Nguyên
Giác
Hình ảnh năm mèo ra đi,
năm rồng đang bước tới.
(Tranh: pth)
Những
dòng chữ đầu tiên trong bài này được viết trong ngày đầu năm 2024, với lời chúc
lành tới tất cả độc giả, để cầu nguyện cho một thế giới của yêu thương và hòa
bình.
Trước
tiên, mặc dù bản thân tác giả chữ nghĩa vụng về, nhưng cũng học theo truyền thống
người xưa để làm vài câu đối trong ngày đầu năm dương lịch, và cũng là cận kề với
ngày Tết Nguyên Đán. Tác giả không giữ bản quyền, do vậy bất kỳ ai cũng có thể
sử dụng các câu đối nếu thấy khả dụng. Xin mời quý vị trong các phố ông đồ ở VN
tự do sử dụng, và không cần ghi tên tác giả. Các câu đối này, khi cắt bớt cho
ngắn hơn, vẫn có thể đủ nghĩa cho nhiều trường hợp.
Câu
đối 1:
Ly
là biệt, mèo đi, êm sóng gió, đâu cõi não phiền
Hỷ
là vui, rồng tới, ngợp mưa hoa, khắp trời bi trí.
Câu
đối 2:
Chia
tay, tiễn mèo đi, nguyện pháp giới bớt tham sân si
Mở
cửa, đưa rồng tới, hứa thân tâm tăng giới định huệ.
Câu
đối 3:
Mèo
đi lặng lẽ, cái được thấy, như người kiếp trước, có tức là không
Rồng
tới lao xao, cái được nghe, như mộng đêm qua, không tức là có.
Câu
đối 4:
Ngồi
nghe thở, nghe hơi vào hơi ra, nghe vô thường luồn trong xương tủy
Ngó
thấy tâm, thấy niệm khởi niệm diệt, thấy vô ngã lạnh khắp thịt da.
Có
một câu hỏi, thường gặp nơi các bậc ba mẹ ở hải ngoại, rằng không biết nên dạy
con tu học theo Phật giáo như thế nào. Đối với giới trẻ đã có tín tâm nơi Tam Bảo,
chuyện này thì dễ hơn, vì tài liệu tiếng Anh có rất nhiều, đủ các khuynh hướng,
bộ phái. Nhưng với các em chỉ “lưng chừng” đức tin, chuyện này sẽ thành vấn đề,
vì ba mẹ không có thì giờ để nói chuyện với các con. Một khi các em vào đại học,
có thể chỉ vài ngày trong năm mới có thể về thăm ba mẹ. Còn khi các em ở bậc
trung học trở xuống, ba mẹ lại bận làm việc nhiều giờ trong ngày. Và cũng có
khi, ba mẹ lại mơ hồ về Phật pháp. Do vậy, nơi đây, xin đề nghị các bậc ba mẹ
nên dạy các em một phương pháp, có thể thích họp cho mọi truyền thống và tiện dụng
trong mọi trường hợp. Dĩ nhiên, trước tiên, nên tìm sách căn bản về Phật học
cho các em đọc để tin sâu nhân quả, để ưa thích thiện pháp và để xa lánh bất
thiện pháp.
Phương
pháp thiền này rất đơn giản, không cần ngồi, tiện dụng cho mọi tư thế đi đứng nằm
ngồi. Nhưng sẽ tới một lúc người tập sẽ ưa thích ngồi, có thể ngồi trên ghế,
không nhất thiết phải ngồi theo tư thế kiết già hay bán già, vào mỗi buổi sáng
sớm là tiện nhất. Khi quen rồi, sẽ tập được trọn ngày trong mọi trường hợp.
Rất
đơn giản, đó là: Hãy tu như đang xem ảo thuật.
Bởi
vì tất cả các trẻ em (và cả rất nhiều người lớn) đều ưa thích xem ảo thuật. Và
có lẽ, làm chúng ta chú tâm nhất trên đời này vẫn là khi xem ảo thuật. Chúng ta
sẽ thấy rằng, khi xem ảo thuật, chúng ta không cần tư thế ngồi cụ thể nào. Trên
các đường phố, chúng ta vẫn thường đứng xem ảo thuật. Hay là khi xem ảo thuật
trên truyền hình, chúng ta vẫn ngồi (và thậm chí, có khi nằm). Khi “tu như đang
xem ảo thuật” trong mọi trường hợp đi đứng nằm ngồi như thế, chúng ta sẽ hiểu lời
kinh nói rằng Đức Phật luôn luôn ở trong định, sáng trưa chiều tối ở trong định,
và đi đứng nằm ngồi ở trong định (Na-già thường tại định). Bạn hãy an tâm, khi
tu như xem ảo thuật, nếu chưa phải là định, thì hẳn phải là cận định.
Thái
độ khi xem ảo thuật là chúng ta tự động trở thành như trẻ thơ, vì không thể
đoán nhà ảo thuật sắp hô biến những gì, hay sắp làm hiện ra những gì. Trong khi
xem ảo thuật, chúng ta tự động tước bỏ hết những thành kiến xã hội thường có.
Vì chúng ta luôn luôn kinh ngạc, bất kể ảo thuật gia là nam hay nữ, là người
Pháp hay Mỹ, là người đang đeo thánh giá Cơ đốc trước ngực hay đang mang khăn Hồi
giáo trên đầu, cũng không phân biệt phe ta người Việt hay phe của người nước
khác, cũng không coi thường ảo thuật gia 90 tuổi hay thần đồng ảo thuật mới 10
tuổi. Nghĩa là, tất cả những gì trong thế gian đầy phân biệt nay đều biến mất
trong tâm của người thực tập pháp tu như xem ảo thuật. Nghĩa là, người tu trong
tâm thức này, theo kinh nói, tương tự như hình ảnh con tê giác đơn độc vào rừng,
xa lìa tất cả các ràng buộc và thành kiến thế gian.
Thái
độ khi xem ảo thuật cũng là sự chú tâm hiếm gặp trong ngày. Bởi vì, một niềm
vui trong khi xem ảo thuật là thấy được những gì người khác không kịp thấy, và
nghe được những gì người khác không kịp nghe, và đó là sự hỷ lạc: nếu mất sự
chú tâm trong khoảnh khắc, chúng ta có thể không thấy bí ẩn của người làm ảo
thuật. Do vậy, sự chú tâm này, tự động sẽ làm chúng ta thở rất đều và rất nhẹ,
tự động sẽ làm toàn thân chúng ta có sự tỉnh thức rất hiếm hoi. Trong sự chú
tâm và tỉnh thức đó, những giây phút thực tập pháp tu như xem ảo thuật sẽ là xa
lìa tham sân si, vì trong tỉnh thức với chú tâm này, toàn bộ thân tâm chúng ta sẽ
tự động ly dục, ly bất thiện pháp, và đó là vào sơ thiền. Tất cả các bạn ưa xem
ảo thuật đều đã từng thấy những khoảnh khắc mát dịu, khi thân tâm tắm gội trong
sự hỷ lạc của chú tâm, của tỉnh thức và của xa lìa tham sân si. Đó là cửa vào
sơ thiền.
Thái
độ khi xem ảo thuật cũng làm cho chúng ta hiểu Kinh Phật hơn. Đó là khi Đức Phật
nói rằng giữ tâm vô sở trụ thì sẽ giải thoát. Xem ảo thuật là giữ tâm nơi không
nương vào bất kỳ pháp nào. Bởi vì khi xem ảo thuật, nếu tâm bất chợt nương nào
bất kỳ những gì, chúng ta có thể sẽ bị mất các khoảnh khắc phù phép của nhà ảo
thuật. Đó là khi Đức Phật nói rằng người tu như bước trên dòng nước lũ, hễ đứng
lại là bị chìm, hễ bước tới là bị chìm, hễ bước lui là bị chìm, và các kinh gọi
là "vượt qua lũ mà không có điểm tựa hay chỗ đứng" (crossing the
flood with no support or place to stand). Lời Đức Phật có hai nghĩa. Thứ nhất,
đừng níu lấy quá khứ (bước lùi), đừng mơ tới tương lai (bước tới), đừng luyến
tiếc hiện tại (đứng yên). Nghĩa thứ nhì, có nghĩa là, đừng trụ vào bất cứ những
gì trong tâm mình. Khi đang xem ảo thuật, hễ tâm trụ vào bất cứ gì, thì mất cái
nhận biết về thực tại.
Trong
khi xem trò ảo thuật, chúng ta sẽ nhận ra cốt tủy của Bát Nhã Tâm Kinh, của những
“sắc tức thị không, và không tức thị sắc” --- đó là nơi, do duyên, thì cái được
thấy là Không, cái được nghe là Không, và từ cái Không cũng sẽ có thể xuất hiện
ra những cái được thấy và những cái được nghe. Cũng khi hướng cái nhìn về nhà ảo
thuật, chúng ta sẽ vào chỗ Đức Phật khuyến tấn là chớ rơi vào tà kiến của Hữu với
Vô. Bởi vì tâm thức xem ảo thuật là cái nhìn của chánh kiến: không bị vướng vào
thường kiến của Hữu, và không bị vướng vào đoạn kiến của Vô. Tất cả hiện ra trước
mắt người tu như xem ảo thuật là Như Huyễn. Kinh Kim Cương nói rằng: Tất cả các
pháp hữu vi / đều là như mộng, như không có thực, như bọt sóng trên sông, như ảnh
hiện trong gương / như hạt sương buổi sớm, như tia chớp lóe trên bầu trời / hãy
quán chiếu như thế. Đức Phật dạy trong Tương Ưng Bộ Kinh SN 22.95 rằng, tất cả
các pháp đều trống rỗng, không có gì là thực sự có với không. Đức Phật dạy rằng hãy quán sát
như thế cả ngày lẫn đêm thì sẽ giải thoát.
Trong
khi chúng ta nhìn vào trò ảo thuật, thì mắt và tai và toàn thân chúng ta đều tự
động tỉnh thức và không để cái được thấy và cái được nghe nào lôi kéo đi. Kinh
AN 4.37 trong bản dịch của Thầy Minh Châu viết rằng: "Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo hộ trì các căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, làm
cho nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi
lên, Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thật hành sự hộ trì
nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… khi mũi ngửi hương… khi lưỡi nếm vị… khi thân cảm
xúc… khi ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì, làm cho ý căn không được chế ngự, khiến tham
ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ
trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn."
Thái độ tu như xem ảo thuật là y hệt như Thiền
Mặc Chiếu của Tào Động. Vì khi quan sát nhà ảo thuật, tâm người xem sẽ tịch lặng,
không để vương chút bụi nào, để tỉnh thức nhìn trước mắt hiện ra như gương sáng
hiện ra hình ảnh trong gương. Đó là sự tương ưng của định và huệ (tức là, mặc
và chiếu). Kinh SN 35.204 ghi nhận về Mặc và Chiếu qua lời dạy của Đức Phật là
hai vị sứ giả, tượng trưng bằng hai con chim mang theo sứ điệp giải thoát qua
Bát Chính Đạo bay vào tòa thành của thân tâm. Như thế, Mặc và Chiếu là nơi xa
lìa tham sân si, là tiếp cận cảnh giới của vô vi, không dựa vào thời gian,
không dựa vào suy lường. Vì dựa vào thời gian hay dựa vào suy lường, là không
còn trò ảo thuật nữa.
Tất
cả những hành giả nào tu như đang xem, đang nghe, đang hít thở, đang đi đứng giữa
một trò ảo thuật khổng lồ của pháp giới tất nhiên rồi sẽ chứng nghiệm các pháp ấn
vô thường và vô ngã. Và đó là giải thoát.
NG
No comments:
Post a Comment