Saturday, February 25, 2012


thơ nguyễn xuân thiệp 

khi gió mùa đông thổi tới 


                
                                Tượng La Hán trong vườn chùa Pháp Quang. Ảnh của Phan

đứng trong vườn chùa
tưởng niệm. người bạn nghệ sĩ. vừa ra đi
tiếng ngâm còn vang dội
thanh hùng
một ngày rét
gió thổi mù. trên đầu ngọn thông già
thổi hun hút vào tai
bật lên tiếng trống
chung quanh tôi. những tượng la hán
đứng
ngồi
ngoảnh mặt
dậm chân
ô. các ông từ đâu đến
từ những vườn xoài. chin. vàng
của xứ ấn độ
hay trung hoa. tiếng hổ gầm. rừng thủy hử
hay korea tuyết phủ sườn non
hay việt nam
của hồn đá núi
mơ mặt trăng. và tiêng sấm
trong cõi người. rừng tà dương. chớp tía
hải triều. âm
ngắm nhìn các ông
bên khỉ. voi. sư tử
và trẻ thơ
trong một ngày. tiễn đưa người bạn lên đường
khi gió mùa đông. thổi tới
lòng tôi. như trang kinh. của những lời chim
khóc người

Mùa đông 2008
NXT





Mưa khuya 

Lưu Na



                                                         Tách cà phê. Tranh Bửu Chỉ

(tiếp theo)
   Sáng dậy Mây tắm rửa rồi qua rước ông.  Đi cà phê nha?  Ừ. 
   Mỹ thật lạ.  Họ không chỉ thích hoa.  Họ còn thích lá, thích gốc cây sù sì, thích đám chim vỗ cánh là là trên hồ như muôn vạn vì sao cánh trắng rơi phủ mặt nước cạn.  Mây ngồi nhấm nháp ly cà phê yên lặng nghe ông nói.  Trước mắt, cây cổ thụ to trụi lá với cơ man là cành đứng khoe thân trong nắng.  Dưới gốc cây, hoa poppy nở rực rỡ khỏe mạnh vàng cam hồng trắng…  Bồ câu từng loạt đổi chỗ từ sân cỏ qua mái kề bên mỗi khi có một miếng bánh tung ra, hay một con kêu gọi gì đó.  Bên cạnh Mây, một anh lông tơ vàng óng trên cánh tay, kính đen gác mái tóc, đang đắm chìm với cái máy tí hon trên tay và ly cà phê bốc khói trước mặt.   

   Ông nói với Mây tiếng còi tàu những năm 7, 8 tuổi.  Ông nói với Mây tiếng chuông chùa khi gieo trong gió làm im bặt muôn tiếng chim trong cây cổ thụ sát đê.  Ông nói với Mây cái ánh vàng đổ xuống mặt nước lấp loáng, khi một mình đứng trên con đê.  Cái quạnh quẽ của kiếp người, đâu chỉ là khi xa cách người thân.  Nó còn là cái quạnh quẽ đơn côi của một tấm thân trần trụi trước vũ trụ, khi xe lửa băng ngang từng cánh đồng hoang trống tưởng như mình đang đi ngược về tiền kiếp, về cái dĩ vãng không chịu phai.  Khi về tới cái nôi, mình có chấm dứt một vòng quay dẫu còn đang thở?  Phải chăng khi nhìn quanh chỉ thấy tuổi thơ, thấy quá khứ, là khi mình đã chết, đã xa rời một kiếp trong muôn kiếp biến hóa của những năm tuổi đời lay lứt trên dương thế?

    Mây nhớ một năm nào đó lúc 8, 9 tuổi Mây theo Ba Má vào một club của lính Mỹ.  Trong ánh đèn mờ mờ, nhạc quay cuồng và người đi lại nhộn nhịp.  Kẻ bưng nước, người lôi nhau ra sàn nhảy, kề vai bá cổ rần rần chung quanh.  Mây chợt thấy một anh lính ngồi đơn độc.  Anh trẻ lắm, chừng 20 thôi.  Anh ngồi lặng thinh uống beer, ánh mắt buồn chảy xuống như những giọt nước lăn từ miệng ly xuống bàn.  Thấy Mây nhìn, anh ngoắc ngoắc.  Bị hút vào ánh mắt trống đó, Mây bước tới.  Anh rút ra tờ bạc trăm dúi vào tay Mây.  Mây lắc đầu.  Anh rút thêm tờ nữa, Mây càng lắc.  Ánh mắt anh như hoảng loạn ngơ ngác.  Mây về bàn của mình.  Ba Má trở lại bàn, rồi về.  Cả tuần lễ sau Mây vẫn khóc khi nhớ ánh mắt buồn bã ấy.  Bây giờ Mây vẫn không hiểu sao mình đã khóc.  Mây nhớ tuổi ấy Mây đã có những bước chân lẻ loi trong xóm vắng khi mọi người xúm nhau xem boxing máu me hay xem phim chiến tranh Combat!  Sông thì chắc không chảy qua một chỗ hai lần, nhưng nó có mang theo những mảnh hồn lẻ loi?


                                                         On the beach by Brooke Howie

   Ông nói ra biển.  Hôm nay sóng lớn, trắng xóa.  Hình như giờ nước lên, bãi đầy sóng, và chó, và người!!!  Vòng 2 vòng mới có chỗ đậu xe, Mây cùng ông bước chầm chậm theo bờ trên cao, nhìn xuống bãi dưới chân như từ cõi nhân gian nhìn xuống một thiên đàng.  Sự sống đầy ắp lóe mắt trên bãi ngập sóng.
    Cô nọ nằm ngay xuống mặt cát ướt mà tập thể dục bụng.  Anh bạn đồng hành vung cây vợt xanh có một đầu tròn như cái môi múc spaghetti dứ bên phải dứ bên trái.  Hai con chó lăng xăng quanh chân, chờ cái vợt vung lên, trái banh tenis nằm trong đầu môi sẽ văng vào biển trước mặt.  Chúng sẽ tranh nhau lượm về.  Sau lưng, một anh vện trắng đen tung vó xả hết tốc lực rượt chim, cái hớn hở bung ra theo từng sãi chân.  Quay ra, một anh nâu đen cứ ngoạm trái banh tenis chậy vài bước nhả vào hốc, chờ em vện vàng tới lấy.  Rồi anh lăn ngửa ra dẫy dẫy cái lưng xuống cát ướt, rồi lại uốn lưng vung dậy, rồi lại ngoạm banh đi thả vào hốc khác…  Bên cạnh cái tưng bừng rộn ràng của người với vật, sóng cứ đều đều tung trắng xóa từng đợt.  Mỗi lượn sóng khi vào bờ đều cuộn lăn êm ả, cho đến khi một lớp sương trắng mờ bung tỏa trên đầu lượn nước là khi sóng bủa trắng như domio sập xuống theo hàng ngang.  Giữa sự sống phơi phới mát trong đó Mây chợt thấy đau nhói như đang đi trên cát ướt mà đạp trúng hòn đá sắc khi nhớ cái chấm câu của Chiến, “chính xác.”  Chữ đó, cách nhấn câu đó, thì người cũ vẫn nói như vầy, “đúng như thế.”  Sao Mây thấy như vấp phải đá?  
***
   Mấy bữa rồi không qua, bữa nay Mây ghé chở ông ra bưu điện.  Ông mở cửa, rồi trở lại bàn computer, bảo, ngồi đi.  Ông đang chat với bạn.  Một lúc nào đó, Mây liếc thấy hàng chữ trên cả tình, trên cả sự cảm thông, như mưa tự trời, như vạt nắng…  Ông đang nói với bạn về sự đồng cảm tìm được với một người.  Lời nói rung động lòng Mây, như giọt mưa lạnh soi xuống đáy lòng mình.  Ông nhìn sự việc như thấy luôn kiếp trước đời sau, ông nói lời tự nhiên như làn sương như ngọn gió.  Ngẫm sâu thêm lời ấy, Mây thấy bàng hoàng.  Mây thấy một chiều khác của những việc đã qua, một cảm niệm cao hơn sức suy nghĩ của mình.  Mây thấy một bề sâu nơi một tâm hồn xa lạ.  Bàng hoàng chứ không giật mình bối rối hay hụt hẫng không biết trả lời sao như với những lời của Chiến.
   Trên đường, ông lại nói cùng Mây những chuyện chẳng ăn thua gì nhau, như những khúc phim đứt rời không mạch lạc.  Mây chợt nhận ra điều ngược ngạo.  Mây đã bắt đầu nhìn vào con người và tâm hồn ông qua những lời như độc thoại như bây giờ ông đang nói, ở những câu buông ra không cân nhắc đắn đo sắp xếp.  Chính những lời ấy bộc lộ tâm hồn và con người ông, đẩy Mây tới những con chữ của quá khứ.  Mây tưởng đến ông như một cây lúa.  Đâu cần phải có hạt thì lúa mới là cây lúa, nhưng không có hạt thì lúa uổng đời cây lúa.  Ông đã cho hạt, đã trổ bông, mà Mây thì lại chỉ biết đến ông từ một thân lúa xanh xưa, một cọng rơm khô bóng.  Không sao, Mây cho rằng Mây đã được thấy, đã được nếm hưởng hơn rất nhiều những người chỉ biết đến bông lúa hạt gạo!
   Mây mơ hồ thấy ra cái khác biệt của Ông và Chiến.  Ông, máu trong người là nhựa cây trắng xóa, rỉ ra từ thuở tấm thân còn non yếu đến vóc vạc trưởng thành và giờ đây héo rụm.  Nơi ông sự sống tuôn chẩy, nơi ông nhựa trắng yêu đời đổ xuống thành những con chữ đen thê thảm, thành những giọt máu khô trên đường đi qua.  Giữa tiếng cười diễu cợt đáo để của ông và những con chữ dường như là một đại dương mênh mông, một lòng giếng sâu bất tận.  Nỗi buồn như ẩn dấu sau những âm thanh.  Những lời ông nói là những thực thể bị phủ mờ sương, là những món ăn tả trên trang giấy không muối tiêu hành mỡ, là những xác thịt lẩn vào trong ánh trăng mờ không dấu cong vết trầy, không hơi thở, không buốt xót.  Giữa những gì đã viết và những điều muốn nói_thực nói tới, là một không gian bao la không thể nắm bắt.  Giữa mỗi con chữ, giữa hai hàng chữ, thường là những lỗ đen, những khoảng trống ơ thờ.
   Ông có lẽ đã ước mơ và đã sống trong mơ ước, nhưng chưa bao giờ và sẽ không bao giờ trọn vẹn một niềm mơ.  Ông không là loài cây ăn thịt, ông chỉ dám xăm soi sự sống, vuốt ve sự sống, hít hà sự sống, chứ chưa chắc dám ngoạm nuốt một miếng to của sự sống.  Mây cảm nghĩ, Ông không sao chịu nổi những tanh nồng của máu me khi nuốt vào một miếng sống, ông chỉ là một thứ “tôi muốn.”  Bên cạnh ông Mây thấy mình như vũng nước hồ, phản chiếu sự sống những khi có sự sống lướt ngang mặt hồ, Mây hiểu ra, những cảm nghĩ mỏng manh trong chuỗi đời tào lao đã qua đều là thật, đều là sự sống phản chiếu nơi mặt hồ mình.  Ảnh trầm hàn thủy, phải vậy không?  Bên ông Mây hiểu ý nghĩa những điều thật nhỏ nhoi mơ hồ.  Bên ông Mây hiểu và chấp nhận những việc mình đã làm trong vô thức. 
   Còn Chiến, Chiến về Việt Nam chơi gặp cô gái đẹp ngoan Chiến hỏi cưới ngay và rồi ở lại.  Bây giờ con sắp đến tuổi vào trường Chiến trở lại Mỹ.  Ngày đầu trở lại, Chiến liên lạc với “buddies.”  Ngày thứ 2, lấy lại bằng lái.  Ngày thứ 3, dọn dẹp nhà cửa cho Bố Mẹ.  Ngày thứ 4, đi mua xe.  Trong vòng 1 tuần lễ, Chiến như đã plan xong cuộc tái định cư thứ ba trong đời.  Chiến bước tới không chần chừ.  Chiến có lời sắc nhọn như dao, có cung cách lao tới cho đến hết giọt cuối cùng của mồ hôi của sức lực.  Có lẽ Chiến cũng mang cái tâm hồn nghệ sĩ như Ông, nhưng hắn consume sự sống, hắn yêu đời như người ta ăn óc khỉ.  Hắn không tuôn tràn những hàng chữ đen thê thảm mà hắn rực nơi mắt màu đỏ máu, hắn thắm cái xanh lá, hắn vang tiếng cười thay cho note nhạc chán chường.  Dòng máu nghệ sĩ nơi hắn là cái “tôi là.”  Hắn chính là dương bản, là bức hình nổi của ông_tấm phim xám trong đen nhờ không tiếng.
    Nhưng không thể vì cái tương phản của hắn với Ông mà Mây mắc nghẹn.  Mây là ai và sao đứng nơi này, bên âm bản, trước dương bản, của một sự sống xa lạ? 
***
    Còn 2 tuần nữa là Tết, Mây đi chợ Costco với anh Tư.  Nơi Mây ở, những khi gần lễ rất nhộn nhàng ơi ới.  Mây học ra từ khi vượt biên ý nghĩa câu tha hương ngộ cố tri, nhưng 35 năm sau hình như Mây thấy nhiều lúc cố tri nhức nhối hơn cựu thù. 
    Ở lối vào, xe nối đuôi chờ quẹo phải vào parking nên xe quẹo trái cũng phải chờ, nên xe muốn ra đường cũng phải chờ, nên xe muốn de ra khỏi chỗ đậu cũng phải chờ, nên xe muốn lấy chỗ đậu cũng phải chờ, nên xe muốn vào parking cũng phải chờ, vân vân.  Có thể nói chung rằng xe Lexus, Mercedes, Honda Pilot, Toyota Sienna dù xe nhỏ hay xe to phần nhiều là của người Việt.  Và có thể nói (và có thể bị đánh), cái xe chờ chỗ đậu làm nghẽn lối là một xe của người Việt.  Sau 20 phút Mây và anh Tư vào được bên trong chợ.  Ở đây chợ đáp ứng nhu cầu người mua rất nhanh.  Christmas, kẹo chocolate đủ loại, kẹo rượu, và rượu, nhiều hơn ở những Costco nơi khác và bán hết rất nhanh.  Ngày trung thu có bánh trung thu (dẫu chưa đúng nhãn hiệu !!!)  Ngày tết, cúc đại đóa chất đầy 3 từng kệ, lan đất vàng tía xanh lục lợt tràn lan.  Kế bên là những khay mứt, rổ mứt trà gói sẵn thành từng phần quà đầy ngập kệ. 
   Đi chợ Costco trở thành một cái vui khám phá những mặt hàng mới_ tốt, đẹp, giá phải chăng.  Chỉ cái tội hàng tiêu dùng loại nào cũng bán nhiều, gia đình nhỏ mua về không chỗ chứa, không dùng kịp ngày hết hạn.  Mây mua hoa, lủi vào lựa cúc đại đóa.  Bên cạnh, một anh phân bua với vợ và bầy trẻ con: mình mới lựa được 2 chậu hoa để vào xe, quay lưng tìm chậu lan trở lại thì xe và cúc đã mất tiêu.  Người chung quanh cười rộ, Mây trợn mắt dặn anh Tư ôm lấy xe.  Mây lấy 3 chậu cúc, 2 chậu lan, và 2 bó huệ.  Huệ ở đây rất tươi, mập.  Anh Tư hỏi Mây,
   -Bộ Mây mua đi bán lại hay sao mà nhiều vậy 
   -Đâu phải, Đâu phải, nhiêu đây là hà tiện đó.  Mua biếu, mua cho nhà, nay mai còn phải trở lại mua hoa để bàn thờ.
   -Ừ.  (Có vẻ ngao ngán !!)
   Mây mở cuốn coupon book ra, tìm những món hàng cần.  Cũng lại là một thú vui khác khi đi chợ Costco.  Cứ hễ có “cu bông” thì mua cho bằng hết theo giới hạn, đem về để dành.  Gọi nhau bê, chỉ nhau mua, mua cho sạch kệ.  Sau nhiều lần cúng vài trăm với mấy cái “cu bông” vài đồng, Mây mới thấm đòn “sale” của Costco.  Nhưng Mây vẫn thích đi Costco, vui mắt vui tai và tiện lợi.
   Trẻ em tha hồ tìm games, tìm sách.  Quí bà quí cô lăn vào hàng quần áo, xà bông, thực phẩm.  Quí ông dí mũi vào computers, máy hình.  Cụ ông cụ bà ra chỗ cây chậu hoa bó kẹo bánh hộp mà tẩn mẩn_Ồ, cây này xứ mình mọc hoang mà nó bán.  Hoa này to đùng thô quá.  Kẹo bánh này thì ở mình thích biết mấy…. Thích ăn vặt free?  Đi một vòng là no, đủ món ăn uống bày sẵn từng mẫu nhỏ cho người đi chợ thử, quảng cáo hữu hiệu lắm nha.  Hay nhất, là các đại ca không cần biết nấu nướng vẫn có thể gầy ra một bữa nhậu hay một bữa ăn thịnh soạn.  Ghé qua hàng rượu vác một chai Cordon Rouge Grand Manier, 30 đồng  trừ 5 đồng cu bông, đãi bạn hiền.  Lượm thêm thùng dầu gió xanh 24 chai Heineken.  Bước tới hàng đồ nguội, lấy đại miếng ham, một thỏi xúc xích.  Qua hàng đồ ăn liền bắt một con gà Rotisserie chỉ có 5 đồng.  Một hũ salsa, một bịch tortilla chips.  Ăn hết buổi tối vẫn còn hàng !!!! 
   Thú nhất với Mây là ráng nghe xem họ nói gì với nhau.  Tiếng Việt không đấy, nhưng nhiều chữ lạ và âm thanh véo von lắm.  Nơi quầy tính tiền, một anh có đeo túi nhỏ travel trước bụng hăm hở chất hàng lên quầy.  Hai cô tính tiền hỏi thẻ hội viên, anh bèn lục.  Anh lục từ ngăn ngoài cùng vào ngăn giữa, đến ngăn trong.  Mắt anh nhìn sang dẫy bên cạnh tìm kiếm, miệng anh lẩm bẩm đ. mẹ… thật giầu âm điệu!  Anh đưa mắt nhìn Mây phẩy phẩy tay ra dấu lên trước đi, nhưng hàng của anh nằm ì trên bàn, Mây không tới được.  Anh Tư hỏi Mây anh ta nói gì, Mây lắc đầu -chỉ nghe được tiếng chửi thề, những tiếng kia như chim hót, không nghe kịp.  Anh ta lấn ngang đầu xe Mây, ra trước để dỡ hàng xuống lại xe đẩy.  Mây la rầm, gẫy bông gẫy bông, bồng 2 bó huệ lên tay.  Anh ta giả lả, Mây trừng mắt.  Im, tự dưng ai cũng im hết.  Trả xong tiền Mây mới nghe 2 bà ngoại trẻ nói chuyện
   -Tại sao phải mua lan ở đây, ra trước tiệm vàng Ngọc Quang mua.  Một chậu 35 đồng 5 nhánh đẹp hết biết.  Ở đây 20 đồng 2 nhánh, lỗ
   -Nhưng Costco bán hàng uy tín thiệt thà chất lượng
   -Hoa thì đâu ai gạt được ai
   -Nhưng phải trả giá
   -Họ nói 35 đồng, khỏi kỳ kèo.
   Mây tính vòng lại trả chậu lan, anh Tư trợn mắt, “cho Mây 10 đồng.”  Ok, ok, Mây đành đi ra.  Ra khỏi Costco Mây vuốt tóc, giũ sống áo.  Trong xe Mây ông ổng rao, muốn đổ mồ hôi trong tháng đông, muốn thấy nắng hè trong trời giá, xin mời ghé qua… (quát to) CO..OO..ST CO (xuống giọng) Garden grove.  Anh Tư càng trợn hơn sau cặp kính.
   Mây về nhà cất những thứ đã mua, rồi nhờ anh Tư chở qua căn gác quạnh quẽ ấy, mang cúc đại đóa sang biếu Ông và cô Năm.  Phòng khách chỉ có Ông Bà.  “Nó” nằm trong phòng suốt, Ông nói vậy.  Mây nghĩ, cõi riêng?  “Nó” nằm trong phòng, nhưng Mây vẫn cảm thấy như có cái hố chờ mình.  Mây ớn nếu bị tạt vào mặt những câu hỏi, những lời nhận định mà càng tự phân bua rằng đâu có gì quá đáng thì càng lấn cấn.  Nhưng hôm nay khác.
   “Nó” ra.  Mây chào nhưng không nghe Chiến trả lời, Mây nói nghe tiếng tưởng là Thu, Chiến nói dạ không phải.  Chiến phụ mẹ dọn cơm, rồi vào bàn chung với mọi người.  Chiến không nói gì với Mây, cũng không nhìn Mây trong suốt bữa ăn, như Mây không có mặt, như Mây là “người cõi trên.”  Mây cười với ý nghĩ đó.  Chiến im lặng như Thu vẫn im lặng trong mỗi bữa cơm, chỉ nói chuyện với Bố Mẹ với cô Năm, và chỉ trả lời nếu Mây hỏi.  Mây cảm thấy như Chiến không biết nói gì cùng Mây.  Mây càng cười cho sự đảo ngược đó.  Có vẻ như Chiến và Thu không biết cư xử sao với người chỉ đồng vai vế mà lại là bạn của Bố.  Chiến lặng lẽ ăn, nhìn y tưởng như cây mã tấu chống mũi xuống đất.  Mỗi khi hắn nhìn cô Năm, tưởng như 2 cái đinh nơi chuôi đao lấp lóe sáng.  Nhưng trước sau gì, hắn cũng sẽ dọn ra, cũng sẽ trả cái quạnh quẽ lại cho Bố Mẹ hắn, dầu không thể như xưa.  Mây, Mây, cái không gian này rồi sẽ còn buồn hơn, Mây biết không.  Chiến nói với cô Năm, cháu đi mua ly cà phê, và không hề nhìn lại Mây, không bye Mây như Thu mỗi khi ra đi.  Cái im lặng đó có phải do bản tính tự nhiên, hay do không lấn được thì lui?  Cho đến bây giờ Mây vẫn chưa thấy Chiến nhìn thẳng, cái nhìn mạch lạc và thẳng thắn của người dân địa phương khi nói chuyện cùng người đối diện.
   Không muốn nghĩ thêm về những lấn cấn đó, Mây đi bộ về nhà. 
***
                                

                                                      Young girl seated by Amedeo Modigliani

   Thứ bảy đi làm rất buồn chán, vì lẽ trong sở chỉ lấy được đài radio tiếng Việt, mà chương trình cuối tuần chỉ thuần quảng cáo.  Mây đành mở MP3 nghe lại chương trình đọc sách cũ.  Nhưng Mây chỉ nghe được mấy episodes về Bùi Giáng, về thơ Cao đông Khánh rồi đành phải tắt máy.  Tự dưng Mây thấy mệt lả, muốn nằm xuống bên đường.  Từ cái giọng trầm trầm vang ra những lời viết  như xẻ dọc trái tim, như thể cái giọng ẩn ước niềm đau đó đã truyền nhiễm vào Mây nỗi mệt mỏi chán chường.  Đột nhiên Mây thấy ra một khía cạnh khác của cái đọc.
   Những năm tháng xưa khi còn nhỏ thì đọc là một thú vui.  Khi ra nước ngoài, đọc thành một nhu cầu   -nhu cầu gắn bó với quê hương vừa dứt bỏ, nhu cầu đắp đỗi vết thương của người dân bại trận, nhu cầu tìm hiểu, nhu cầu biết có những người chia sẻ nỗi đau đớn của mình, nhu cầu biết mình không phải chỉ có một mình trong thế giới xa lạ này. Và một nhu cầu thể xác: cho quên nỗi nhọc nhằn của những ngày dậy từ 4 giờ sáng đi làm đi học, 10 giờ đêm về đến căn phòng trống lạnh ăn chén cơm buồn.  Mây đọc bất kể là loại gì trừ thể truyện dài nó làm mình mê lậm không làm ăn gì được.  Khi đọc Mây thấy mê mải với mọi thứ tâm tình mọi ý nghĩ nêu ra.  Mê cái u hoài nghệ sỹ nhưng cẩn trọng của Nguyễn Hiến Lê, mê cái cà tửng bất cần của Hoàng Chính, mê cái hào sảng kỳ bí của Tô Thùy Yên, mê cái ngậm ngùi ngơ ngác của những nhà văn nữ thời 80, mê cái đanh đá của Túy Hồng, mê cái cuồng nhiệt của Nhã Ca, mê cái rề rà chuyện thời “giải phóng” của Nguyễn Đức Lập…  Ôi thôi Mây mê đủ thứ.  Đọc, giống như đi du lịch khắp nơi, giống như quen muôn người, giống như thêm được một bồ chữ, nhận được một cuốn sổ đời sống.  Và sướng nhất, là đọc mình không phải nghĩ_không phải đối diện với lòng mình, với những điều u mê trong tâm trí.  Mê nhất là đọc Võ Phiến.  Võ Phiến nhận xét tinh tế lắm, chỉ ra những tâm lý sâu kín của con người rất độc đáo.  Đọc rồi, 15 năm sau đọc lại vẫn thấy mê.  Lúc đó, Võ Phiến giới thiệu cuốn sách nào thì Mây sẽ đọc cuốn đó khi có dịp.  Rồi cũng có lúc Mây đứng lại, và xác định với chính mình, nhiều khi mình mê đọc người giới thiệu chứ chưa chắc mê đọc người được nhắc tới.  Đọc với Mây cứ vẫn là nhìn ra.
   Bây giờ, nghe đến câu chữ “…Cuộc tan vỡ mỗi người mang một ít trong máu, nghe nói thì hiểu ngay, chẳng cần biết đó là chuyện của ai.  Bài vọng cổ không phải đời sống, nhưng có bao nhiêu đời sống mất đi mới thành bài vọng cổ, hát lên và nghe hát là có thể khóc, không phải khóc những gì ở ngay trong bài vọng cổ , mà khóc cái xa hơn -khóc người đã trở thành bóng, khóc xóm củi, khóc cái bến tắm ngựa, khóc chuyến xe buýt đậu trước cửa chợ Bà Chiểu, em mặc áo dài đen bước xuống…rồi biển lấp đi tất cả…” Mây thấy rung động tâm can.  Cái đồng cảm nó đến cùng mình dẫu qua con chữ, nhưng sao nói được tần số của nhịp rung?  Tựa như khi Mây ngồi nghe hát chương trình nhạc Lại Tôn Dũng, âm thanh quá lớn, đến nỗi dội vào 2 tay Mây đang đặt trên tấm áo windbreaker, nhưng tần số đáp ứng nơi tay chắc chắn không phải là giọng hát.  Cái rung động của tâm hồn đồng cảm không đo bằng con chữ đã viết xuống.  Mây thấy ra, đọc Võ Phiến như nhìn bức hình sinh vật chiếu rọi thân thể người ta, gân xương mạch máu thần kinh bắp thịt.  Mỗi chữ mỗi lời của Võ Phiến là markers dẫn mình đi tứ tung trong cái thân thể đó. Nhưng markers luôn còn đó, Mây cứ theo markers mà phiêu lưu, trên thân thể của ai đó.  Đọc những câu chữ của NĐT Mây quên ngay con chữ, không biết mình bị xẻ chỗ nào trên bức họa đồ mà thấy như máu bắt đầu ứa ra trong cơ thể, tim mình thoi thóp đập một nhịp lạ, óc mình bị chiếm những hình ảnh không tiếp cận bao giờ.  Mây quả thật muốn nằm xuống.  Bị hòa nhập với một hồn đau, đâu phải mình có chọn lựa.
   Đọc thơ Cao Đông Khánh (hay bất cứ ai), thì mỗi người mỗi cảm, Mây không chắc mình sẽ thích hay mê CĐK.  Nhưng những giòng viết về thơ Cao Đông Khánh dậy cho Mây biết, không chỉ khi viết mình mới soạn lại lòng mình.  Chính là khi đọc NĐT mà Mây phải lọc lựa lại những gì đã nghĩ, những cảm xúc đã qua; đọc NĐT Mây không chỉ nhìn ra mà còn nhìn vào chính lòng mình.  Nhìn vào rồi hiểu, rằng trong kiếp này không ai đọc được dùm ai một chữ tình.
    Mây lại nghĩ lan man đến những phút hững hờ im lặng nơi nhà Ông.  Có lúc Bà phỏng tay, ông ngồi nhìn ra cửa sổ tay mân mê những ngón tay nhỏ xương xương của Bà, miết quanh những cái móng be bé.  Có lúc ăn cơm, Ông cầm cái fork tay run run xắn miếng cá thu rim khô cho Bà, chan muỗng nước mắm vào chén gỏi cho Bà.  Đưa tay vuốt một lọn tóc xòa, miết ngón tay quanh gò má…  Tình, nơi ông không ở lời nói, không ở những hành động hào nhoáng ước lệ.  Nó là những cử chỉ vẩn vơ bất chợt đến và bất chợt làm, như thể ông cũng bị lên đồng, bị bà nhập chứ không chủ tâm làm những việc đó.  Và thực ra, chỉ một thoáng giây rồi tất cả qua đi.  Mây hên hay xui mà cảm mà nhìn thấy? 
***
    Hôm nay Ông có vẻ vui.  Ông khoe với Mây rằng Thu sợ Chiến một phép, rằng Chiến trị được tật cà nhỏng của Thu.  Hể hả hơn nữa, ông tỉ tê lời Chiến đã nói, rằng ca sĩ nọ có cuộc sống và thái độ tệ như vậy thì không thể hát hay được mà sao vẫn hát hay!  Chậc!!!  Mưa vẫn từ trời rơi xuống, chứ người đã nghĩ đến nấm mộ của mình từ thuở còn thơ sao lại không biết chuyện có tật có tài.  Còn nhớ khi Mây tỏ ý không muốn qua vào giờ cơm ông đã nói bâng quơ, “nó” cũng biết cười đấy.  Mây làm thinh.  Nước mắt chảy xuôi, dù Mây không nói gì nhưng chắc ông cảm được cái ngần ngừ của Mây khi gặp Chiến. 
   Có tiếng chuông, Bà ra mở cửa. Cô Năm qua.  Cô mang 2, 3 món đồ ăn bầy ra bàn rồi chạy vào gọi Chiến.  Chiến đi ra, nói cháu vừa ăn xong cô ạ, Cô ăn đi cô, nhỏ giọng lại chị cứ ăn đi chị.  Mây cảm tưởng như Chiến là đứa trẻ sợ bố mẹ, hễ phải nói điều gì không thích bèn lí nhí trong miệng!!!  Mây cười thầm với ý nghĩ ngộ nghĩnh đó khi nhìn lại vóc người đồ sộ của Chiến.  Cây mã tấu sau vài lần huơ rất rộng và dũng mãnh giờ thường chỉ nhỏ giọng chào Mây và không nói gì với Mây nữa.  Đúng ra Mây và Chiến mới dễ thân nhau chứ, Mây và hắn đến nơi này trước sau vài năm, chênh lệch nhau vài tuổi, cùng để lại sau lưng một gia đình…  Sao Mây thấy gần với Ông hơn với hắn?  Sao Mây không thấy cấn cái với Thu dù Thu nhỏ tuổi hơn Mây nhiều và chỉ mới ở đất này năm ba năm?
    Có phải vì cái mười năm ngửa mặt mà Ông có lần nhắc đến?  Mây cũng có riêng một cái mười năm, và nếu Mây cũng có một cái mười năm thì Chiến cũng như hầu hết người dân miền Nam sau 75 có lẽ đều có một khoảng mười năm tê liệt với cuộc sống sau những biến cố dồn dập.  Mà nơi đây, có 2 đứa trẻ như bung ngược chiều nhau?  Rau thơm đem trồng xứ lạnh không thơm mà hăng, dẫu tươi tốt mà lạc quẻ khi gói ghém vào nhau !!!  Vô lý, tựa như phim Tàu nói, thiên địa vô tình, như Việt và Mây cũng đã dạt hai nẻo đời, từ thuở còn thơ. 
   Mười năm, Ông nói, tôi ở tù về chỉ nằm ngửa mặt nghiền ngẫm.  Tôi nhìn lại mình, nhìn lại cuộc đời, nhìn những đổi thay, nhìn xã hội tàn rụi trong khúc phim câm, không còn được là mình nhưng hiểu mình hiểu người hơn bao giờ hết…  Còn Mây, cái khoảng mười năm ấy Mây đang loay hoay với sương mù trắng và ánh đèn vàng vọt mỗi xế chiều.  Không có ai hiểu được cái hoang tàn trong lòng Mây chỉ vì một ánh đèn nê ông đã mất, và cái im vắng khi mặt trời tắt nắng.  Đường phố, rõ ràng là đông, xe rất nhiều rất nhanh, mà sao im vắng lạ lùng.  Không ai nói với ai câu nào, không bên nọ bóp kèn bên kia khạc nhổ.  Không ai la lối vào tai mình dô, dô, tránh ra, tránh ra…
    Mây ở chung với khoảng 15 người dưới một mái nhà, nên cái thê lương những khi tết lễ mới càng khó chống đỡ.  Trong căn phòng ướt lạnh ấy, Mây thấy chuyện thắp nhang để bàn thờ thành một trò lẩm cẩm vô nghĩa.  Ông-Bà là ai và Mây là ai ở chốn này?  Mây không còn nẻo về, những đứa con Mây sẽ có -chắc gì biết ăn bún riêu?  Mây cần một người ruột thịt để có một gia đình, nhưng Mây đơn côi, nhưng Mây không còn bao giờ thấy lại Má đứng ngơ ngác tìm con trước  ngõ ngày Mây lên xe đến bãi “bốc.”  Đứng trước cái hớn hở rộn ràng của người chung quanh, Mây không biết phải nói gì cho nỗi thê thảm trên vai mình.  Hai mươi lăm năm sau Má đến đất này trên máy bay.  Mây mừng lắm, nhưng trong mắt Má Mây đà mất gốc, mất bàn thờ, giỗ Ba Mây cũng quên.  Mây chả buồn cúng quảy, vì nén nhang không chỗ cắm giờ thêm thiếu lòng thành là ngọn đuốc đe dọa lương thiện trong Mây.  Má đâu biết, giỗ Ba như làn khói lúc nào cũng quẩn quanh trong lòng Mây.  Dầu sao Mây cũng đã gắng hết sức mình để làm một đứa con ngoan.  Những khi bế tắc, mà thường là bế tắc, Mây lại qua bên gác hẹp của Ông.  Đối diện với cánh cửa sau cùng, mọi hân hoan khổ đau được mất đều vô nghĩa.  Cái đau khổ trong cuộc sống riêng của Mây như vơi đi, như cũng biến thành khói nhang vô hình trong lòng Mây.
   Dường như Chiến không có thứ bế tắc đó.  Chiến mãi là một đứa con Việt Nam, dẫu trong hoàn cảnh nào, phải vậy không?  Em kể chị nghe chuyện buồn cười này… Dường như cây mã tấu thôi huơ một vòng quanh chỗ đứng, dường như đinh ốc nơi chuôi đao thôi tóe hào quang. 

    Mùng một, Mây rủ anh Tư đi chùa ở San Diego.  Trời mưa tầm tã, trên xe Mây kể anh Tư nghe giấc mơ về một người bạn văn đã chết.  Mây lẩn thẩn thú nhận là đêm nào cũng nghĩ đến cái chết, Mây sợ chết, không biết cõi đó ra sao.  Anh Tư cười cười, anh sẽ đến đó trước Mây, để chừng đó anh kể cho Mây biết nghen.  Nghe sợ.  Lên chùa, thấy phơi phới dẫu ý niệm thiên đàng địa ngục luôn ngự ngay trong chùa.  Tựa như thấy ánh hào quang thì Mây đã thấy phần nào được xả tội!!!!  Chùa thì nhỏ nhưng miếng đất to trên đồi thật thoáng mát êm đềm.  Chung quanh các thầy trồng cơ man là đào, vườn chùa còn rất nhiều cây ăn trái đang trĩu cành và một vườn rau.  Như vậy có trái cây cúng Phật và rau dưa qua ngày, cũng được…  Mưa đổ xuống.  Mây mừng ơi là mừng, lấy máy ra chụp mấy chục bức hình hoa đào trong mưa.  Anh Tư đã quen với thói ham hố của Mây, anh quay sang nói chuyện cùng một thầy đứng gần.  Mây ra dốc đứng nhìn cây nêu có treo tràng pháo đỏ.  Thiệt ra, lúc Mây còn trong nước hình ảnh cây nêu tràng pháo cũng chỉ là thấy trên sách báo.  Những đứa trẻ sinh ra nơi tỉnh thành không bao giờ có dịp biết đến những tục lệ hình ảnh chưa xa mà đã xưa như ông bành tổ ấy.  Trời đổ lạnh thật nhanh, anh Tư gọi về. 
    Mùng hai, Mây lại rủ anh Tư đi chùa.  Không cần đi xa, ngay cạnh phố Bôn-Sa.  Ở “thủ đô của người Việt tỵ nạn” thì nhà hàng quán ăn chợ cửa tiệm tụ ở phố Bolsa.  Hội chợ Tết thì ở đường Westminster.  Còn chùa, thì không cần đi hành hương thập tự ở đâu xa, cứ đi trên đường Hazard, một con đường nhỏ nằm song song và kẹp ở giữa 2 đường Bolsa với Westmisnter.  Bắt đầu từ gần góc Golden West là chùa Điều Ngự, mới lập được vài năm.  Chùa vẫn còn đơn sơ trên miếng đất rộng với một cội đào già thật đẹp và lạ.  Cành đào tỏa chúc xuống đất, hoa đào be bé gọn gàng màu hồng phấn chứ không hồng rực rỡ không ú nụ như các loại đào bán đầy phố, trồng ở mọi nhà.  Trong chùa tượng Phật đơn sơ vừa phải, và đặc biệt là một khung hình của thầy Thích Quảng Độ nơi phòng bên.  Bức hình và thời điểm thành lập chùa như không phải tình cờ.  Không cần phải nói, chỉ như một khẳng định mình là ai tại sao ở nơi này.
   Mây đi ngang góc Hazard và Beach, nơi đây cũng có một kiểng chùa nhỏ mà Mây chưa ghé bao giờ.  Qua Magnolia Mây ghé thắp nhang chùa Giác Lý.  Chùa Pháp Hoa thì ở góc Euclid Hazard, rồi quẹo một tí thì sẽ gặp chùa Hương Tích.  Chùa này vừa vừa thôi, nhưng rất ngăn nắp, chung quanh chùa và bãi đậu xe bao bọc bằng những tượng La Hán (?) bằng đá trắng.  Trở lại đường Hazard, Mây ghé chùa Bảo Quang.  Phải nói bây giờ chùa Bảo Quang to nhất.  Nhiều tượng nhiều hòn non bộ, thêm hồ với tượng tưởng niệm thuyền nhân, rồi khu triển lãm trưng bầy hình ảnh nghệ thuật, tượng Thích Quảng Đức…  Mây có cảm tưởng chùa BQ là một trung tâm sinh hoạt văn hóa Phật học hơn là một cái chùa.
    Đi xa hơn một chút ra Westminster vào chùa Huệ quang, sau đó thẳng lên khu Santa Ana vào chùa Bát Nhã.  Anh Tư nói chắc Mây nhiều tội nên đi nhiều chùa!!!!
   Phải nói rằng sự sống của chúng ta, những người đã xa quê, bao quanh chợ và chùa (hay nhà thờ).  Khi ra đi, chúng ta không còn biết tìm đâu những kỷ niệm xưa.  Nơi sách vở tài liệu, chúng ta thực chỉ nghe một tiếng dội thấy một bóng nhòa, cái đói khát tình quê cần một điều gì cụ thể hơn.  Vậy nên, đi chợ, đi chùa.   Đi chợ tìm lại món ăn quen, đi chùa tìm lại mùi hương cũ.  Đến những nơi đó như sống lại thói quen đã tạo nên mình.  Ở những nơi đó thấy chân mình vẫn chạm đất, thấy hồn mình còn chỗ náu nương, không những gặp người quen mà còn gặp lại chính mình của những năm xưa.
   Ý nghĩ đó có thể là riêng lẻ, nhưng làm sao có thể phủ nhận sức sống và cái thèm chút hồn quê của người Việt trong những ngày đầu năm.  Giao thừa, khắp chùa có lễ đón giao thừa với ầm vang tiếng pháo.  Ngày mùng một, các chùa đầy nghẹt phật tử đến lễ bái.  Nào phải chỉ đến để thắp một nén hương, ăn một bát cơm chay.  Phật tử còn khệ nệ mang ba bốn bao gạo, năm bảy bịch cải to đùng vào sau chùa để cúng dường.  Ở xa, họ ghi tên theo các tours chiêm bái lễ Phật hành hương.  Ở gần thì cứ chùa quen mà đi.  Và hầu như ai cũng biết hội chợ Tết của Tổng Hội Sinh viên tổ chức hàng năm.
   Bốn, tổng hội sinh viên phần nhiều là các em trẻ.  Năm,  bảy năm trở lại đây, thấy phần nhiều là hình ảnh của các em sinh viên đã trưởng thành, rất quan tâm đến quê nhà ở xa, đến những vấn nạn xã hội, đến tiền đồ dân tộc, đến thế hệ cha anh.  Hội chợ dần dần bao gồm những thành phần không thể thiếu: hội đoàn tôn giáo, hội đoàn chính trị dòng chính, hội đoàn người Việt quan tâm những vấn đề của người Việt và Việt Nam, và “vui Xuân không quên các anh chiến sĩ”…  Các sinh hoạt văn hóa ngày Tết là những tiết mục phụ bao quanh những cái trục vững vàng đó.   Dần dà Mây đâm thấy nhàm.  Nhưng năm nay bạn bảo Mây là đã lỡ một dịp may, nên Mây lật đật gọi anh Tư cùng vác máy ra để vớt vát.  Và Mây thầm cám ơn bạn đã nhắc nhở Mây.  Năm nay hội chợ mang sắc thái khác, tươi và mới.  Tươi với hầu hết những khuôn mặt còn non của tuổi teens.  Mới với một theme Tết chắc nịch: hội vui ngày Xuân.  
   Các em dựng hội chợ như một phim trường.  Mây có cảm tưởng như các em đã huy động học sinh của cả một trường trung học vào tham dự với quần áo cổ truyền (phần nhiều là của miền Bắc).  Trong trang phục Tết, các em luôn mỉm cười với vai trò của mình ở vở kịch ngày Xuân.  Hình ảnh ngày xưa được cố gắng dựng lại, tuy thô sơ nhưng vui và làm ấm không gian.  Sạp vải, hàng xén, hàng bún chợ Bến thành, ghe chợ nổi miền Tây, quán trà, Khuê Văn các, lính tuần giáo đỏ áo xanh, và cả một cái đám cưới ngày Xuân…  Hội Xuân gồm những trò vui ngày Tết như đánh cờ, thả thơ, đố nhạc, chơi trò chơi trúng thưởng, văn nghệ giúp vui, biểu diễn võ thuật, viết chữ ngày Xuân, và ăn quà vặt.  Đặc biệt có sạp che nắng và bàn để ngồi ăn, không phải lóng ngóng như những năm trước.  Không nghe tiếng gọi lô tô, nhưng nghe tiếng rao mua vé số rút thăm trúng thưởng.  Phần văn nghệ trên sân khấu lớn không hay bằng phần văn nghệ do các em thiếu nhi các trường Việt ngữ và các hội đoàn khác đóng góp, với những bài hát những điệu múa mang tính dân tộc và nặng phần đóng góp văn hóa, không chuyên nghiệp nhưng đầy tính cách quê hương và làm sống lại tinh thần vui Xuân.  So với những năm trước, hội chợ Tết năm nay rất ít vẻ thương mại chính trị, làm đậm chủ đề Xuân Bình An hơn, và như nối được thêm thành phần teens vào thế hệ trước.  Nhiều màu tóc hơn, nhiều tuổi hoa hơn, và nhiều áo dài Tết hơn.  Vẫn chỉ năm đồng vào cửa.  Mây được một ngày vui và lời được hơn 100 bức hình để gửi cho anh bạn xa. 
   Đêm đến rã rời.  Mây nằm im, những hình ảnh của hai ngày Tết tràn ngập trong đầu không sao ngủ được.  Giữa rừng người, cả mấy trăm cả ngàn khuôn mặt mà không gặp được một người của ngày xưa.  Lấn quấn lu bu muôn vạn thứ của cuộc sống, chỗ nào trống cho quá khứ?  Mà sao mãi lằng nhằng.  Việt, Lù, mày ở đâu?  Mình có xưng mày tao nữa không nếu “rủi” mình gặp lại?  Đêm nay trời khô lạnh.  Những hạt mưa tuần trước chắc đã hóa rêu. 
***

   Sau mấy ngày chộn rộn, giờ Mây mới rảnh qua bên chở ông đi bưu điện.  Lại bưu điện.  Rồi lại tòa báo, rồi lại cà phê cùng anh em.  Mây ngồi yên nghe họ nói chuyện.  Những tràng cười, những lời chọc ghẹo.  Một lúc nào đó, Mây ngó xéo thấy ông cầm điếu thuốc trên tay.  Lạ.  Thường Mây chỉ thấy ông hút pipe.  Ai đó nhắc thuở cây còn xanh lá, những cuộc vui, ông chỉ cười nhẹ nhàng.  Rồi cũng ai đó nói một điều về cuộc sống, chợt Mây thấy ông rộng miệng cười răng nghiến  đầu điếu thuốc, ánh mắt mờ đục chợt lấp lánh, hàm răng úa cũ như bừng sáng, cái nghiến trên điếu thuốc như dội ra sức sống.  Nơi cử chỉ vô tình đó, Mây chợt thấy cái nam tính cuối đời của ông, cái nam tính không bằng lời to vóc lớn, không bằng cư xử dõng dạc.  Nó chỉ loáng thoáng nét chấm phá của một dòng chữ Nho đen tung hoành trên giấy lụa.  Nó mơ hồ tựa những lúc ông tiễn cô Năm ra cửa, vỗ nhẹ vào lưng cô như một lời chào, hay những khi ông thẳng thắn chĩa mũi dùi vào cô Năm buông lời cà khịa và cười khanh khách.  Nhìn nụ cười rộng nhưng hơi đanh vì răng nghiến điếu thuốc, Mây chợt thấy một quá khứ sống đầy ăm ắp đã từng ghi dấu trên cõi địa cầu này.  Mây nghĩ, đời ông phong phú biết bao, từ hạnh phúc được là mình đến khổ đau không được là mình; từ bước trên đường hoa đến lạc cảnh máu xương; từ là bức tranh thắm màu tươi nét, thành bức ảnh thâm sâu, và nay đang trong lại như tấm phim cũ.  Ông có biết Mây có một tuổi thơ còi cọc, Mây như một nhánh cây mọc oặt ẹo, và mọi lá hoa cây trái về sau đều chỉ là nỗi hối tiếc?  Mây nhìn ông nói chuyện, nghe cái im tiếng của không gian, Mây ráng hình dung chiếc ghế trống mà không thể.  Đầu óc Mây thật nghèo nàn… và Mây lại thấy hết hơi mệt lả.
   Dường như ông cảm được cái đuối sức của Mây, đứng lên từ giã ra về. 

   Bước vào nhà, Bà đang sắp bàn dọn cơm.  Thu đang ở trong phòng.  Ông về, ngồi vào chỗ bên cửa sổ như tìm thấy lại mình.  Ánh mắt nhìn ra cửa sổ như trống rỗng, rồi ông bật ra một câu hát, một lời nghe chẳng ăn nhập gì đến cái chốn ông đang ngự.  Mây mơ màng ngẫm nghĩ.  Chợt, Mây thấy nhà hơi trống, đưa mắt nhìn ông.  Ông bâng quơ, Chiến nó tìm được chỗ ở rồi.  Mây cúi đầu liếc mắt ngang vai.  Ông tiếp, Thu nó muốn ở đây với tôi.  Thắc mắc của Mây đã được giải đáp.  Thu đi ra.
   -Hi Mây
   -Hi Thu
   Bà bảo vào bàn ăn cơm. 
   -Mẹ, chén đó của “con” Mây (chữ “con” hơi nuốt, nghe nhỏ rí, nhưng không phải lí nhí !!!)
   Mây bật cười thầm.  Cho cân với tiếng “chị” ép uổng bữa nọ đây.  Thu bưng chén lên, vẫn im lặng như mọi khi nhưng hôm nay mặt có vẻ dãn ra không lầm lì bẽn lẽn như mấy bữa trước.  Cuối bữa, Thu nói 2 tuần nữa sẽ chơi nhạc. Trước giờ Mây vẫn nghe Thu kể chuyện chơi nhạc, nhưng hôm nay Thu nói đến cái sinh hoạt thường lệ đó một cách ngắn gọn như đã tìm được ghế của mình.  Tự dưng Mây đưa mắt nhìn ông ngồi bên cửa sổ.  Mây đứng lên cáo từ.  Ông đứng dậy đưa Mây ra cửa, lắc nhẹ bàn tay như một lời chào. 
Đêm nay trời có mưa? 
Lưu Na
02/01/2012



Không bắn vào ngực đồng bào 

Khuất Đẩu


Tôi cầm súng như cầm trái tim
hai bàn tay chưa hề vấy máu
tôi đứng trong nắng đỏ và gió cát
giữ từng hạt bụi quê hương

Những hạt bụi không ngớt bay đi
dưới bầu trời bắc Phi xanh thẳm
tôi cũng giữ cả màu nắng đẹp
trên vai những tượng nhân sư 

Tôi giữ dòng sông Nil xanh biếc
như đôi mắt huyền hoặc của nữ hoàng Cléopâtre
tôi giữ những kim tự tháp hùng vĩ
đẹp mê hồn trong bóng hoàng hôn 

Tôi cũng giữ từng giấc ngủ cho các em thơ
lúc nào cũng thơm tho
tôi giữ từng cây cọ
và nếu cần cả những đống phân lạc đà ướt nhẹp

Nhưng tôi không thể giữ chiếc ghế của tổng thống
cho dù ghế được làm bằng sừng tê và ngà voi
được cẩn bằng kim cương và hồng ngọc
tôi không thể giữ thưa ngài 

Tôi không thể giữ dù ngài tăng lương gấp đôi gấp ba
dù ngài biến căn lều của tôi thành biệt thự
dù ngài thăng chức mỗi ngày lên một bậc
và ngay cả ngài đưa tôi ra tòa án binh treo cổ

Vì cầm súng như cầm trái tim tôi
nên không thể nào và không bao giờ
tôi nhắm thẳng nhân dân mà bắn
không bao giờ

tôi bắn thẳng vào ngực đồng bào! 

Khuất Đẩu
31/3/2010 

(từ NTTA)



Thư gởi… đảo xa 

Thanh Tâm Tuyền, khúc cầm xanh



                                                                  Cello. Modigliani

Đà Lạt, 27.10.1972

Đảo xa,
    Trong cuốn băng có một mặt của Bach và một mặt của Beetho. 5 khúc của Bach anh chọn cho em nghe đều là 5 khúc anh thích và thường nghe vào sáng sớm hoặc lúc chiều bỗng rực hiu quạnh. Khúc dạo mở đầu tưng bừng. Khúc đàn dây du dương ngọt ngào (khúc này trích trong suite số 3 của Bach - đoạn 2) dàn nhạc do Pablo Casals hướng dẫn. Tên Pablo Casals có nhắc nhở em nhớ gì không? Espagnol, tay đàn đại hồ cầm nhất thế giới vừa ăn mừng sinh nhật thứ 90 năm ngoái năm kia gì đó. Tất cả các tay kéo đại hồ cầm trên thế giới đã kéo nhau đến tụ họp, mừng tuổi cụ, mỗi người mang theo cây đàn của mình và hòa tấu cùng với cụ. Pablo này cũng vĩ đại như Pablo Picasso bên hội họa. Hai Pablo năm 7, 80 tuổi đều còn nồng nàn và đều lấy vợ, vợ khoảng 20 tuổi. Một người vẫn còn kéo đàn và một người vẫn còn vẽ. Anh có được nghe một bộ đĩa quý gồm những tác phẩm của Bach do Casals tình cờ lục kiếm thấy, một mình Pablo đàn và thỉnh thoảng nghe nổi giọng ngâm nga của Pablo theo tiếng đàn của mình. Tuyệt. Em có thích tiếng đại hồ cầm không? Anh mê. Đêm qua anh đã thu vào băng 7 biến khúc cho Piano và đại hồ cầm của Beetho trên một thème của Mozart nhưng lại phải xóa đi vì thiếu chỗ. Nếu em thích  lần sau anh mua cuốn băng 90 và sẽ thu cho em nghe những khúc đại hồ cầm của Beeth. Anh cũng có một cuốn băng ru mình ngủ. Pablo Casals độc tấu những điệu ru ngắn.
   Khúc thứ 3 - Sleepers awake -  cũng như khúc trám sau Sonate của Beetho - Jesus, Joy of Man's desiring - có tính cách tôn giáo. Tuy nhiên nghe thoáng, bổng, mát mẻ và trầm tĩnh nhường nào. Có phải không em? Nhưng tuyệt nhất là khúc Toccata and Fugue. Anh nghe hoài không chán những Fugue của Bach. Tuyệt đỉnh nghệ thuật của Bach và cách viết Fugue (nghĩa là có bao nhiêu giọng đều cùng trổi hết vẻ của mình, tưởng như ganh đua hỗn độn mà hòa hợp tài tình) là cái Bach mang đến cho âm nhạc. Nghe Fugue mới thấy tràn trề, yêu đời, nồng nàn, cởi mở nghĩa là đúng như em nghĩ " hạnh phúc túy lúy". Nhưng em nhớ, Bach mập lắm "túy lúy"  mà vẫn vững vàng oai vệ không hề "lảo đảo" "hụt hơi" "chân nam đá chân xiêu" thảm hại đâu. Em nghe kỹ xem.
   Trước khúc Toccata and Fugue, là Little Suite. Đúng là little. Nhỏ nhẹ, dễ thương, gọn gàng, giản dị hết sức. Nhưng đâu có kém đằm thắm. Bach thường viết ngay lập tức dễ dàng những exercices để dậy con. Chắc đây cũng là bài Bach viết buông bút, không chút cầu kỳ.
    Chỉ có thu đến Beeth là anh mệt. Đêm qua anh đã thức đến 2 giờ sáng chỉ vì loay hoay chọn bài. Thu xong xóa, rồi nằm nghe lại những bài định chọn, chừng mệt thiếp anh trùm mền ngủ luôn khỏi giăng mùng. Sáng nay ở Hội Quán về, thấm mệt, mắt mờ, nhưng cố thu cho xong. Khất hẹn hoài lại bị riễu là ba đía. Mới đầu anh chỉ tính thu toàn Bach cho em, nhưng cả hai mặt bande lại dư mỗi mặt vài phút.........

.......

   Rồi anh sẽ thu cho em Sonate à Kreutzer để em so sánh. Cũng vẫn chỉ hai cây đàn, nhưng viết về sau này với đầy đủ đặc tính của Beetho - kỹ thuật cũng như xúc cảm - Em có đọc cái truyện ngắn của Tolstoi lấy nhan đề bài Sonate này chưa? ( Anh thì chưa đọc vì anh vốn ghét Tolstoi)

   Tối qua thu nhạc, nghe no - kể từ bữa ốm dậy - trông cảnh cũng khác thường. Trời mưa lây rây, chớp lóe thật nhiều. Khoảng 10 giờ xuống Hội Quán uống cà phê với Cường trở về, cái áo khoác dầy em đã từng trùm, bám ướt. Ho lụ khụ, uống thuốc như ông lão. Nửa đêm mưa dứt, trăng xanh lè chiếu vào phòng. Thấm lạnh. Tưởng thế nào sáng dậy cũng có chầu khặc khừ. Vậy mà 6 giờ sáng đã nhỏm dậy, nghe trước Khúc Mùa Xuân rồi mới đi ăn sáng. Mệt, nhưng là cái mệt của người đã khỏe.

Đà Lạt, 30.10.1972
......
   Sáng nay trở dậy 05 giờ sáng. Vừa để nhạc thu vừa viết cho em đây. Bây giờ là 7 giờ, đã có nắng. Đã thu xong mặt gồm mấy cái Sonates cho cello và piano và đang mở nghe lại. Còn mặt kia sẽ thu Sonate à Kreutzer. Chắc ngày mai có thể đi gửi cho em cùng với thư này.
   Cùng với những ngày thu này, chắc là anh sẽ đầy rượu chát và nhạc. Nghe Beeth no nê. Trưa chủ nhật ở phố về, mua kim mới, anh cũng đã nằm nghe suốt buổi cho đến giờ hẹn với hai vợ chồng người bạn. Sonate à Kreutzer khỏi nói em nghe cũng sẽ thấy rõ cái chất của Beeth. Riêng mấy cái Sonates cho cello và piano, anh đã chọn cho em mấy bản thủ thỉ dễ chịu. Sonate Op. 69 vào cái thời Beeth còn chịu ảnh hưởng của Haydn, Mozart, chưa phá. Sonate Op.102 số 1 đã thấy cái mầm mống của những tác phẩm đặc Beeth sau này. Kế đó là 7 biến khúc trên một thème của Mozart là sự hòa hợp thú vị. Em biết Mozart là một tâm hồn nghệ sĩ thuần trời cho, bay bổng tự nhiên không hề có chút vướng mắc, nghe Mozart chẳng hề thấy bợn chút bụi trần. Chỉ vào khoảng cuối đời, ở mấy cái symphonies 39-40-41 của ông mới thấy tỏ lộ tính bi thảm của trần thế. Beeth là một tâm hồn đối cực, lãng mạn hùng vĩ, đó là con phượng hoàng bị tên ghim đầy mình vẫn bay vút được đến chín tầng trời tung tiếng kêu thảm thiết bồi hồi xuống nhân thế. Mozart chính thống trữ tình, Beeth chính thống lãng mạn. Beeth khép mình vào cung bậc của Mozart, đẩy sự tung tăng vô tư của người trước vào những lối nồng nàn hệ lụy. Rồi anh sẽ thu tiếp cho em nghe thêm 12 biến khúc khác cũng trên một thème khác và những biến khúc trên một thème của Haydn. Em hãy lắng nghe tiếng cello- trầm, nặng, đầy nam tính. Em hãy nghe lúc vào khuya, lúc hiu quạnh nhất. Em nghe và cam đoan em không phải thở đâu. Em sẽ thiếp đi trong bàng hoàng, trong heo hút. Em sẽ nghe như anh đã nghe trong những đêm lồng lộng của anh đây.
    Anh cũng gửi theo cho em bài Tạp ghi thứ 2. Bài thứ 1 anh không có. Từ ngày ấy anh cũng chẳng viết thêm bài nào nữa. Tửng tửng hoài anh cũng đã chán. Anh sẽ nghiêm trang hơn. Để viết quyển truyện tình của anh - không cứ bị em chê hoài, kỳ quá. Nghe em đọc bài của H.P.A xong chê anh bậy, bậy, anh lại thấy thích mới chết. Bởi chính anh đọc bài ấy cũng thấy ngộp.Thường anh chẳng hề chú trọng coi xem người ta nghĩ gì về mình, phê bình gì về mình, bởi mỗi lần ngó thấy anh đều thấy như mình bị đóng đinh. Anh đã là như thế nhưng anh còn có thể khác chứ. Sao cứ bắt anh như vậy hoài. Cho nên anh chẳng bao giờ xúc động lâu về những điều đàm tiếu, thị phi hết. Em đọc bài Tạp ghi chắc thấy rõ khởi từ đâu anh viết nó. Phải không?

    Thôi bắt đầu chóng mặt. Ngừng đây. Viết cho anh như anh đang viết cho em.

Mais désespérément 

Sài Gòn 4.11. 1973

Anh cũng vậy. Anh cũng tuyệt vọng.
..............
Mặc dù nghĩ nhiều phần em không đến, chiều nay anh vẫn chờ, đứng dáo dác ngoài cổng cho đến khi người ta kéo rào sắt cô lập khu vực và cổng Vườn Thú đóng. Vào đọc lại thư em. Rồi mở thư viết tiếp. Anh có ý định đưa thư này trao tay như em vẫn làm nhưng số nó nặng nợ với bưu điện. Chốc về ăn cơm anh sẽ bỏ hộp thư vậy. Em tránh gặp anh để khỏi làm phiền, tránh viết cho anh này nọ để anh khỏi đau đầu, giống hệt như anh vậy, anh cũng lẩn tránh thế. Thật tâm có lúc anh mong em quên được anh cho em nhẹ mình, em cũng nghĩ thế phải không? Nhưng thôi không nói những chuyện tầm phào ấy, em lo chữa bệnh xong đã. Ưu tiên một đấy. Còn anh cứ đành làm thơ và viết nhăng. Sáng nay ngồi trực anh làm nhiều việc lắm. Trước tiên là làm phần mở đầu của một bài thơ có tựa "lập dị" Mais désespérément. Mais désespérément, anh mê mấy cái âm vớ vẩn đó và sẽ làm một bài thơ xuân theo commande của Mai Thảo cho Văn. Em thừa nghe thấy bài thơ thế nào, nó sẽ quay quanh cái thème "khi em trở lại", đại khái như:
Khi em trở lại, anh mơ hồ giữa rừng tuyệt vọng thao thức
Những lao xao trăn trở gọi mùa
Khi em trở lại anh mở bừng mắt giữa chiêm bao bối rối
Vô vàn cô đơn ấp úng
[…] 

Hôn em. 12g15' 
Tâm

(từ Blog của Phan Nguyên)

"Thuyền Viễn Xứ" trong tâm thức hoài hương 

Đào Trường Phúc


Một thi sĩ lừng danh của nước Mỹ ở thế kỷ 19 là Henry W. Longfellow đã để lại trên 10 tập thơ, trong đó có những câu thơ bất hủ mà cho tới nay vẫn còn được nhiều người trích dẫn mỗi khi nói đến tâm thức hoài hương. Đại ý đoạn thơ viết rằng hoài hương "là một nỗi buồn nhớ mênh mang mà không phải là sự đau đớn", và nếu ta nghĩ tâm trạng hoài hương cũng giống như niềm sầu khổ thì chẳng khác nào ta thấy "một màn sương muối giống như một màn mưa giăng".
Có lẽ đúng thế thật. Với thời gian càng lúc càng chồng chất trên mái tóc và quê hương càng lúc càng khuất sâu trong trí nhớ, tôi dần dần nghiệm ra rằng, khác với tình yêu lứa đôi mà khi tan vỡ có thể biến thành niềm oán hận hoặc để lại một vết thương khó lành, tình hoài hương là tình cảm duy nhất sống mãi trong tâm hồn mà chẳng gây ra nỗi đau lòng, ngược lại đôi khi còn vỗ về an ủi tâm hồn ta như bàn tay mẹ hiền những ngày thơ ấu, hoặc đưa tâm hồn bay vút lên cao như cánh gió ban mai, để từ đó ta cảm thấy nỗi nhớ thương tràn ngập trong tim dường như đang hỏa lẫn với một niềm hạnh phúc mơ hồ...
Những ý nghĩ vụn vặt ấy thường hay đến với tôi cùng với giai điệu và lời hát của một ca khúc viết về tình hoài hương. Đất nước nào, dân tộc nào cũng có những ca khúc viết về tình hoài hương, nhưng tôi tự cho phép mình lý luận một cách rất chủ quan rằng chỉ có đất nước Việt Nam mới mang lại cho dân tộc Việt Nam một khối lượng lớn những ca khúc viết về tình hoài hương tuyệt vời đến như thế, mỗi ca khúc đã trở thành một viên ngọc trong kho tàng âm nhạc. Dĩ nhiên đây là một điều đáng tự hào. Nhưng hình như đây cũng là một định mệnh hàm chứa nỗi bất hạnh.

Tình hoài hương được định nghĩa một cách đơn giản là nỗi nhớ quê hương. Nhưng trong văn chương, nghệ thuật, âm nhạc của nhân loại nói chung, quê hương luôn luôn là một ý niệm rất tương đối. Người ta không thể mang những quy ước hay tiêu chuẩn về địa dư, lãnh thổ, biên giới, hoặc về sinh quán, nguyên quán, gia tộc... để xác định nguồn cảm hứng đã tạo thành những tác phẩm gói ghém lòng tư hương của người nghệ sĩ. Điều này thể hiện rõ rệt qua các ca khúc hoài hương trong giòng nhạc Việt.
Hãy thử nhớ lại giai điệu và lời ca của một số bài hát đã đi vào lòng chúng ta như "Nhớ Quê Hương" (Phạm Ngữ), "Làng Tôi" (Chung Quân), "Tình Quê Hương" (Việt Lang), "Chiều Quê" (Hoàng Quý), "Ôi Quê Xưa" (Dương Thiệu Tước), "Quê Hương" (Hoàng Giác), "Tiếng Sáo Chiều Quê" (Hoàng Giác), "Ngày Về" (Hoàng Giác), "Quê Mẹ" (Thu Hồ), "Xa Quê" (Lê Quang Nhạc), "Tình Hoài Hương" (Phạm Duy), "Thuyền Viễn Xứ" (Phạm Duy), "Người Em Nhỏ" (Nguyễn Hiền), "Buồn Nhớ Quê Hương" (Hoàng Trọng), "Lạnh Lùng" (Hoàng Trọng), "Hướng Về Hà Nội" (Hoàng Dương) v.v... Những ca khúc này đều được sáng tác trong khoảng từ giữa thập niên 40 đến giữa thập niên 50, hay nói cách khác, đều ra đời trước khi đất nước bị cắt đôi vì hiệp định Genève 1954. Vào thời điểm ấy, tuy cuộc ly hương thật sự của hơn 1 triệu người chưa xảy ra nhưng chiến tranh đã lan rộng khắp nơi, đã dìm ngập nhiều vùng đất trong khói lửa đạn bom và đã đẩy hàng triệu người ra khỏi làng mạc quê quán. Vì thế, "quê hương" làm rung động những tâm hồn nghệ sĩ trong giai đoạn ấy, là "miền quê binh khói" (Hoàng Giác), là "quê tôi chìm chân trời mờ sương" (Chung Quân), là "cảnh làng xưa vết hoang tàn đìu hiu gió sương" (Dương Thiệu Tước). Hình ảnh và âm hưởng "quê hương" làm ray rứt lòng người trong giai đoạn ấy có thể là một vùng quê với "ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ, tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa" (Việt Lang), hoặc có thể là Hà Nội với "nước hồ là ánh gương soi, nắng hè tô thắm lên môi, thanh bình tiếng guốc reo vui" (Hoàng Dương), mà cũng có thể chỉ là những kỷ niệm thật đơn sơ như "bên than hồng êm ấm, ta xum vầy sung sướng" (Hoàng Trọng), hay "lúc trăng đang dần nhô cao đầu trên khóm tre già, chúng ta quây quần vui nô đùa bên mấy khóm hoa" (Phạm Ngữ)... Biết bao nhiêu ca khúc bất hủ đã ra đời trong khói lửa chiến tranh để gửi gắm tình hoài hương của những nhạc sĩ phải lìa xa vùng trời kỷ niệm, ôm trong lòng nỗi nhớ mênh mang hướng về làng quê xưa hay thành phố cũ, và mơ một ngày "tàn cơn chinh chiến, lửa khói đắm chìm" (Hoàng Dương), để có thể "đón gió thanh bình trong nắng hanh vàng" (Hoàng Trọng), để được "tung cánh chim tìm về tổ ấm" và "say sưa cuộc sống bên ngàn lũy tre, xa lánh cuộc đời khắt khe trăm đau nghìn thương" (Hoàng Giác)...
Thế nhưng, như một định mệnh hàm chứa nỗi bất hạnh, cuộc chiến tranh 1945-1954 trên đất nước Việt Nam đã chỉ kết thúc bằng một cuộc phân ly, để rồi lại mở đường cho cuộc chiến tranh kế tiếp - một cuộc nội chiến tương tàn sẽ kéo dài hai thập niên và cũng sẽ chỉ kết thúc bằng một cuộc phân ly khác.
Hiểu theo một ý nghĩa hơi có phần cay đắng thì cuộc phân ly lần thứ nhất năm 1954 đã định nghĩa lại ý niệm "quê hương" trong tình hoài hương của những người nghệ sĩ, vì chiến tranh tuy đã kết thúc mà họ vẫn không có một quê hương thanh bình để trở về, chẳng những vậy mà họ còn phải lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để ra đi. "Quê hương" của chuyến ra đi năm ấy không phải là "miền quê binh khói" nữa, mà là quê hương đã bị cắt lìa bởi một giòng sông, một vĩ tuyến, một ý thức hệ. Tình hoài hương trong các ca khúc được viết vào thời điểm ấy tuy vẫn mang chất u hoài lãng mạn nhưng đã pha thêm niềm đau đớn, nỗi uất hận, và lòng xót thương gửi về một quê hương đang chìm vào bóng tối. Bao nhiêu tình cảm đó hòa lẫn với nhau để tạo thành những nhạc phẩm tuyệt vời như "Xa Quê Hương" (Đan Thọ & Xuân Tiên), "Thương Về Năm Cửa Ô Xưa" (Y Vân & Tạ Tỵ), "Hận Ly Hương" (Anh Hoa & Ngọc Long), "Giấc Mơ Hồi Hương", "Nhặt Cánh Sao Rơi", "Gửi Áng Mây Hàng" (Vũ Thành), "Bóng Quê Xưa", "Vọng Cố Đô", "Thu Ly Hương" (Nhật Bằng & Đan Thọ), "Nhạt Nắng" (Xuân Lôi & Y Vân), "Tình Cố Đô", "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" (Lam Phương), "Sầu Ly Hương" (Lam Phương & Lê Mộng Bảo), "Hoa Bướm Ngày Xưa", "Gửi Một Cánh Chim" (Nguyễn Hiền), "Lá Thư Gửi Mẹ" (Nguyễn Hiền & Thái Thủy), "Bắc Một Nhịp Cầu", "Bên Bờ Đại Dương" (Hoàng Trọng & Hồ Đình Phương), "Chiều Mưa Nhớ Bắc", "Em Còn Nhớ Không Em" (Hoàng Trọng & Thanh Nam), "Hướng Về Đất Bắc" (Phó Quốc Thăng), "Xuân Ly Hương" (Phó Quốc Lân), "Nỗi Lòng Người Đi" (Anh Bằng), "Xuân Tha Hương" (Phạm Đình Chương), "Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội" (Phạm Đình Chương & Hoàng Anh Tuấn) v.v...

Sẽ chẳng bao giờ chúng ta có được một danh mục đầy đủ các ca khúc thể hiện tình hoài hương trong âm nhạc Việt Nam, bởi vì chất hoài hương không phải chỉ tẩm đẫm giai điệu của những ca khúc giãi bày niềm thương nhớ một quê hương xa cách, mà chất hoài hương còn len lỏi vào cả những nhạc phẩm viết về tình yêu đôi lứa -- những bản tình ca bất hủ như "Bến Xuân" (Văn Cao), "Tiếng Chuông Chiều Thu" (Tô Vũ), "Người Em Nhỏ" (Nguyễn Hiền & Thiệu Giang), "Tình Nghệ Sĩ" (Đoàn Chuẩn & Từ Linh), "Trên Đường Về" (Nguyễn Thiện Tơ)... Có phải đó là định mệnh chung cho mọi tâm hồn nghệ sĩ trên trần gian (mỗi nghệ sĩ đều có lúc cảm thấy mình giống như một đứa trẻ lạc loài), hay đó là một sắc thái riêng của âm nhạc Việt Nam, giòng âm nhạc mà ngay từ lúc phôi thai đã bị cột chặt với những thăng trầm của đất nước và đắm chìm theo từng mùa ly loạn, từng cuộc phân ly?
Nhưng dù giải thích thế nào đi nữa, rõ ràng là tâm thức hoài hương đã mang đến cho kho tàng văn chương nghệ thuật của chúng ta quá nhiều viên ngọc quý, và từ thế hệ này tiếp nối qua thế hệ khác, cho dù phiêu dạt ở phương trời xa xôi nào, nếu chúng ta vẫn cảm nhận được nỗi nhớ mênh mang hòa lẫn với niềm hạnh phúc mơ hồ mỗi khi gặp lại quê hương qua những vần thơ Nguyễn Bính "Tết này chưa chắc em về được, Em gửi về đây một tấm lòng...", thì chắc chắn tâm hồn chúng ta cũng rung động y như vậy khi nghe những lời thơ Tạ Tỵ được Y Vân phổ nhạc để trở thành tiếng thở dài chua chát "...Có tiếc chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy xuôi ý đẹp? Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người? Ôi Hà Nội ơi! Tê tái tiếng cười, từng cánh hoa đời khép lại, thương về năm cửa ô xưa", hay những vần thơ Huyền Chi được Phạm Duy đưa vào nhạc và trở thành một trong những ca khúc hoài hương tuyệt vời của giòng nhạc Việt.
 Tôi viết "Thuyền Viễn Xứ Trong Tâm Thức Hoài Hương" vào những ngày đầu năm Nhâm Thìn, mùa Xuân tha hương thứ hai mươi tám kể từ khi lìa xa đất nước và chưa một lần trở lại. Cũng như rất nhiều người khác, đối với tôi cuộc phân ly ấy là cuộc phân ly lần thứ hai, sau chuyến đi lần thứ nhất theo cha mẹ và các anh chị trong làn sóng di cư của một triệu người rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để vào Nam tìm tự do. Những năm sau đó, lớn lên ở miền Nam, tôi bắt đầu biết nghe và yêu thích các ca khúc của một thời mà người ta quen gọi là "nhạc tiền chiến" nhưng thật sự bao gồm tất cả các ca khúc được viết trong giai đoạn từ 1938 đến 1954. Tôi bắt đầu hiểu tại sao anh tôi sưu tập và trân quý những nhạc phẩm do Tinh Hoa, Á Châu, An Phú... ấn hành trước và sau ngày di cư, những bản nhạc in rời bằng giấy cứng khổ lớn, mỗi mẫu bìa là một họa phẩm tuyệt đẹp. Tôi nhớ mãi bản nhạc "Thuyền Viễn Xứ" được cả hai nhà xuất bản Tinh Hoa và Á Châu ấn hành nên có hai mẫu bìa khác nhau, một là bức tranh màu nước với bà mẹ già đứng bên hàng liễu rủ nhìn theo bóng con thuyền ra khơi, và một là bức tranh lập thể của Tạ Tỵ với hình ảnh cánh buồm và cây đàn guitar như con thuyền trôi bập bềnh theo sóng nước...
Nhưng nếu không có cuộc phân ly lần thứ hai, có thể tôi vẫn chỉ biết yêu thích mà chưa cảm nhận được trọn vẹn chất hoài hương trong những ca khúc đã đi vào lòng người ngay từ cuộc phân ly lần thứ nhất. Hà Nội của tôi là Hà Nội bàng bạc qua những hình ảnh và âm thanh chỉ vừa đủ sắc nét để in vào trang giấy trắng của ký ức tuổi thơ, trong khi với cha mẹ và các anh chị tôi thì Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Cao Bằng... đều là những thành phố tràn đầy kỷ niệm đến độ khi phải lìa xa cũng chẳng khác gì cắt đứt một mảnh đời, rứt bỏ một phần da thịt. Cảm giác đau xót ấy, nhiều năm sau sẽ đến lượt tôi trải qua, khi lênh đênh giữa biển khơi, nhìn về cuối chân trời thăm thẳm mà không còn đoán được mảnh đất quê hương ở về hướng nào...

Thế rồi sau đó lại thêm nhiều năm nữa qua đi... Một buổi tối mùa Đông rất lạnh trên xứ người, tôi nhận được qua email tấm thiệp Xuân của anh tôi gửi từ quê nhà, kèm theo bản scan một bài thơ in trên trang báo cũ. Bấm "play" để mở thiệp, tôi nghe giai điệu quen thuộc của một bản nhạc không lời được đưa vào mp3. Bài thơ "Thuyền Viễn Xứ" của Huyền Chi và bản nhạc của Phạm Duy. Chắc hẳn anh tôi vừa tìm được một tờ tạp chí cũ kỹ nào đó đăng bài thơ ấy nên đã gửi tấm thiệp Xuân như một món quả cho đứa em tha hương. Là vì trong những email trước đó không lâu anh em chúng tôi đã nhắc với nhau bài thơ lục bát của Huyền Chi và tôi đã kể cho anh tôi nghe về cuộc nói chuyện qua điện thoại rất bất ngờ với tác giả bài thơ.
Người giới thiệu để có được cuộc điện đàm là chị Hồ Thị Ái Liên, chủ nhân và hiệu trưởng một trường dạy thẩm mỹ ở Virginia và là em thúc bá của nhà thơ Hồ Đình Phương (tác giả "Tình Thế Hệ", "Sưởi Nắng".... với một số bài thơ phổ nhạc đã trở thành những ca khúc bất hủ của Hoàng Trọng, Châu Kỳ...). Tình cờ trong một lần nói chuyện, chị Ái Liên cho biết hồi 1955-57, chị là học trò lớp đệ Ngũ và đệ Tứ của phu quân nhà thơ Huyền Chi: giáo sư Trần Phụng Tường, dạy Pháp văn tại trường trung học Phan Bội Châu, Phan Thiết. Chị Ái Liên cũng cho biết nữ sĩ Huyền Chi hiện vẫn đang ở Sài Gòn và mở lớp dạy kèm sinh ngữ luyện thi đại học tại tư gia.
Qua điện thoại, tác giả "Thuyền Viễn Xứ" nói đến tập thơ đầu tay của bà mang tựa đề "Cởi Mở", với 22 bài thơ ký bút hiệu Huyền Chi, do nhà in Sống Chung ấn hành. Bà kể lại: Sinh năm 1934 tại Từ Sơn, Bắc Ninh, bà theo gia đình rời nguyên quán vào Nam khi còn là một nữ sinh trung học, thoạt đầu ở Đà Lạt với chị, sau đó về Sài Gòn ở với mẹ, vừa đi học vừa giúp mẹ trông nom sạp bán vải ở chợ Bến Thành. Lập gia đình năm 1954, bà theo chồng ra Phan Thiết, mở hiệu sách, dạy Anh ngữ, rồi làm việc cho cơ quan MAC-V, và sau biến cố 1975 bà cùng gia đình dời về lại Sài Gòn. Phu quân của bà, giáo sư Trần Phụng Tường đã tạ thế năm 2010. Trong 7 người con của ông bà, 4 người hiện ở Việt Nam, 3 người ở Hoa Kỳ.
Bà tỏ vẻ xúc động khi nghe tôi đọc mấy câu đầu của bài thơ mà tôi đã nhớ thuộc lòng không biết từ bao giờ. Bà kể lại, cùng với những bài thơ khác trong tập "Cởi Mở", bài "Thuyền Viễn Xứ" được sáng tác vào năm 1952, thời gian bà sinh hoạt với một nhóm văn nghệ sĩ trẻ và làm thư ký tòa soạn chuyên trách mục thơ cho tạp chí Phụ Nữ ở Sài Gòn. Tình cờ gặp gỡ tại nhà in Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo, cô nữ sinh 18 tuổi ký tặng một ấn bản của tập thơ đầu tay còn thơm màu mực mới cho một nhạc sĩ thành danh, lúc đó đang ở Sài Gòn để sắp xếp công việc cho gia đình vừa từ Bắc vô Nam. Đó là lần duy nhất tác giả bài thơ gặp tác giả bản nhạc. Đó cũng là thời điểm đánh dấu một khúc quanh khắc nghiệt của lịch sử: chiến tranh sắp kết thúc nhưng hòa bình đã chỉ đến qua một hiệp định quốc tế cắt đôi đất nước, đưa tới cuộc di cư của một triệu người dân miền Bắc và mở đầu cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo dài 20 năm...

Rồi thời gian tiếp tục trôi đi... Đất nước lại trải qua thêm một cuộc bể dâu... Những ấn bản của tập thơ "Cởi Mở" đã bị thất lạc từ năm 1975 lúc tác giả cùng gia đình di chuyển về Sài Gòn, và đến bây giờ thì chính nữ sĩ Huyền Chi cũng không còn nhớ trọn vẹn từng bài thơ trong đó nữa. Về lần gặp gỡ ngắn ngủi nhạc sĩ Phạm Duy đúng 60 năm về trước, bà cho biết gần đây bà cũng đã kể lại với một nhà báo ở Việt Nam là cựu nữ sinh trường Phan Bội Châu, để viết trong bài "Huyền Chi tác giả bài thơ Thuyền Viễn Xứ là ai?" (Nguyễn Phước Thị Liên, tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 768 tháng 12-2011).
Đây là 24 câu lục bát của bài thơ "Thuyền Viễn Xứ":

"Ra khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông
     Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
     Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường... lại đi...".

Và như chúng ta đã biết, từ bài thơ trên, nhạc phẩm "Thuyền Viễn Xứ" đã ra đời, với giai điệu buồn mênh mang như từng đợt sóng đưa con thuyền xa bến, với những lời hát chẳng những gửi gắm niềm nhớ nhung của một triệu người rời quê cha đất tổ năm 1954, mà hơn hai thập niên sau đó sẽ lại một lần nữa gửi gắm nỗi lòng của hàng triệu người phải bỏ lại tất cả những gì yêu thương nhất trên mảnh đất quê hương để vượt biển tìm tự do và phiêu bạt nơi đất lạ quê người:
"Chiều nay sương khói lên khơi - Thùy dương rũ bến tơi bời - Làn mây hồng pha ráng trời - Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người - Thuyền ơi! viễn xứ xa xưa - Một lần qua dạt bến lau thưa - Hò ơi! giọng hát thiên thu - Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về - Nhìn về đường cố lý - Cố lý xa xôi - Đời nhịp sầu lỡ bước - Bước hoang mang rồi - Quay lại hướng làng - Đà Giang lệ ướt nồng - Mẹ già ngồi im bóng - Mái tuyết sương mong con bạc lòng - Chiều nay gửi tới quê xưa - Biết là bao thương nhớ cho vừa - Trời cao chìm rơi xuống đời - Biết là bao sầu trên xứ người - Mịt mờ sương khói lên hương - Lũ thùy dương rủ bóng ven sông - Chiều nay trên bến muôn phương - Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường..."

Trong "Hồi Ký Phạm Duy" (Tập 3, ấn bản 2008), sau khi mở đầu Chương 3 "Gần hai năm đã trôi qua kể từ khi tôi bỏ vùng quê vào Hà Nội, rời miền Bắc vào miền Nam, lo ổn định nơi ăn chốn ở và thu xếp công kia việc nọ ở Sài Gòn", nhạc sĩ Phạm Duy kể về chuyện bắt đầu sáng tác trở lại vào giai đoạn cuối năm 1952 với các ca khúc Tình Hoài Hương, Tình Ca, Bà Mẹ Quê...: "...Vào thời điểm này [trước cuộc di cư 1954] không phải chỉ có tôi viết về đất nước mến yêu hay soạn những bài hát nhớ quê hương khi đang sống trên quê hương (...) Phải sống bon chen với thực tại, thỉnh thoảng tôi muốn sống với viễn mơ. Huyền Chi, một cô em bán vải ở Chợ Bến Thành đưa cho tôi phổ nhạc bài thơ nhan đề Thuyền Viễn Xứ. Bài thơ này nói lên tâm trạng một người Bắc Việt phải rời bỏ bến Đà Giang để vào sinh sống tại miền Nam. Phổ nhạc xong bài thơ nhớ miền viễn xứ, trong tôi lại nổi dậy sự viễn mơ của bài Bên Cầu Biên Giới năm xưa, tôi bèn soạn bài Viễn Du..."

Từ thời điểm bài thơ rồi bản nhạc ra đời, cho đến suốt hơn 20 năm sau đó, âm hưởng của "Thuyền Viễn Xứ" đã trở thành tiếng lòng của những người "xa quê hương", trong số đó chắc chắn có rất nhiều người không thể ngờ rằng họ sẽ còn "xa quê hương" thêm một lần nữa trong đời, và niềm thương nhớ ngày nào hướng về "cố lý xa xôi" sẽ được nhân lên nhiều cấp số để trở thành nỗi hoài niệm không nguôi của những tâm hồn lưu lạc "gửi về phương ấy mịt mờ quê hương".
 Nhắc đến điều này để thấy "quê hương" chỉ là một ý niệm tương đối, nhưng phải chăng cũng chính vì thế mà sau bao nhiêu thử thách của thời gian, sau bao nhiêu thăng trầm của đời sống, tình hoài hương mãi mãi vẫn là một tình cảm làm đẹp và thăng hoa tâm hồn nhiều hơn là vò xé và dằn vặt tâm hồn? Trước khi quê hương cách trở cả một trùng dương, đã có một thời mà không gian ngăn chia người với quê hương chỉ là một giòng sông Đuống như miền Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm, chỉ là một đường tàu Nam Bắc như xứ Hà Đông trong thơ Nguyễn Bính, chỉ là một vùng lửa đạn như thành phố Hà Nội trong nhạc Hoàng Dương... Rồi lại có một thời mà nửa mảnh đất quê hương bị cắt lìa vì một vĩ tuyến đánh dấu hai ý thức hệ đối kháng khiến người ra đi chỉ có thể "đứng bên này vĩ tuyến thương về năm cửa ô xưa" như trong thơ Tạ Tỵ nhạc Y Vân... Nhưng dù cho không gian có khác, hoàn cảnh có khác, tình hoài hương vẫn là nguồn cảm hứng để từ đó đã thoát thai biết bao nhiêu tác phẩm giá trị của kho tàng văn chương âm nhạc Việt Nam. Có lẽ bởi vì, nói cho cùng, quê hương là nơi cất giữ những kỷ niệm đẹp nhất, và nếu hình ảnh quê hương sống mãi trong lòng người thì cũng chẳng qua bởi vì đó là một tuyển tập hình ảnh của chính mình, những hình ảnh nguyên vẹn mà mỗi người khi ra đi đã mang theo và nâng niu cất giữ trong cõi riêng của tâm hồn, để có thể mở ra vào những giờ phút tĩnh lặng và tận hưởng một hạnh phúc rất riêng tư, tách biệt với mọi xô bồ, đắng cay, mệt mỏi của cuộc sống hiện tại.
Hơn nửa thế kỷ sau khi viết "Hướng Về Hà Nội", trả lời câu hỏi về hoàn cảnh sáng tác ca khúc đã tạo nên tên tuổi của ông, nhạc sĩ Hoàng Dương nhắc lại không khí của những năm 1953-1954 và cho biết: "...Tình yêu Hà Nội trong tôi là nỗi nhớ nhung về những tháng ngày đã lùi dần vào dĩ vãng... là một Hà Nội nhỏ nhắn và dịu dàng nơi tôi đã chôn chặt mối tình thời trai trẻ...". Sự mong manh của đời sống giữa khói lửa chiến tranh khiến cho người nhạc sĩ dù lúc ấy còn đang ở ngoại thành Hà Nội mà đã nhớ về Hà Nội như một "thành phố xa xưa", một thành phố của "những tháng ngày đã lùi dần vào dĩ vãng". Thế rồi chỉ một năm sau đó, Hoàng Dương lại trở về và sống ở Hà Nội, trong khi một làn sóng người rời bỏ Hà Nội để di cư vào Nam, và với họ, Hà Nội kể từ đó đã thật sự chỉ còn là quê hương trong trí nhớ, một quê hương để làm cay mắt mỗi khi nghe lời hát "dáng huyền tha thướt đê mê, tóc thề thả gió lê thê, biết đâu ngày ấy anh về..."
Một buổi tối mùa Đông nơi xứ người, tôi nhận được tấm thiệp Xuân của anh tôi gửi từ quê nhà, kèm theo bài thơ "Thuyền Viễn Xứ" của Huyền Chi in trên một trang báo cũ. Cũng khoảng thời gian ấy, qua điện thoại, chị tôi kể cho tôi nghe là trong một chuyến đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, chị tôi đã có dịp thăm lại khu phố cũ nơi có căn nhà mà mấy chị em chúng tôi ở cùng cha mẹ trước ngày rời đất Bắc. Nửa thế kỷ đã trôi qua với hai cuộc bể dâu. Hà Nội vẫn còn đó, cũng như Sài Gòn vẫn còn đó, nhưng cha mẹ chúng tôi không còn nữa, thời thanh xuân của các chị tôi với tà áo dài và mái tóc thề thả gió trên hè phố Hà Nội cũng không còn nữa, và đứa em trai út là tôi thì chưa một lần trở về. Nghe chị tôi kể chuyện căn nhà của tuổi thơ, tôi nghĩ đến hình ảnh cha mẹ, và trong giòng kỷ niệm dạt dào, tôi nhớ ra rằng cha mẹ tôi cũng đã không một lần trở về đất Bắc. Những năm lớn lên ở miền Nam, thình thoảng tôi vẫn nghe cha tôi hát nho nhỏ những lời hát rời rạc từ một ca khúc trước 1954, "Làng Tôi" của Chung Quân. Càng về sau tôi càng cảm thông được tâm trạng của cha mẹ qua lời hát mang theo hình ảnh một quê hương trong trí nhớ, một quê hương với những nơi chốn thân yêu mà đến một thời điểm nào đó cha mẹ tôi đã có thể trở về thăm, nhưng cha mẹ tôi không trở về. Những "cây đa cao ngất từng xanh", những "mái tranh san sát kề nhau" hay "bóng tre ru bên mấy hàng cau" có thể vẫn còn đó, nhưng không còn thôi thúc lòng người trở lại, bởi vì quê hương đã đổi thay và những tháng ngày đẹp nhất không còn nữa.

Bao nhiêu năm rồi, mỗi lần mùa xuân sắp đến ở quê nhà thì nơi tôi đang ở vẫn là mùa đông lạnh buốt và thường là tuyết phủ ngập trời. Nhưng mỗi khi nghe vang vọng "câu hát ngàn xưa, ngân lên trong một chiều mưa xứ người", mỗi khi nghĩ đến "đường về cố lý xa xôi, nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang", tôi không còn cảm thấy tâm hồn chùng xuống theo hơi gió lạnh nữa, có lẽ vì bài thơ gửi từ quê hương hay lời kể chuyện về căn nhà xưa đã mang theo tất cả tình thương yêu của các anh chị tôi để sưởi ấm cõi lòng đứa em xa xứ. Quê hương chẳng những là tuyển tập những hình ảnh đẹp nhất của một quãng đời đã sống, quê hương còn là những tình thương yêu đằm thắm không phai nhạt theo thời gian và không bị ngăn cách vì không gian. Tình hoài hương là niềm nhớ nhung khó nguôi ngoai nhưng không gây ra nỗi đau đớn mà chỉ làm đẹp thêm cho tâm hồn. Nếu lồng vào bối cảnh thời cuộc thì làm sao có thể để cho những kẻ thiếu lương tâm khai thác một tình cảm đẹp như thế thành lớp son phấn ngụy trang một mục tiêu tuyên truyền xảo trá, làm sao có thể chấp nhận để cho những kẻ đó đồng hóa ý niệm cao quý của quê hương với một chủ nghĩa hấp hối rồi nhân danh chủ nghĩa ấy để hủy hoại và dâng bán mảnh đất quê hương mà tôi yêu thương với tất cả tâm hồn.
Tôi nhớ đến lời thơ Nguyễn Bính "Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió, Xuân này em chị vẫn tha hương, Vẫn ăn cái tết ngoài thiên hạ, Son sắt say hoài rượu viễn phương". Có một mùa xuân nào đó, Nguyễn Bính đã trở về để rồi chết trên một quê hương mà tôi tin chắc là ông đã không tìm thấy lại. Nếu cuộc trở về buồn bã như thế thì tình hoài hương của những người mượn lời thơ Huyền Chi "Biết bao thương nhớ cho vừa, gửi về phương ấy mịt mờ quê hương" phải chăng lại là một niềm hạnh phúc?

Đào Trường Phúc
(2-2012)

(từ Tưỏng Năng Tiến)