Nguyễn Anh Khiêm
Lão mai. Photo NT Thảo An
18
Trong một bài phỏng vấn
trên một tờ báo văn nghệ hải ngoại, hình như Tô Thùy Yên cho rằng không có thứ
thơ gọi là thơ triết lý.
Vấn đề theo tôi, chỉ là
danh từ. Thơ triết lý hay đượm màu sắc triết lý thì cũng vậy. Nếu không xây
dựng trên những chủ đề nhiều ít liên quan tới những ưu tư của nhân quần về ý nghĩa
đời người, tình yêu, cái chết...tôi e thơ Tô Thùy yên không có địa vị gần như
độc tôn cho tới ngày nay. Toàn bộ sự nghiệp thi ca của mình, không có hoặc rất
hiếm bài nào ông không đề cập tới khía cạnh triết lý gần xa nào đó đụng tới
phận làm người. Võ Phiến nói rằng đọc một tác giả, ta có cảm tưởng tác giả đó
nhỏ hay lớn dường như ngoài chuyện chữ nghĩa, nghệ thuật diễn đạt còn liên quan
tới những vấn đề tác giả bị ám ảnh tức các chủ đề, đề tài nhỏ hay lớn nữa. Tất
nhiên không phải hễ muốn lớn thì chỉ cần nói tới chuyện lớn mà phải nói tới với
tài năng tới đâu và bằng cách nào mới là cốt lõi. Suy nghĩ tới cõi sống cõi
chết thì trong đầu ai, lúc nào mà chẳng từng nhưng viết ra thành những câu thơ
đẹp tới não lòng như ông thì xưa nay mấy ai? Tôi buồn bã nhận rằng nói tới thơ
là nói trong chủ quan, ai thấy có lý phần nào thì chia xẻ, ai nghĩ khác thì
cũng lẽ đương nhiên.
Một nhà phê bình văn học có viết rằng Góa Phụ là bài thơ hiện thực nhất
của Tô Thùy Yên. Thật lạ, tôi lại thấy bài này có những hình ảnh hiện thực
nhưng lại có ý nghĩa tượng trưng, nhiều ẩn dụ nhất của ông:
Con chim nhào chết khô trên cửa,
Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
Sao người khai giải chưa về thăm?
Điều
thú vị, nếu để tâm ghi nhận, trong 37 bài thơ ở cuốn Thơ Tuyển, đã có trên 20
bài và ít nhất gần 30 câu ông nhắc tới chim muông, dường như loài chim xuất
hiện với tần số cao nhất trong thơ ông. Rõ ràng chim muông là một ẩn dụ đa tầng
đa nghĩa được nhìn theo tâm cảnh của thi nhân. Ngoài một lần sống giữa mùa hạn
hỏa ngục xứ Quảng Bình khiến ông liên tưởng tới thế giới lâm chung với thiên
nhiên cùng kiệt, xác người vương vãi nơi bờ bụi cùng bao nhiêu hình ảnh rùng
rợn khác, tỉ như “Ác điểu ngày đêm gào xáo xác” và ma hoang cũng bỏ đi nhường
chỗ cho chim kên thì hình ảnh chim muông trong thơ ông:
+ Luôn gần gũi thân thiết và có khi là niềm
an ùi:
Chim đã bay quanh từ vạn cổ...Giữa tầng trời
cao chim giục giã... (Đãng Tử), Thấy
nhành ớt động bóng chim quen...
(Vườn Hạ), Nghe tiếng chim quen bay trớt
qua, Bóng thoáng như bàn tay dịu mát, Lau nhanh hơi mỏi mặt mày ta ...(Và
Rồi Tất Cả Sẽ Nguôi Ngoai), Ta đợi vì
nghe ngoài ngõ trúc, Có com chim khách kêu chiều nay... (Mùa Hạn), Ta về như bóng chim qua trễ...(Ta Về)...
+
Cũng có lúc tiếng chim vui:
Đông đúc chim về ấm cúng đêm... (Lão Trượng), Con chim chèo bẻo hót lanh chanh... (Hề Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
+ Cánh chim là một ảnh tượng đẹp và buồn,
nhất là buồn và cô lẻ:
Con chim bói cá trong tàn tối, Soi vĩnh
hằng xanh rợn mặt hồ... (Nỗi
Đợi)...Thăm hỏi con chim màu sặc sỡ, Lời
ca u uất giấu nơi đâu? Biển Bắc tuyệt mù con nhạn lạc..., Bóng chim, tăm cá,
cành trôi giạt...(Mòn Gót Chân Sương Nắng Tháng Năm), Di điểu qua sông xẻ luống sầu... Núi xa chim giục giã hoàng hôn...
(Tưởng Tượng Ta Về Nơi Bản Trạch), Con
chim nào hớt hãi kêu van (Bất Tận Nỗi Đời Hung Hãn Đó), Con chim động giấc gào cô đơn... (Trường
Sa Hành), Con chim lạc bạn kêu trời rộng...
(Vườn Hạ), Giữa khuya có tiếng chim ai
oán... (Nỗi Đợi)
+ Có
khi phảng phất chút thần bí, siêu hình:
Con chim thần thoại mắt khoen sâu, Giật mình
như đã ngàn năm ngủ, Giũ bụi lông, cất khản tiếng gào (Em Nhỏ, Làm Chi Chim
Biển Bắc) Ở đâu còn bóng chim huyền diệu,
Hót gọi tiền thân ta tái sinh...(Mùa Hạn), Con chim nào vỗ cánh, Động gợn thời gian... (Ánh Tàn Dư), Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải... Chim vút lên như hòn đá ném, Rồi
thôi, cái có chỉ là qua...(Chim Kêu Bãi Quạnh).
Tôi chỉ lược trích sơ sài chứ thật ra, mỗi câu thơ trên đây là một ảnh
tượng riêng biệt có thể là một chủ đề cho một bài khảo sát. Nhất định mai nầy
thơ ông phải được nhìn nhận công bình hơn, công phu hơn hầu đúng với giá trị
cao cả nó vốn có.
Con
chim nhào chết khô trên cửa là hình ảnh chim muông buồn thảm nhất trong thơ
TTY. Vì sao con chim nhào chết khô? Ta không rõ. Chỉ biết ở đây chỉ còn nỗi
chết. Chết trên cửa. Cửa nào? Đó là cảnh cửa âm dương mở ra cho cái chết nhưng
đã đóng chặt rồi. Thiên thu. Im bặt. Vô âm tín. Không ai có thể hiểu gì. Đó là
cánh cửa bị yểm bùa, vĩnh viễn không có người khai mở. Người ta chỉ biết sống
và chết và không bao giờ biết tại sao. Phải chăng đây chỉ là hình ảnh ẩn dụ cái
chết phi lý của người tử sĩ, người chồng của góa phụ trong bài thơ. Một triết
gia hiện sinh có nói rằng chính vì con người tuyệt nhiên không biết tại sao
mình sống và tuyệt đối mù tịt sau khi chết, chính vì cánh cửa âm dương đóng sập
nên tử biệt trở thành tận cùng bi đát và là sự trừng phạt quá nặng trên số phận
con người một cách phi lý. Người góa phụ khiếp kinh và không dễ chấp nhận nỗi
đau tang tóc là có thật. (Phía sau nỗi chết, thấp thoáng cái nền xám xịt của
cuộc chiến tranh phi nghĩa). Thế nên:
Em chạy tìm anh ngoài cõi gió
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn,
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn.
Thú thật tôi rợn người khi đọc khổ thơ trên. Ngoài cõi gió gợi nỗi buồn mênh mang, cô
quạnh và lạnh lẽo. Thứ lửa oan nghiệt, tàn khốc nào lại mỉa mai giỡn cười trên số phận con người trầm
luân, trên chết chóc bi thương? Lửa mà giỡn cười? Làm sao không ghê hồn cái
thần bí ma quái ở đây? Câu thơ thứ 3 là “âm thanh cuồng nộ” vô cớ của trời đất
hay tiếng kêu thương của hồn người vọng động cả càn khôn? Đá đổ, cát bay long thiên cổ, loạn muôn trùng cho ta
cảm tưởng con người quá bé nhỏ trước thiên nhiên rộng lớn không cùng và dữ dội
vô tận. Và số phận con người, chung cuộc cũng bị xóa dấu chôn mà thôi. Thơ TTY nhiều lần nói tới bôi xóa, tới “mặt đất bôi trôi”. Người ta bảo TTY chỉ
tin ở sự hư vô, họ có lý. Tôi liên tưởng tới mấy câu thơ ông nói với người
chiến binh CS cuồng điên say sưa chiến đấu, mê tưởng “sự nghiệp” mình lớn lắm,
ngỡ mình làm được chuyện “Lăn địa cầu ra
khỏi lối xưa”:
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại,
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
(Chiều Trên Phá Tam Giang)
Và
nhất là mấy câu này trong bài Lão Trượng:
Cát vùi cả xương trắng lưu dấu...
Mặt đất vô danh, ký ức lòa.
Hai khổ thơ tiếp sau là cảnh tượng người vợ
góa một mình canh xác chồng.
Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn.
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa.
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn.
Tác giả chỉ nghe mà thấy được lời kinh ánh xanh (Cũng như Phan Khôi Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc, Nghe
trong tiếng ếch một màu xanh),giác quan ông cũng chuyển đổi chức năng khiến
câu thơ rõ ràng có tính tượng trưng. Ngoài ra lời kinh ánh xanh cũng gợi chút gì bí hiểm rờn rợn. Câu kế chỉ là
liên tiếp ba cụm chủ-vị đơn giản nhất, có tính từ làm vị ngữ trong tiếng Việt,
vậy mà tài tình thay, lại là câu thơ nhiều hình ảnh nhất gợi nơi lòng người một
nỗi tàn phai thê thiết. Đọc câu này tôi không thể không so sánh với một khổ thơ
trong bài Ta Về:
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách,
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.
Cấu
trúc ngữ pháp câu cuối y hệt câu 2 khổ thơ thượng dẫn, nhịp điệu và nhạc điệu
cũng tương tự. Và ngữ nghĩa nữa, toàn động từ, tính từ hàm nghĩa xiêu đổ, điêu
tàn, phôi pha, mờ tối, tàn phai. Thanh điệu của 3 từ cuối trong cả 2 câu giống
nhau, chùng xuống những thanh bằng diễn một niềm đau thương, cô quạnh.
Nguyễn
Bắc Sơn có câu thơ hay: Khu phố quận
những đời người đã mỏi, cụ thể, chính xác nhưng không mới lạ bằng khuya mỏi. TTY có biệt tài dùng những
chữ vốn già nua và sáo mòn đặt vào một văn cảnh bất ngờ tạo hình ảnh mới, chẳng
hạn cũng từ này: Ta đợi, nghe chừng thiên cổ mỏi... Tàu đi, lúc đó đêm vừa mỏi, Lúc đó sao
trời đã ngủ mê. Kiểu dụng ngữ này nhan nhản trong thơ ông tạo
thành điển hình cho phong cách, thật thú vị nếu để tâm khảo sát.
Ta
thấy, trong khổ thơ, tác giả ghi nhận ba thứ âm thanh, ta có cảm tưởng các giác
quan ông nhạy bén không cùng và tưởng tượng thì vô tận, ông nghe thấy những gì
giác quan người thường không hề cảm nhận được tới cường độ đó: Cát loạn muôn trùng, đá lở long thiên cổ,
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa.
Tuyệt vời từ thăm thẳm và ngây. Quả thật chỉ mình ông thấy đất
trời cũng ngây dại nghe tiếng chó tru buồn thảm trong đêm tang tóc đó. Trong xã
hội nông nghiệp tối tăm ngày trước, tiếng cú và chó tru đêm điển hình cho điềm
báo chết chóc, tai ương - quái, kinh nghiệm bản thân tôi thấy đúng, mới ghê!
(Đọc câu này tôi không thể không nhớ lại một scène trong phim Doctor Zivago của
David Lean, xem rồi, mấy chục năm sau còn nhớ. Giữa cuộc CM loạn ly bạo liệt,
vợ chồng bác sĩ Zivago lánh nạn, trở về làng quê Variquino, đêm đầu tiên ngụ
trong ngôi biệt thự hoang tàn, khuya muộn, họ thảng thốt nghe tiếng chó sói tru
quanh nhà. Hé cửa nhìn ra, dưới ánh trăng bạc trên đồng tuyết lạnh lẽo, những
con sói ốm đói đầy hung tợn ngửa mặt lên trời gào tru thê thiết mà cũng đầy đe
dọa. Tôi tin không phải tình cờ David Lean đưa cảnh này vào phim mà không gửi
theo một ẩn dụ; tiếng chó tru ghê rợn đó cùng với bản nhạc nền Lara theme u uẩn của Maurice Jarre cứ âm
vang ray rứt trong lòng khán giả cho tới hết phim và, với tôi, mãi nhiều năm
sau nữa; tiếc cho các thế hệ sau này không được xem phim nầy với màn ảnh rộng).
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian mái tóc em.
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh.
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.
Mấy
câu trên đây, cảnh thì hiện thực nhưng được nhìn qua nhãn quan...siêu thực.
Ngọn đèn thức canh quan tài có thật sao gọi là hư ảo? Mái tóc góa phụ hẳn cũng
chưa bạc trắng và tim làm sao duỗi đập ngoài thân? Thời gian trong thơ TTY là
một thứ ký ức lòa, bị lãng quên, bị bôi xóa. Câu trên nếu thuận nghĩa thì phải
là thời gian thắp trắng mái tóc em, nhưng thế thì còn gì thơ! Tôi chưa quên mấy
câu thơ khác của ông về thời gian, thứ thời gian trắng không lưu dấu, không ký
ức:
Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ.
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Bay tự ngàn năm trắng cổ thi.
Trong lãng quên xanh hút thời gian...
Đêm
tối triền miên chốn ruộng vườn, ánh lửa ma trơi và ánh sáng lập lòe của đom đóm
trên đồng hoang gợi cảnh tượng lạnh lẽo của cõi âm, chính tác giả cũng tưởng
tượng hồn người lạc loài theo ánh sáng xanh bí mật của con đốm. Thứ ánh sáng ma
quái chỉ làm đêm tối càng thêm tối và chỉ là không gian đe dọa. Tiếng Việt chỉ
có thâu đêm, không có sâu đêm. Sâu ở đây vừa có nghĩa trong không gian và cả thời gian, nghĩa thật
rộng và thật mới. Đọc đoạn này, ta còn nhớ tới mấy câu rợn lạnh trong bài Lão
Trượng:
Mơ màng có một hồn xiêu lạc
Ngoài tối tăm, nhờ chỉ nẻo về.
Bài
thất ngôn ngắn nhất của TTY trong tập Thơ Tuyển kết thúc với khổ thứ 5:
Cỏ cây sống chết há ta thán.
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng,
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.
Làm sao ta biết cỏ cây sống chết không hay có ta thán? Chẳng là giác
quan ta hạn hẹp nên chỉ nhìn ra vậy; ý thức ta chỉ biết được chết là hết, là
vĩnh viễn xa lìa nên tử biệt là điều ghê khiếp quá sức chịu đựng của cõi người.
Góa phụ chắc cũng biết tới lẽ diệt sinh nhưng không thể âm thầm chấp nhận được
nên phải “khóc hoài”.
Hai câu kết gợi hình vô kể là ảnh tượng của buồn đau, bị bỏ rơi, bị hất
hủi; ẩn dụ của phận làm người phi lý. Con người mù lòa bị ném vào đời với đam
mê vô ích, loay hoay với lao khổ, cô đơn, rồi chết. Chẳng để làm gì. Ngựa ở đây
gợi nhớ tới con ngựa trong bài thơ nổi tiếng của TTY thời trai trẻ “Cánh Đồng
Con Ngựa Chuyến Tàu”. Chúng nhiều hay ít, nhất quán ở tính bi đát.
Như đã nói, bài thất ngôn nầy ngắn nhất trong tập Thơ Tuyển nhưng theo
tôi, vì cô đọng và hàm súc nhất nên phải ngắn. Cô đọng và hàm súc về nội dung,
chặt chẽ về bố cục, phong phú về hình ảnh. Ngôn từ thì tinh xác và mới mẻ, càng
đọc càng thấy chưa hiểu đủ nên phải cứ đọc đi đọc lại mãi.
19
Quê nhà Quảng Nam cách Sài Gòn chưa tới ngàn cây số đường chim bay vậy
mà không hiểu sao mấy chục năm tôi mới có dịp về thăm giữa mùa mưa lụt. Đêm Hội
An nằm nghe mưa đổ rào rạt từng cơn liên hồi trên mái ngói, bỗng sống dậy tuổi
thơ cùng mùa gió mưa lụt lội nơi ngôi làng Non Tiên lẻ loi bên chân núi. Cô em
tôi nói:
-
Mưa từng chặp kiểu này thì đúng là mưa lụt, có điều nghe như không dữ dội lắm,
có lụt thì cũng nhỏ, TV báo động cấp hai tại sông Ái Nghĩa, cấp hai mà ngưng
mưa thì tại Hội An chưa ngập nhà mình bao giờ. Ông chú họ trên quê hồi chiều có
báo mưa nguồn đã ngớt, chắc không có chi đáng lo.
Mọi sự diễn ra sau đó chứng tỏ cô em tôi hơi lạc quan hay ít ra, kinh
nghiệm của cô chỉ có hại khi ngày nay, mấy tay chủ thủy điện chính là ác thần
Thủy Tinh bằng xương bằng thịt gây tai ương trên số phận dân lành vùng hạ lưu
mấy dòng sông ngắn đất Quảng chứ đâu phải chỉ trời xanh trên cao kia. Thủy điện
ích quốc lợi dân đâu đâu, không thể không thông cảm nghe chuyện một lão nông
làng tôi nói thà tau thắp đèn dầu chớ điện làm chi, ai đời năm nào cũng bị trôi
heo trôi lúa không kịp trở tay, Tết giơ mỏ dợt, chịu hoài sao thấu. Bọn gian
manh hùa gió bẻ măng, lợi dụng thủy điện để phá rừng lấy gỗ, lời gấp mấy lần
phí tổn xây đập, chẳng lẽ thiệt vậy sao? Phá núi riết rồi lấy nước đâu cho đập?
Điên hết rồi chăng?
Rõ
ràng mưa gió không phải đâu cũng mưa gió như nhau, nhất là chiều mưa Sài Gòn
chẳng giống gì mưa lụt miền Trung. Thường thì cũng mây đen mù mịt một phía trời
rồi gió giật từng hồi vật vã cây cối, thổi tung lá khô lăn chạy lào xào; cũng
có khi đang nắng bỗng bất ngờ đổ mưa, tưởng chỉ mưa qua nhưng càng lúc càng
nặng hạt xối xả ngập phố xá lóp ngóp xe cộ. Đi giữa mưa mịt mù ai cũng tưởng
như bất tận nhưng chỉ nửa tiếng hoặc quá lắm một giờ là xong ngớt. Nắng lại dịu
dàng trải một màu vàng nhạt thanh bình, chim sẻ lại tụ tập ríu rít vui đùa, hào
hứng nhảy nhót kiếm ăn bên phố đông người qua lại.
Thức khuya dõi theo những cơn mưa đầy đe dọa, mỏi mệt ngủ quên lúc nào,
sáng ra bỗng giật mình nghe thằng bé hàng xóm reo hò, giống hệt thằng tôi thời
bé dại:
-
Nước lớn rồi, nước lên rồi... “đõa” quá, “đõa” quá!
Tôi phì cười nghe ông ngoại nó mắng, hiền lành:
-
“Đõa choa” mi chớ “đõa”!
Cả xóm lục tục gọi nhau dọn đồ đạc lên gác, chuyện này thật nặng nề với
ba người già chúng tôi nên mọi người xúm vào giúp cho kịp trước khi nước vào
nhà. Đa tạ bà con lối xóm tốt bụng. Ai cũng ngạc nhiên thấy nước lên mau trong
khi không có xe phóng thanh cảnh báo như thường lệ. Lần này chính quyền nín khe
khác thường khiến thiên ha đồn đoán lung tung. Ông ngoại thằng bé có vẻ biết
chuyện:
-
Chắc chắn họ xả đập thủy điện Sông Tranh nước mới ít đục mà lại lên quá mau chớ
mưa đâu có lớn, hôm qua nghe đồn rứa mà không tin. Năm nào cũng chơi trò lén
lút, làm thinh xả nước gieo họa, ác quá!
Theo ông, từ nay sẽ không còn lụt nhỏ mang phù sa vào ruộng như xưa nữa
mà mỗi năm chỉ một vài lần đại hồng thủy, nước nửa đục nửa trong, nửa của trời,
nửa của thủy điện để dành, bởi lẽ mưa vừa thì chỉ đủ nước lấy vào đập, mưa lớn
thì xả nước tùy tiện. Với nhẫn nại đã quen từ ngàn đời, nông dân im lặng cam
chịu, gạt nước mắt nhìn lúa má heo gà bất ngờ trôi theo dòng nước, cùng lắm thì
than thở đủ nghe: Trời ơi, ác chi ác dữ rứa trời.
Chúng tôi ngồi co ro trên gác chăm chăm nhìn nước cao lên từng giờ,
Thánh thần mới biết nó sẽ lên tới đâu. Thời tiết nghe nói nay hết sức bất
thường lại thêm nỗi khùng điên của con người cộng với, làm sao lường được mức độ
thảm họa. Buổi chiều hoàn toàn tĩnh lặng, có thể nghe được tiếng nước róc rách
nho nhỏ thoát qua bờ tường. Trời đã chiều cùng mây mù u ám, nước lên gần lút
khung cửa sổ và sắp bịt kín cửa cái thì dường như, may thay, có chậm lại. Rọi
đèn pin xuống dưới nhà thấy được con cá nhỏ bằng nửa bàn tay bơi chầm chậm lửng
lơ trong làn nước ngà ngà nhắc tôi nhớ chuyện lụt lội quê xưa...
Tháng chín âm lịch, không gian như bắt đầu nhuốm hơi lạnh, mây chập
chùng đầy trời giăng khắp núi non quanh thung lũng khiến nhớ câu thơ Xuân Diệu:
Em đã xé lòng non cùng giấy mới
Mây đầy trời hôm ấy phủ sơn khê.
Gió mang mưa từng cơn rào rào thổi bạt xác xơ vườn chuối, đổ xối xả thâu
đêm trên mái ngói. Lũ ễnh ương huyềnh hoang... huyềnh hoang... bất tận như một
dàn đồng ca dưới ao sau nhà. Sáng ra trẻ con...mừng rơn nhìn thấy nước bạc lênh
láng dâng ngập thành giếng, mấp mé trước hiên nhà, hoan hỉ thấy nó... tiếp tục
lên thêm. Tôi hào hứng chạy theo ông ngoại chèo ghe đi bủa lưới cá gáy mé Cầu
Bồi. Năm nào lụt đầu mùa cá gáy cũng về nhiều men con suối này vào đồng, theo
kinh nghiệm của ông. Bầy cá gáy mắt đo đỏ, vảy bạc óng ánh, to nặng chín mười
ký, từ sông lớn chảy xiết, liều lĩnh chen nhau vẹt đám cỏ lùng bơi vào vùng nước cạn, không hiểu để làm gì.
Nghe nói hình như để đẻ trứng, nhưng khó hiểu: Vài hôm nước rút, ruộng cạn,
trứng cá sẽ nở ở đâu? Đàn cá con dắt nhau theo mấy mương nước nhỏ để trở ra
sông hay xuống ao hồ? Sao phải phát triển nòi giống nhiêu khê đầy phiêu lưu và
cạm bẫy vậy? Cá mẹ có khi chưa kịp sinh sản thì dính lưới dễ dàng, trả giá bằng
mạng sống cho sự ham nước điên cuồng và ngờ nghệch của mình như một thứ định
mệnh. Chúng dãy đành đạch, oằn thân uốn éo, miệng phát ra tiếng ụt...ụt...trong
chiếc vợt rộng dài hơn lưới bóng rổ của ông tôi. Cái thời đó, nói rất khó tin,
cá ở đâu ham nước rủ nhau tràn về nhởn nhơ bơi lội, nhiều nhất chỗ thế đất và
nước quen thuộc, dường như chúng hẹn nhau mùa thu hằng năm về chốn cũ sinh nở
vậy. Hà! Le rendez-vous de Septembre! Lạ nhất chuyện này chỉ diễn ra trong trận
lụt đầu mùa thôi. Mấy cây lụt tiếp sau lớn hay nhỏ cũng chẳng chút bóng chim
tăm cá nào. Ngạc nhiên là cái trũ, cái rớ, đồ dùng bắt cá vùng tôi, to lắm thì
cũng hai ba mét vuông, thả ngập xuống chỗ bùng đình nước dâng lai láng, như cợt
giỡn với thiên nhiên, vậy mà chốc chốc giở lên vẫn bắt được cá trôi cá gáy, mới
diệu kỳ. Cá hẳn nhiều như bèo nối đuôi nhau dưới dòng nước đục mới bắt được dễ
dàng theo cách cầu may đơn sơ đó. Riêng kiểu bủa lưới của ông tôi thì có vẻ hợp
lý và chuyên nghiệp hơn. Vẫn nhớ bà ngoại và má tôi khứa cá ra từng khoanh dày,
nướng trên lửa than rồi ướp củ hành đỏ và ớt, kho với nước mắm ngon ăn trong
mấy ngày mưa lụt làng bị cô lập, không chợ búa, nay còn chưa quên hương vị.
Tôi lẩn quẩn với những hoài niệm, có người bảo thiếu công bằng, những
chuyện xưa nào cũng đẹp, món xưa nào cũng ngon, người xưa nào cũng tử tế. Đã
đành, nostalgia is an useless emotion,
biết vậy nhưng đã thành tật mất rồi. Mà cũng không hẳn tôi hoàn toàn trật bậy
đâu. Không cần dẫn chứng, nhà văn, nhà thơ đã có thời được tự do phần nào khi
viết, tác phẩm không hay thì thôi chứ chẳng đến nỗi ai cũng một kiểu suy nghĩ
như nhau chán ngắt, nịnh nọt bọn cầm quyền một chút, cả nước nhận ra ngay; phần lớn họ đều coi trọng việc giữ tư cách.
Một nhà thơ (thơ ngây) đất Quảng lỡ đạo văn một lần, chỉ nhại nhạc điệu và vài
chữ bài thơ tình của một thi sĩ có tiếng, liền nhận bao ê chề xấu hổ từ dư
luận, phải uổng phí bỏ hẳn thơ thẩn. Sinh viên học sinh sống lành hơn hẳn ngày
nay. Quan lại cũng có kẻ ăn tiền nhưng phần lớn thanh liêm vì sợ pháp luật và
nhất là còn coi trọng nhân phẩm, ngại mang tiếng này nọ; không ai có thể dùng
bằng giả để “tác nghiệp”, đặc biệt lắm chỉ vài người lọt sổ, toàn thứ lưu manh
hạ cấp ăn xổi ở thì.
Chuyện ẩm thực này nọ chẳng hạn, có người nói tại hồi nhỏ mình đói thành
thử ăn cái gì cũng ngon, không đúng. Tỉ như con heo ta, nay đã là huyền thoại,
bà tôi nuôi chỉ cho ăn cháo cám trộn chuối cây xắt nhỏ, thỉnh thoảng thả rong
cho nó tự mưu sinh để được săn chắc hơn. Tết đến, lớn lắm chỉ trên mươi ký, rã
thịt nấu cháo lòng thả, thịt đùi luộc cuốn bánh tráng rau sống xà lách trộn
hành ngò, bánh tráng nướng xong nhúng qua nước cho mềm, thơm bùi độc đáo. Cả
nhà quây quần ấm cúng quanh bàn trong tiết xuân mát lạnh, nghe tiếng pháo nổ đì
đẹt làng trên xóm dưới. Những bữa ăn cuối năm đó không biết tả sao cho đúng, là
niềm hạnh phúc ám ảnh một đời. Người ta bảo miếng ngon nhớ lâu, lời đau ghi
mãi, chẳng sai. Còn bây giờ, nói ngay cũng tại đông người, nhu cầu quá lớn,
chúng ta ăn thứ thịt của những con heo mười tạ nuôi bằng thực phẩm công nghiệp
pha hóa chất, nạc từng khối như gạch chưa nung, nhạt như bã mía. Quán cháo vịt
nổi tiếng ở Thanh Đa ngày nọ, nay họ dọn lên những đĩa thịt giống như heo ba
rọi mỡ dày, nạc thì nhũn ra, bở như khoai mì bột. Lại nhớ chuyện phở Hòa Sài
Gòn đầu những năm sáu mươi. Xế trưa qua Cầu Kiệu, tôi thường gặp ông bà Hòa
cùng cô con gái dáng cao cao ì ạch đẩy chiếc xe phở lỉnh kỉnh dụng cụ bán phở
lên dốc cầu. Nhà họ ở Phú Nhuận, xế nào cũng phải đẩy xe từ nhà đến tận mãi đầu
đường Pasteur cách mấy cây số, lịch kịch bày biện bàn ghế các thứ trên hè phố,
chỗ ngó qua nhà thương chích chó, chữ của ông Hòa thường nói. Tại sao chọn địa
điểm xa nhà vậy thì tôi không hỏi, chỉ nghe ông kể lúc mới di cư vào ông vẫn
quen bán phở gánh như ngoài Bắc, thời gian lâu sau mới đỡ khổ nhờ bắt chước xe
mì Tàu, xe đồ ngọt của dân Sài Gòn. Không biết tại tâm lý hoài cổ hay sao mà
một hôm ngồi cùng bàn với ông cụ nọ, nghe ông nhận xét với chủ nhân rằng phở
không ngon bằng hồi phở gánh, ông Hòa nói:
-
Không phải đâu, cũng vậy thôi.
Sau 75, phở Hòa dọn hẳn về Phú Nhuận tiệm lớn khang trang, tôi nói với
ông sao không ngon bằng lúc phở xe chỗ nhà thương chích chó, ông chủ lại bảo:
-
Không phải đâu, cũng thế thôi. Nhằm bữa, hơn kém chút đỉnh đôi khi cũng tại con
bò.
Vậy thì cái ngon cái dở còn tùy đủ thứ, tùy tuổi tùy thời nữa sao? Nói
gì thì nói, phở Hòa là món tuyệt luân của người xứ Bắc. Tôi không nói phở, mà
là phở Hòa. Vài năm trước 75 thấy một xe phở cũng trưng bảng hiệu phở Hòa trên
hè cách phở Hòa xịn khoảng mươi mét. Tôi chắc có thỏa thuận gì chứ ai dám ngang
nhiên chiếm đoạt thương hiệu kiểu đó ngay bên cạnh. Thế rồi phở Hòa xưa sửa
thành Hòa Thuận. Thực khách đã quen mặt nên cũng ít ai để ý... chuyện nhỏ này.
Xe phở Hòa ra nghề sau, nay là nhà hàng phở đồ sộ, vẫn địa điểm trước kia,
khách thập phương chen lấn nườm nượp, giá
bảy tám chục ngàn tô, mỉa mai dân nghèo. Người cũ thì biết không phải
phở Hòa gốc. Nghe nói gia đình Hòa xịn vượt biên, được tàu của Autriche vớt, muốn tiếp tục nghề cao quí nấu phở đệ nhất
thiên hạ chắc họ phải di cư lần nữa qua Mỹ. Tôi nghe ở Mỹ hiện có cả trăm hiệu
phở Hòa, thật giả lẫn lộn, xứ đó văn minh, luật lệ chặt chẽ, chuyện làm ăn lem
nhem vẫn cứ như mọi nơi? Cùng nổi tiếng với phở Hòa ngày đó có phở bà Dậu đường
Công Lý, lắm người gọi phở không quân vì băng Nguyễn Cao Kỳ, Lưu Kim Cương...
hay tấp xe jeep vào ăn trên đường lên phi trường. Phở dùng với hành tây, không
rau mùi, không giá trụng, nước lèo gia vị nhẹ nhàng, nay đổi chủ mới, vẫn đông
khách, đắt tiền mà vẫn đắt hàng. Phở Tàu Bay đường Lý Thái Tổ cũng có mùi vị
đặc trưng, lắm khách, ngày trước hơi bình dân với tô muỗng sành lem nhem, thực
khách khó tánh không chuộng, nay đã có vẻ sạch hơn. Theo tôi, chỉ phở Hòa là đệ
nhất tinh hoa phở, là thực phẩm quý chốn trần gian, nourriture terrestre, đã
biến mất khỏi Sài Gòn. Thật khó phân tích nó ngon và khác hẳn mọi phở khác chỗ
nào, chỉ có thể nói ngon quá mà thôi. Không biết với gia vị bí truyền và cách
nấu nào mà nó ngon tới vậy. Nước dùng tinh tế, ngọt, thanh, thơm dịu, không
nồng đậm gia vị nhưng cũng không nhạt quá, củ hành đỏ và gừng nướng chỉ phảng
phất; nước dùng, bánh và thịt thấm đẫm, hòa nhịp trong một tổng thể toàn bích.
Đặc biệt mùi thơm độc đáo, không lẫn lộn, tới đầu phố đã nghe, vị giác bị kích
thích...tới bến, ít ai đủ can đảm bỏ đi. Cụ Võ Phiến hết mực ca ngợi nhà văn
Thế Giang tả mùi thơm của phở, không dùng một tính từ nào, là danh ngôn về phở,
tôi quáng gà, không tìm thấy nguyên văn,
chỉ nhớ ý ông bảo rằng đi phía dưới gió, gặp lúc tên chủ phở khốn nạn giở nắp
nồi của y ra mà trong túi không có tiền thì bỏ mẹ. Cũng đúng với Hòa lắm thay.
Thịt cho phở chu đáo và công phu hầu như không thiếu loại gì: tái, chín, nạm,
gầu, gân, sụn, sách, vú sữa, giò bó, tủy... Tủy được lấy công phu từ xương ống
luôn nguyên thỏi, tất nhiên chẳng có nhiều, đến trễ là hết, gầu bao giờ cũng ra
gầu, mỡ trong, giòn tan, ít béo. Ngon nhất tô tái sữa giòn giòn, thoảng béo,
khiến ăn... tích cực đến cắn phải lưỡi! Sài Gòn nay không thấy đâu thứ này,
chắc sợ nhiều cholesterol, nhưng thời đó, mấy ai để ý? Họ dùng loại tô trung
bình, thường nhiều thực khách phải gọi ăn thêm, thời trai trẻ mới quen bạn gái
là vợ tôi bây giờ, ghé phở Hòa, hai đứa phải gọi ba tô. Ngày nay, bắt chước phở
Việt bên Mỹ hay sao, phở Sài Gòn tô to gần bằng cái nón sắt, ăn cuối bữa, nước
dùng đã lạnh ngắt như cơm nguội nước lã, chẳng còn chút hương vị mô tê. Sau
biến cố 75 vài năm, dân Sài Gòn quả mất mát lớn bị “giải phóng” khỏi phở Hòa.
Ngồi quán cafe với mấy ông bạn thất cơ lơ vận bên sông Thu Bồn, ghế tre
đơn sơ kê sát mé sông. Bên trên, bóng tre ngà che phủ, đung đưa sát mặt nước
tĩnh lặng gợn sóng lăn tăn trong gió đầu mùa đông bắc hơi se da thịt. Sau 23
tháng mười âm lịch, dân ở đây mới yên lòng tin rằng đã dứt lụt lội. Dường như
ai cũng biết câu tục ngữ “Ông tha mà bà không tha, năm năm thêm trận hăm ba
tháng mười”. Sau mùa lụt, cứ ít ngày mưa dầm rả rích lại xen kẽ vài hôm nắng
đẹp. Có bữa bình minh lên, trời rắc mưa bụi bay bay dịu dàng trên đám hoa bươm
bướm trước nhà, lòng bỗng dưng vui tươi
nhẹ nhõm. Chẳng hiểu sao người già hay quan tâm tới gió mưa thời tiết (mặc dù
chẳng làm gì được nó như Mark Twain châm biếm); vui phơi phới chỉ vì một cơn
gió lành mà cũng dễ giận dỗi bởi một điều bất ý. Ai đó hỏi về ông bạn Nguyễn
Thế Cường tôi hay nhắc tới, tôi nói năm rồi hắn ta có về, tôi kể chuyện cô giáo
cùng trường ra thăm Hà Nội thuật lại chuyện người quen chạy xe máy bị một tay
phóng ngược chiều đụng phải, tên này trợn mắt nạt:
-
Đã thấy bố mày đi ngược chiều rồi mà không chịu né, còn cố tình đâm vào phải
không?
Cường bảo:
-
Đúng là lời của...thánh hiền nghe mày! Vừa ngang như Mác- Lê, dạy bảo như Khổng
Mạnh lại phản kháng như Hiện sinh! Nghe nhiêu đó cũng đủ không còn tiếc tiền vé
máy bay nữa.
Đi chơi ngang qua đường phố chộn rộn các cơ
sở Anh ngữ “hoành tráng”, thấy tên trường Không Gian, chua tiếng Anh
Outerspace, phương pháp dạy thì... phản xạ, Cường nói:
-
Mày ghi tên học thử cái phương pháp đó ra sao, tao không rõ ông hiệu trưởng giỏi
cỡ nào chứ tao thấy Outerspace đâu phải không gian, đó lả khoảng không vũ trụ
mà. Nói năng qua loa thì sao cũng xong, đằng này là tên trường học thì phải gọi
đúng chứ mày?
Hắn ta dòm mấy đĩa film tôi mới mua có ghi hàng chữ “Bản chính thức”,
cười méo xẹo:
-
Bố láo, người ta tốn bạc tỉ làm film,
chưa kịp ra rạp bên Mỹ thì ở đây đã có bản video “chính thức”, mấy thằng Tàu đã
gian lại thêm thằng VN đểu...thế thì thôi!
Nói chuyện cũ, có người bảo từ bờ bắc sang bờ nam Thu Bồn cách nhau mấy
cây sào mà người xưa phải mất hai trăm năm mới qua tới để đi tiếp theo chúa
Nguyễn trên con đường nam tiến, chẳng phải lúc nào cũng ngon ăn. Không biết ông
bà mình có ác độc dữ dằn gì lắm với dân Chàm
mà nay con cháu vẫn nặng nghiệp, điêu đứng ròng rã, ngóc đầu không nổi
trên mảnh đất thiêng của họ, viễn cảnh bi đát ngày càng thấy rõ ràng và chắc
chắn; bởi Hán tộc hung hăng đã đành mà còn ngay cả bởi “đồng bào”, họ tộc của
chính mình mới kinh khiếp! Có thiệt bị ma Hời ám chướng thì mới tàn độc vậy chớ
một giọt máu đào hơn ao nước lã, sao nỡ bóc cướp nhau tới tận cùng bần số điêu
linh, mãi chẳng hứa hẹn gì chấm dứt.
(còn tiếp)
NAK
No comments:
Post a Comment