếm một cái quán nào đó hàn huyên
tâm sự thâu đêm . Hai anh tửu lượng rất cao, uống không bao giờ say. Có lần tại thảo trang của nhà văn Ma
Xuân Đạo sát bờ sông Sài Gòn, Dương Trữ La sau một chầu nhậu nhảy xuống sông
tắm bị lục bình quấn chân suýt chết đuối, tôi dân biển lội giỏi kè vai dìu anh
vào bờ. Giờ đây Dương Trữ La - Khánh Giang - Tô Đình Sự - Trần Kiêu Bạt - Quốc
Phong … không còn nữa , nhưng mỗi lần nhắc đến
chúng tôi đều xót xa, ngậm ngùi, tiếc thương cho những người bạn tài hoa
bạc mệnh không tiếp tục theo đuổi con đường mà các anh đã chọn lựa.
Nầy Sự , rượu tới
phiên mày
uống say một trận cho
đầy cơn mê
tuổi thanh niên cũng
chẳng hề
Thằng ra chiến trận ,
thằng về áo quan
[ Tô Đình Sự - uống
rượu ở vườn trầu Bà Điểm – TPT ]
Khói sương là chốn vô
thường
nắng mưa là chuyện âm
dương của trời
tử sinh là lẽ con
người
Bạt ơi, số mạng một
đời như không
đục dòng thơ rượu khơi
trong
ta nghe tiếng đứt ,
mệnh mông mênh chìm
hỏi mày nằm đó lặng im
bao quanh hương khói
ai tìm hồn xưa
một đời quanh quẩn gió
mưa
khăn sô đắp mặt sao
thừa rượu cay
một đời hào phóng vung
tay
lòng quên thiên hạ
tình say bạn bè
[ Trần Kiêu Bạt – TPT ]
Lục bát là thể thơ
thuần túy Việt Nam, dễ làm khó hay không khéo sẽ thành vè. Người xưa đã lưu
danh muôn thuở với những áng thơ lục bác bất hủ như Truyện Kiều của thi hào
Nguyễn Du, Chinh Phụ Ngâm của Đoàn thị Điểm …Thời tiền chiến có Huy Cận ,
Nguyễn Bính … Thập niên năm mươi sáu mươi
có những nhà thơ làm lục bát rất hay như Cung Trẩm Tưởng , Viên Linh , Hoàng
Trúc Ly , Bùi Giáng , Trần Tuấn Kiệt , Phạm Thiên Thư , Trần Yên Thảo , Nguyễn
Đức Sơn ( Sao Trên Rừng ) … Trần Phù Thế thật sự nặng nợ với thơ lục bát từ
ngày anh định cư tại Mỹ vào thập niên chín mươi. Anh rất mê thơ lục bát, bằng
chứng anh làm rất nhiều thơ lục bát, hơn
năm trăm bài thơ của anh tôi đọc được,
hai phần ba là thơ lục bát.
Anh còn thử nghiệm làm mới thơ lục bát bằng
cách thay đổi hình thức thơ. Bài thơ hai câu:
con chim nó gọi bạn tình
còn ta gọi bậu một mình tàn hơi
Phân thành sáu câu:
con chim
nó gọi
bạn tình
còn ta gọi bậu
một mình
tàn
hơi
[Tàn hơi - TPT ]
Bài ba câu:
biết tận cùng nghĩa đau thương
hiểu tận cùng lẽ vô thường tử sinh
em ơi thấy bóng chẳng hình
Phân thành năm câu:
biết tận cùng
nghĩa đau thương
hiểu tận cùng lẽ vô
thường tử sinh
em ơi
thấy bóng chẳng hình
[ Biết - TPT ]
Và còn rất nhiều bài lục bác anh mở bài câu tám và chấm dứt
câu tám:
lênh đênh chin cửa
trăm năm cõi người
một lần lỡ bước rong
chơi
ta thân phù thế một
đời như không
[Bạt – TPT]
Bài mở câu sáu kết câu sáu:
một hôm lịch sử rụng
đầu
cha Long Quân hỡi
mẹ Âu Cơ hời
con rồng phiêu bạt
khắp nơi
[lịch sử - TPT]
Bài thơ lục bát
ngắn hai ba câu ngắt thành nhiều
câu rất cô đọng , giàu nhạc tính . Mỗi
câu : một , hai hoặc ba …chữ tạo nên một
nhịp thơ mới thật lạ , âm điệu vừa phong phú lại vừa lơ lửng chênh vênh , ẩn chứa bên trong những câu , chữ là ý thơ mênh mông vô tận . Nhà thơ
Thiếu Khanh đã nhận định:
“Dường như những thể nghiệm đó cho thấy hình
thức sáu chữ, tám chữ không hề là cái khuôn cứng ngắc gò bó trói buộc câu thơ,
trái lại, trong giới hạn câu chữ đó tài năng của nhà thơ vẫn có thể làm cho thể
thơ càng thêm uyển chuyển và giàu tính biến hóa khiến mỗi bài thơ có vẽ phá vỡ
và thóat ra khỏi hình thức câu chữ của nó, hóa giải ranh giới ràng buộc của số
câu số chữ, làm
tăng thêm sự phong phú
của âm điệu, nhạc điệu. Có lẽ thời gian sẽ giúp khẳng định giá trị của sự
tìm tòi sáng tạo của anh,
ít nhất là về cách xếp đặt mới cho thể thơ truyền thống quen thuộc nầy mà nhiều
nhà thơ từng ngậm ngùi nhận xét: thơ lục bát dễ làm mà khó hay!”
[ Thiếu
Khanh : Thơ lục bác mới của Trần Phù Thế ]
Trần Phù Thế sinh
ra , lớn lên tại Sóc Trăng , học trường
Hoàng Diệu – Ba Xuyên trường Phan Thanh Giản – Cần Thơ và sau khi ra tù anh đã
hơn mười năm phiêu bạt giang hồ khắp các tỉnh miền Tây trước khi định cư tại Mỹ
, nên những bài thơ tình của anh
ngọt ngào hương vị phù sa miền
đồng bằng sông Cữu Long . Đặc biệt chữ dùng trong thơ anh không pha trộn hai
miền Trung - Bắc mà thuần túy chất giọng
miền Nam , đôi khi anh còn dùng những đặc ngữ miền Tây mộc mạc , chân
chất thấm đượm tình quê như : xa ngái ,
sao vậy cà , chua lừng , con nước nhửng , chết điếng , tuốt luốt… rất gần gủi
thân thương.
Ta ghét mười năm ở xứ
này
Mười năm đủng đỉnh lục
bình quay
Như con nước nhửng
dòng sông Hậu
Thương cả lần đi ứa
máu đầy
[ ta ghét – TPT ]
Hai con trống mái giận
nhau
Hai con chim mái làm
sao vậy cà
Mấy lần
bước xuống
con đò
mà quên tuốt luốt
thăm dò cạn sâu
[ lục bát không đề - TPT ]
Những nơi anh dừng chân : Đại Ngãi - Hậu
Thạnh - Cần Thơ – Sóc Trăng - Kiên lương – Mương Điều - Đường Đức - Trường
Khánh – Hòn Me – Hòn Đất … anh đều để lại những bài thơ bát ngát , mênh mông cỏ
nội hoa ngàn . Và thấp thoáng đó đây một vài mối tình chơi vơi như những cánh
lục bình bập bềnh sóng nước Cửu Long.
Một lần ở lại lỳnh
quỳnh
đêm nghe cá quẩy bờ
kinh tám ngàn
xác xơ đầu ngỏ cuối
làng
hòn me , hòn đất héo
vàng tuổi xanh
em đi cỏ úa hồn anh
ngày về như thể mỏng
tanh cánh chuồn
một lần ở lại Kiên Lương
khói xi măng thở bụi
đường hà tiên
[ lỳnh quỷnh - TPT ]
phải chăng Hậu thạnh
mù xa
khúc sông xóm ngọn,
cây đa, cái đình
ta về mắt ướt điêu
linh
phải chăng người cũ
hiện hình đâu đây
lòng đau biết mấy đêm
dài
ta đau biết mấy ngàn
ngày quê hương
đi lên , đi xuống con
đường
bước lê cái bóng tà
dương một mình
ta về gió thổi hiển
linh
[ Hậu Thạnh – TPT ]
Nhà thơ Phan Xuân
Sinh nhận định về ngôn ngữ miền nam
trong thơ Trần Phù Thế như sau: “Thơ anh
vừa sâu sắc vừa lắng đọng.Vừa chua chát nhưng cũng vừa vị tha , độ lượng .
Trong thơ anh hiện rõ cái nét chơn chất của người miền nam lục tỉnh hiền hòa,
chất phác Cái ngôn ngữ mộc mạc được anh
đưa vào thơ một cách tự nhiên và làm câu thơ trở thành duyên dáng mượt mà.
[ Một góc nhìn : giọng miền nam lục tỉnh trong thơ Trần Phù
Th ế - Phan Xuân Sinh ]
Nếu ai hỏi tôi nhớ
bài thơ nào của Trần Phù Thế nhất, tôi sẽ không ngần ngại trả lời đó là bài ĐỜI
TA . Không những tôi mà cả vợ tôi đều thuộc lòng , thỉnh thoảng tôi đọc cho cả
nhà nghe mọi người không cầm được nước mắt . Đây không phải là một tuyệt tác ,
nhưng bài thơ đã nói lên được phần nào
đời tôi , đời bạn…những ngưởi
lính VNCH , sau khi cộng sản Bắc việt xé bỏ hiệp định Paris và cưỡng chiếm miền
nam ngày 30/ 4/75 , đều chung số phận nghiệt ngã như nhau . Sống chết trong
khói lửa chiến tranh . Khổ nhục trong các trại tù cọng sản . Và sau khi ra tù một số không ít anh em ngậm đắng nuốt
cay khi phải đối diện với sự thật đau lòng, gia đình ly tán, cha mẹ vợ con không
biết lưulạc phương trời nào , còn sống hay đã chết; cộng thêm sự kềm kẹp khắc
nghiệt của bọn công an phường xã , nhưng vẫn âm thầm chịu đựng, ngẩng cao đầu không chịu khuất phục trướcc
bạo quyền cọng sản .
Bài thơ ĐỜI TA dài
66 câu , 16 đoạn mỗi đoạn 4 câu , ghi lại một phần đời của tác giả, thời gian bắt đầu từ ngày vào tù năm 1975 và
ra tù từ trại GIA TRUNG năm 1982 . Nói
đến trại tù Gia Trung là nói đến sự vô nhân, độc ác cùng cực của bọn cầm thú
lên làm người . Chúng đánh tù bằng thanh sắt gõ kẻng báo hiệu giờ lao động , ra
lệnh cho bọn trật tự là tù hình sự cùng chúng luân phiên đấm đá những người mà
chúng ghét , bất luận thành phần nào , kể cả tu sĩ và những người đáng tuổi cha
ông chúng.
chiều xuống sương mù
bay lãng đãng
bảy năm không án tù
Gia Trung
Bảy năm vắt kiệt đời
trai trẻ
Mây trắng Trường Sơn
mỏi núi rừng
Thà chết như là con
kiến nhỏ
Còn hơn hèn mọn kiếp
lao tù
chiều nay mây oán trên
đầu núi
Hãy chở lòng ta đến hư
vô
…………………………………….
Trong lúc bạn ta còn
nằm lại
Trên đồi hiu quạnh đất
Gia Trung
Gió mưa rát mặt không
nhang khói
Hồn lạnh bơ vơ giữa
núi rừng
( ĐỜI TA – TPT )
Tôi từ trại Nam Hà
chuyễn vào trại Gia Trung cuối năm 1981, bị bệnh nặng nên được đưa lên bệnh xá
nằm ở phòng lao chờ chết. Nguyễn Hải Chí [ họa sĩ Choé ] làm ở phòng Văn hóa
thỉnh thoảng thăm tôi. Anh đã từng bị
biệt giam nhiều tháng chỉ vì táy máy tay chân, trong giờ nghĩ lao động anh vẽ
trên cát thằng tù ốm trơ xương, cái đầu là củ khoai lang sùng nham nhở. Anh và
tôi tâm sự rất nhiều. Người mà anh nhắc đến nhiều nhất là nhà thơ Viên
Linh và tạp chí Khởi Hành . Nhà thơ Viên
Linh đặt bút hiệu Choé cho anh. Khởi Hành đăng tranh biếm họa của anh . Bắt đầu
từ đó anh đã trở thành một họa sĩ nổi tiếng không những ở trong nước mà cả thế
giới . Chúng tôi dự định khi ra tù sẽ vượt biên. Mộng của anh sẽ viết một phim
truyện bằng tranh đại ý cho Max – Lênin -
Stalin – Mao Trạch Đông –Hồ Chí Minh tranh dành ngôi vị Diêm vương dưới
âm phủ, kết cuộc âm mưu bại lộ , Max bị quỷ sứ cắt lưỡi , còn những tên khác bị
vất vào chảo dầu sôi… Tiếc thay anh mất sớm nên không thực hiện được hoài bão
của mình.
Cũng chính
nơi trạm xá này , tôi đã chứng kiến tận mắt cảnh cai tù trút những đòn
thù dã man trên thân thể ốm trơ xương như thây ma của anh em tù nhân. Tôi không
bao giờ quên được hình ảnh một vị mục sư khả kính, áo quần bê bết máu , mặt mũi
sưng vù nằm sóng soãi trên nền cát mặc cho bọn trật tự và bọn cán bộ đánh đập
dã man cho đến khi ngất xỉu. Trung tá
Nguyễn văn Thanh bị đánh chết tại đây.
Một số văn nghệ sĩ bị giam tại trại này như : Nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết
Khánh , Nguyễn sỹ Tế , Trần Tuấn Kiệt , Trần Dạ Từ , ký giả Dzoãn Bình … …
Nhà thơ Trần Phù
Thế ở tù tại Gia Trung nên người viết
tạm ghi lại một phần rất nhỏ về những sự tra tấn khốc liệt của bọn cai
tù cọng sản. Muốn biết thêm cảnh lao tù của cọng sản khắc nghiệt như thế nào
xin đọc trường thiên bút ký Đại Học Máu
của nhà văn Hà Thúc Sinh, Đáy Địa Ngục của
nhà văn Tạ Tỵ , Thép Đen của Nguyễn
Chí Thiệp …và kể cả bút ký của các nhà văn Miển Bắc sống trong chế độ cọng sản như
Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên , Chuyện Kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn …
Trong tù , không biết ngày nào được tha , tương lai mờ
mịt nên chúng tôi đã chuẫn bị tinh thần rất vững vàng cho những tình huống xấu
nhất có thể xẩy ra , kể cả cái chết . Và với người đầu ấp tay gối , có thể vì
hoàn cảnh xã hội đưa đẩy đến bước đường cùng ,
cũng có thể thanh xuân tràn trề sức sống
không chờ đợi được , bước thêm một bước nữa cũng là chuyện bình thường . Chúng tôi không hề oán trách dù
trong lòng hết sức xót xa , đau đớn . Tuy nhiên , phần đông những người mẹ ,
người vợ có chồng tù tội dưới chế độcọng sản đều làm tròn thiêng chức của một
người đàn bà Việt Nam , thủ tiết chờ chồng ,và dù chồng có chết trong tù cũng
vẫn một lòng một dạ thủy chung thờ chồng nuôi con.
Vợ ta hãy nhớ lời ta
dặn
Mai mốt bặt tin đừng
đi tìm
cải tạo , đi tù coi
như chết
coi như vĩnh biệt phút
ban đầu
một mai em thấy lòng
son trẻ
vẫn còn nóng hổi
chuyện thanh xuân
thì em cứ bước thêm
bước nữa
ta chúc cho em phúc
vạn lần
khuyên em là giả , em
đi thật
hai đứa con khờ đói bơ
vơ
hai đứa con khờ ba bốn
tuổi
cha tù mẹ bỏ sống bơ
vơ
( Đời Ta – TPT )
Nhà thơ Lê Phi Ô nghiến răng cắn nát môi lấy máu viết thành thơ
: vợ
bỏ con thơ theo cán bộ / Đổng tiền đánh đổi cả nhục vinh / Hỡi ơi canh bạc đời
đen đỏ / Mỹ nhân hề chén rượu tàn canh /Tiếng gọi Việt Nam .LPO / Cảnh
nhà Trần Phù Thế bi thảm hơn nhiều.
Chổng tù tội. Vợ ôm cầm sang thuyển khác bỏ hai con nhỏ mới lên ba bốn
tuổi bơ vơ không nơi nương tựa, lang thang, đói rách .Ông bà nội tuổi già sức
yếu lặn lội tìm cháu nhiều tháng trời mới gặp được hai cháu đang ăn mày giữa
chợ. Điều bi thãm nhất ở đây là hai cháu
ăn xin ở hai nơi khác nhau , khi gặp lại
ông cháu chị em chỉ còn biết ôm nhau khóc.Viết những dòng này mà tay tôi run
run bồi hồi xúc động, dù tôi biết hiện
nay hai cháu định cư tại Mỹ cùng cha
theo diện HO, cuộc sống ổn định, hạnh phúc bên chồng con.
em đi một tiếng không
giao lại
hai đứa con thơ cho mẹ
chồng
bà đi tìm cháu bao
ngày tháng
gặp cháu ăn mày giữa
chợ đông
con chị ôm em mừng
khóc ngất
nội ôm hai cháu lệ
lưng tròng
ta về đứa chị theo bà
nội
bán chuối ven sông với
chiếc xuồng
bảy năm vắng mẹ , cha
tù tội
con trải thân đời với
gió sương
còn con gái nhỏ cùng
ông nội
chăn vịt trên đồng mới
gặt xong
tuổi thơ đội nắng, hai
màu tóc
nắng cháy đời con ,
cháy cả lòng
ta về hai trẻ nhìn ngơ
ngác
xa lạ bừng trong mắt
trẻ thơ
nước mắt còn đâu . Còn
nước mắt
ôm con mà khóc tự bao
giờ
thưa ba , thưa mẹ ,
con tạ tội
ba khổ mẹ rầu những
bảy năm
lich sử chơi con đòn
đau điếng
bảy năm tù tội nặng
nghìn cân
(Đời
ta – TPT )
Vâng , lịch sử không những chơi ta một đòn đau điếng mà còn chơi cả dân tộc
chúng ta một đòn đau điếng có phải không Trần Phù Thế? Giờ đây, sống ở xứ người
, nhìn về quê hương Việt Nam mà lòng đau như cắt . Xã hội băng hoại . Đạo đức
suy đồi . Biển , đảo , đất , rừng dần dần mất về tay Trung Cộng . Vậy mà bọn
sâu bọ Ba Đình vẫn sống phè phỡn , nhỡn nhơ trên mồ hôi , nước mắt , và xương
máu của đồng bào . Chúng còn đánh đập dã man , bắt nhốt vào tù những người yêu
nước đã can đãm đứng lên đáp lời sông núi , cất cao tiếng nói bão vệ giang sơn
, tổ quốc .
Đọc một câu thơ hay
sướng cả tuần . Đọc một đoạn thơ hay sướng cả năm . Đọc một bài thơ hay sướng
cả đời. Không nhớ câu nói này của ai, nhưng rất đúng với những người yêu thơ và
nặng nợ với thơ. Thời tiền chiến có Màu tím hoa sim của Hữu Loan , Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác , Tây Tiến của Quang Dũng, Tống biệt hành của Thâm Tâm …, vào thập niên 50 , 60 còn có rất nhiều bài thơ của Cung Trầm Tưởng , Nguyên Sa
, Thanh Tâm Tuyền , Hoàng Trúc Ly , Viên Linh, Tuệ Sỹ, Tô Thùy Yên… mà trong
bài viết ngắn này người viết không thể trích ra hết được; đã vượt thời gian lưu
danh muôn thuở . Thơ Trần Phù Thế có rất nhiều câu hay, đoạn hay, và bài Bậu Về rất hay theo thiển ý của người
viết, không biết sau này sẽ ra sao? Thời gian sẽ trả lời. Nhà thơ Trần Phù Thế
có lẽ khi làm thơ không nghĩ đến điều này, được – thua – còn - mất chỉ là một
thoáng phù du có phải không Trần Phù Thế? Anh vẫn tiếp tục đi theo con đường
anh đã chọn lựa, dệt những vần thơ tình ngọt ngào hương vị phù sa miền đồng
bằng sông Cữu Long.
TRẦN VĂN SƠN
Đường Trúc thư trang
1 / 2013
No comments:
Post a Comment