Nguyên
Giác
Ni sư Trí Hải
Ni
Trưởng Thích Nữ Trí Hải (1938 – 2003) đã để lại nhiều tác phẩm lớn, vừa có giá
trị Phật học, vừa có giá trị văn học. Một tác phẩm trong những tháng cuối của
cuộc đời Ni Trưởng là tập thơ Ngọa Bệnh Ca, được sáng tác trong thời gian nằm bệnh
vào đầu năm 2003. Rồi cuối năm 2003, Ni Trưởng tử nạn trong một tai nạn giao
thông. Bài viết nảy sẽ ghi lại những suy nghĩ về bài thơ “Người Gỗ” trong thi tập
Ngọa Bệnh Ca của Ni Trưởng. Trong bài chỉ là các suy nghĩ rời, từ một người
không có thẩm quyền nào, cả về Phật học và văn học.
Khi
còn là học trò, người viết đã say mê đọc một số tác phẩm của Ni Trưởng. Trong
đó, ưa thích nhất là
hai bản dịch “Câu Chuyện Dòng Sông” và “Bắt Trẻ Đồng Xanh.” Về sau, có cơ duyên
đọc bản Anh văn “The
Catcher in the Rye” của Jerome David Salinger, bấy giờ lại càng khâm phục Ni
Trưởng Thích Nữ Trí Hải. Ngay nhan đề đã rất mực thơ mộng, Bắt Trẻ Đồng Xanh. Tới
khi mở ra đọc vài trang tiếng Anh là tự biết rằng bản thân mình không thể nào dịch
sang tiếng Việt xuất sắc như Ni Trưởng đã dịch.
Trong
khi đó, bài thơ “Người Gỗ” do Ni Trưởng viết cuối đời lại mở ra một chân trời
khác. Từng chữ trong thơ Ni Trưởng hệt như cánh chim bay trên trời cao. Không dễ
gì dò nổi, không dễ gì thấy được những dấu tích, không dễ gì chỉ ra nổi đường
bay của ý thơ Ni Trưởng. Bài thơ rất dị thường, như dường đi nghịch với cả một
thế giới Phật học của những năm đầu thế kỷ 21.
Trong
khi khuynh hướng của hầu hết các bậc Trưởng lão và Thiền sư đều khuyến tấn giữ
chánh niệm tỉnh
giác để qua bờ giải thoát, trong khi các bác sĩ trong các bệnh viện hồi phục chấn
thương khuyến tấn giữ
tỉnh giác chánh niệm để tự chữa trị các bệnh thân tâm cõi này… và trong khi
sách trên kệ từ đạo tới đời đều liên tục viết về Tỉnh thức, về Mindfulness, về
Bây giờ Ở đây, về đi vào thực tại, về quán niệm, về thiền tập để thi đâu đậu
đó, về vân vân… Ni Trưởng trong bài thơ này lại tự nhìn như một “thây chết diệu kỳ”
(có khác gì với thây chết không diệu kỳ?), tự kể là biết ăn, biết ngủ, biết đi
nhưng lại “không tư tưởng
gì”
(ăn gì, ngủ ra sao, đi tới hay lui hay ngang hay dọc… mà sao lại không tư tưởng,
sao lại vô niệm?), và hình
ảnh thây chết là hình ảnh lìa cả thời gian và không gian, vì không còn chi phối
của sắc thọ tưởng hành thức. Bài thơ cũng không nói gì về Khổ Đế, cũng không
nói gì về con đường giải thoát, như Bát Chánh Đạo hay Tứ Niệm Xứ hay Chỉ Quán
hay là chuyện Bờ Này với Bờ Kia; vì thây chết là vượt qua tất cả những gì còn
sinh động trong ba cõi. Thế mới dị thường. Ni
Trưởng tự xem như người gỗ, nhưng biết ngắm cảnh đẹp của hoa, của hồ, của
trăng, của núi đá…
Và
rồi Ni Trưởng nói rằng đã thưởng thức trọn cái tuyệt vời của vũ trụ này là khi
“tâm bất động như thây chết
biết đi.” Hiển nhiên, dị thường là trong thế kỷ 21 mà không nói tới Tỉnh thức
hay Chánh niệm hay Tỉnh
Giác hay Đốn Ngộ hay Tánh Biết hay vân vân… thế rồi còn dị thường hơn nữa, là
khi Ni Trưởng chỉ ra
tâm bất động chính là thưởng thức trọn. Dị thường là như thế.
Bài
thơ này như sau.
.
NGƯỜI
GỖ
Thơ
Ni Trưởng Trí Hải
Một
thây chết diệu kỳ
Biết
ăn và biết ngủ
Thỉnh
thoảng lại biết đi
Nhưng
không tư tưởng gì.
.
Như
người gỗ ngắm hoa
Như
hồ gương chiếu nguyệt
Đá
núi cũng xếp hàng
Ngắm
kỳ quan diễm tuyệt.
.
Lúc
nào thưởng thức trọn
Vũ
trụ nhiệm màu này
Chính
lúc tâm bất động
Như
thây chết biết đi.
Bài
thơ đó được viết trong tư tưởng của Thiền Tổ Sư, nhưng thực sự tận cội nguồn vẫn
là Thiền do Đức Phật dạy. Chúng ta có thể dẫn ra bài thơ của cư sĩ Bàng Uẩn
(740–808) thời nhà Đường, bản phiên âm Hán
Việt kèm dịch nghĩa (xin mời đọc rất chậm để đối chiếu với bài thơ trên của Ni
Trưởng Trí Hải):
Đản
tự vô tâm ư vạn vật
Hà
phòng vạn vật thường vi nhiễu
Thiết
ngưu bất phạ sư tử hống
Kháp
tợ mộc nhân khán họa điểu
Mộc
nhân bản thể tự vô tình
Họa
điểu phùng nhân diệc bất kinh
Tâm
cảnh như như chỉ giá thị
Hà
lự Bồ-đề đạo bất thành.
Dịch
nghĩa: Chỉ tự mình vô tâm cùng với vạn vật, sẽ không ngại gì vạn vật thường quấy
nhiễu. Trâu sắt không sợ gì sư tử gầm rống, hệt như người gỗ xem chim vẽ. Người
gỗ bản thể vốn tự vô tình, chim vẽ gặp
người cũng không kinh sợ. Tâm cảnh như như cứ chỉ như thế, nào có sợ Đạo Bồ Đề
không thành.
.
Chúng
ta sẽ nhầm lẫn, nếu cho rằng Thiền pháp Người Gỗ hay Thiền Pháp Vô Tâm là sáng
tác độc đáo
của Thiền Trung Hoa hay Việt Nam. Đọc kỹ trong Kinh Tạng Pali, chúng ta có thể
thấy rằng vào thời Đức
Phật, Thiền pháp Người Gỗ hay Vô Tâm cũng đã được truyền dạy. Lời dạy rõ ràng
nhất là trong thơ của
Ngài Maha-Kaccana.
Trong
Trưởng Lão Tăng Kệ Thag 8.1, nơi đây chúng ta dịch 2 đoạn cuối trong bài thơ của
Ngài Maha-Kaccana,
dựa vào các bản Anh dịch của Ven. Kiribathgoda Gnanananda Thero, Bhikkhu
Sujato, và Việt dịch của Bhikkhu Indacanda (ngài Indacana gốc Việt):
Tất
cả được nghe với tai, tất cả được thấy với mắt. Người trí hãy [kham nhẫn], đừng
xua đẩy tất cả
những
gì được thấy và nghe.
Cho
dù ngươi có mắt, hãy cứ như mù; cho dù ngươi có tai, hãy cứ như điếc; cho dù
ngươi có trí tuệ,
hãy
cứ như ngu khờ; cho dù ngươi có sức mạnh, hãy cứ như yếu đuối. Và khi có
chuyện sinh khởi, hãy cứ nằm im như xác chết.
.
Cần
ghi nhận 2 bản Anh dịch của Bodhi và K.R. Norman có dòng cuối dịch theo nghĩa
khác:
Rồi
thì, khi đạt được mục tiêu, ngươi có thể nằm trên giường viên tịch.
.
Có
lẽ cả 2 cách dịch đều đúng, vì chữ cổ thường đa nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta thấy
rằng nhìn toàn văn,
cách dịch trên của Sujato (cũng như Gnanananda và Indacana) gần với ý Thiền
Tông hơn. Bởi vì nói chuyện về phương pháp nhìn mà cứ như mù, nghe mà cứ như điếc,
trí tuệ mà cứ như khờ dại, thì hẳn phải là, khi hữu sự sẽ vẫn cứ như nằm chết.
Nghĩa là, không dính gì tới chuyện thành tựu của nhiều năm sau. Mà thái độ nằm
như chết là chuyện của bây giờ và ngay đây.
Phương
pháp đó (mù, câm, điếc, khờ dại, nằm chết…) gần như khác hẳn với các Thiền pháp
khác do Đức
Phật thường dạy (như niệm hơi thở, niệm thân bất tịnh, niệm giới, niệm thí, tứ
niệm xứ, chỉ quán…).
Bởi
vì Thiền pháp Người Gỗ (mù, câm, điếc, khờ dại, nằm chết…) là một tỉnh thức về
tịch diệt, về vắng lặng,
về tâm bất động, về cảnh giới khi ba cõi không còn gì để sinh khởi, và về một
tâm nơi không có gì để niệm.
Độc
giả có thể tạm ngưng đọc vài phút, xin mời nằm (hay ngồi cũng được), rồi tự
hình dung rằng mình
đang như một người gỗ (mù, câm, điếc, khờ dại, nằm chết…), toàn thân từ sợi tóc
tới móng chân đang
từ từ trở thành xác chết, và rồi tới một lúc toàn thân chỉ còn là một sự tịch lặng,
vắng lặng (trong khi tứ
đại tan rã)… Một khoảnh khắc tịch lặng được như thế, sẽ là một khoảnh khắc an lạc,
hạnh phúc. Xin nhìn
kỹ, chính cái tâm đang tỉnh thức và đang cảm thọ niềm vui tịch lặng đó ngay nơi
đó đã lìa tham sân si.
Đó
là tỉnh thức với vô niệm, không phải là ngăn niệm, nhưng là nơi lặng lẽ của người
gỗ một cách tự nhiên khi “thân hành, khẩu hành, tâm hành” đều tịch lặng.
Đây
mới thật là Thiền Tông, vì không còn gì để bấu víu, y hệt như chỗ cổ đức Trung
Hoa nói rằng “hãy
lên đứng nơi đầu sào trăm trượng, rồi bước thêm một bước.” Nghĩa là, thêm một
bước vào một cảnh giới, nơi tâm không còn dính gì với cái được thấy (tức là tâm
như mù), không còn dính gì với cái được nghe (tức là tâm như điếc), không còn
dính gì với cái được tư lường (tức là tâm như khờ dại)… nhẫn tới không còn dính
gì tới việc làm trong ba cõi (tức là, tâm tự thấy mình nằm như xác chết).
Cần
phải cảnh giác rằng Thiền không phải là chuyện ngăn chận niệm, Thiền không phải
là chuyện diệt
trừ niệm. Thời xưa, có một vị tăng hỏi Vân Môn: “Khi không còn dấy niệm thì
sao?” Ngài Vân Môn đáp:
“Núi Tu di.” Nghĩa là, tâm không dấy niệm chính là ngọn núi đè bẹp chúng ta vào
cõi này, cứ mãi không
thoát. Nhưng hiển nhiên là, tâm theo duyên để sinh khởi vô lượng niệm cũng là đẩy
chúng ta tới vô lượng cảnh giới trong ba cõi, không lìa được khổ.
Đơn
giản thế này: tất cả các Thiền pháp khác đều nhìn vào Niệm Sinh Khởi, lo chăn
trâu để trâu không
đi chệch vào ăn lúa mạ. Nhưng Thiền pháp Người Gỗ là nhìn vào Niệm Tịch Diệt,
nghĩa là bất kể niệm
nào khởi lên đều thấy được ngay từ chặng đầu, chặng giữa, và chặng cuối là nơi
vắng lặng tịch diệt.
Tới
đây, chúng ta có thể nhớ tới Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông, trong phẩm Niêm Tụng
Kệ, có ghi
Công án thứ 29, trích (theo bản dịch của Thầy Thích Thanh Từ):
“29.-
Cử: Huyền Sa dạy chúng nói: Các bậc Lão túc khắp nơi đều bảo: “Tiếp vật lợi
sanh.” Chợt gặp ba
hạng người bệnh lại, làm sao tiếp? Người bệnh mù, giơ chùy dựng phất họ chẳng
thấy. Người bệnh điếc,
nói năng tam-muội họ không nghe. Người bệnh câm, dạy họ nói, nói không được.”
Công
án đó là lời khen ngợi bậc thượng căn, vì nếu dạy theo đời thường, hẳn là sẽ
làm hỏng họ. Như với
người mù, người điếc như thế… họ như dường không thấy, như dường không nghe. Đối
với người câm, dạy nói, họ không nói được. Đơn giản vì tất cả các pháp khi tới
mắt, tới tai, và tới tâm của họ, tức khắc là trôi vào tịch diệt. Khi đó, lấy tướng
gì mà thấy, lấy tướng gì mà nghe, lấy kiến gì mà nói năng nữa. Chỗ này chúng ta
nhớ tới Kinh AN 3.16 dạy rằng, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung,
không nắm giữ tướng riêng... khi tai nghe tiếng, không nắm giữ tướng chung,
không nắm giữ tướng riêng... khi ý nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng
chung, không nắm giữ tướng riêng....
Chỗ
này cũng nhớ tới Kinh Bahiya, khi Đức Phật dạy Ngài Bahiya rằng hãy để cái được
thấy là cái được
thấy, cái được nghe là cái được nghe… thì nơi đó đã lìa ba cõi.
Thây
chết cũng là buông bỏ mắt tai mũi lưỡi thân ý. Thiền pháp Người Gỗ của Ni Trưởng
cho chúng ta
nhớ tới Kinh SN 35.24, nơi đây Đức Phật dạy hãy buông bỏ hết tất cả mắt tai mũi
lưỡi thân ý. Nói "buông
bỏ" là dịch theo Sujato và Bodhi. Bản dịch của Thầy Minh Châu là “đoạn
tận” nghe mạnh hơn, cho thấy rõ ràng là thiền tư như xác chết.
Trích
bản Việt dịch của Thầy Minh Châu như sau:
“Mắt,
này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận. Các sắc cần phải đoạn tận. Nhãn thức cần phải
đoạn tận.
Nhãn
xúc cần phải đoạn tận. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất
khổ bất lạc; cảm thọ ấy cần phải đoạn tận. Tai… Mũi… Lưỡi cần phải đoạn tận.
Các vị cần phải đoạn tận. Thiệt thức cần phải đoạn tận, thiệt xúc cần phải đoạn
tận. Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm
thọ ấy cần phải đoạn tận. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp đưa đến đoạn tận tất
cả.”
Hình
ảnh thây chết trong thơ của Ni Trưởng Trí Hải cũng làm gợi nhớ tới luận thư
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)
của ngài Buddhaghosa, nói về 8 cách Thiền tập về sự chết, xin trích dịch như
sau:
“Thiền
tư về sự chết như kẻ sát nhân, vì nó cướp đi mạng sống; thiền tư về sự chết như
hủy diệt của thành
công; thiền tư nó bằng cách so sánh với những người nổi tiếng, thấy rằng họ
cũng phải chết, ngay cả những bậc giác ngộ; thiền tư trên thân mình như nơi ở của
rất nhiều sâu bọ, cũng như là mục tiêu của nhiều
vi trùng khác; thiền tư về sự khó khăn để giữ thân sinh tồn; thiền tư về nó như
không gì lạ, vì chúngsinh chết không có thể tiên đoán được; thiền tư về sự ngắn
ngủi của mạng người; thiền tư về sự kiện rằng, nói một cách chính đáng, thọ mạng
của một chúng sinh là một khoảnh khắc của thức, rằng chúng sinh chết đi trong từng
khoảnh khắc, phải nói là thế.”
Câu
cuối của đoạn văn trên, trong tiếng Anh là: “…the lifetime of a being is a
single moment of consciousness,
that one dies every moment…” Nghĩa là, chúng ta sống và chết trong từng khoảnh
khắc của thức. Từng khoảnh khắc, thức sinh rồi diệt. Trong khi rất nhiều Thiền
pháp chú tâm đối trị với Niệm Sinh Khởi, Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải nêu lên Thiền
pháp Người Gỗ để tỉnh thức nhìn vào nơi Niệm Tịch Diệt. Và tịch diệt là Niết
Bàn, vì nơi đó là lìa tham sân si.
Nói
về khoảnh khắc sát na sinh rồi sát na diệt, chúng ta có thể nhớ rằng trong Tạng
Pali, Ngài Xá Lợi Phất
(Sariputta) đã để lại bài kệ “Guhatthaka-suttaniddeso: Upon the Tip of a
Needle” mô tả rằng tất cả các pháp trong ba cõi, cả thân tâm (sắc thọ tưởng
hành thức) đều đang chảy xiết qua các khoảnh khắc thời gian, y như điểm tiếp
giáp của một hạt mè rất nhỏ đặt lơ lửng trên đầu một mũi kim, và “Những người
đã sinh ra, đang đứng đây y hệt như một hạt mè lơ lửng trên đầu một mũi kim…” Bất
kỳ ai trải nghiệm sinh diệt sát na như thế, đều thấy trong pháp ấn vô thường,
không có lời nào nói được thực tướng, vì nói gì cũng sai. Vì lời nói là sản phẩm
quá khứ, nhưng thực tại là cái vô lượng đang chảy xiết, nơi đó không có hôm
qua, không có ngày mai, trong khi cái hiện tại là bất khả đắc. Khi thấy vô thường
chảy xiết qua thân tâm như thế, sẽ không còn một kiến nào khởi lên nữa, và đó
là hình ảnh “người gỗ” hay “thây chết diệu kỳ” trong thơ của Ni Trưởng Trí Hải.
Như
thế, tất cả các pháp mà chúng ta ngỡ là đang được thấy, đang được nghe, đang được
cảm thọ… đang
được tư lường… thực ra là do thức của chúng ta đã khoanh vùng một chuỗi sát na
sinh diệt và đặt ý nghĩa cho chuỗi đó. Thấy như thế là thấy tất cả các pháp là
duy thức.
Trong
Kinh Pháp Bảo Đàn, nơi Phẩm 7 (Cơ Duyên), nơi Tổ Huệ Năng nói với Tăng Chí Đạo,
trích theo
bản dịch của Thầy Thanh Từ:
“Tổ
quở: Ông là Thích tử sao lại tập theo ngoại đạo về đoạn kiến và thường kiến mà
luận nghị về pháp
Tối thượng thừa. Cứ theo lời ông nói, tức là ngoài Sắc thân riêng có Pháp thân,
lìa sanh diệt để cầu tịch
diệt, lại suy luận Niết-bàn thường lạc nói có thân thọ dụng, đây là chấp lẫn về
sanh tử, đắm mê cái vui thế gian; nay ông nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận
thân năm uẩn hòa hợp làm thể tướng của mình, phân biệt tất cả pháp cho là tướng
ngoại trần, ưa sanh, ghét chết, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng huyễn hư
giả, luống chịu luân hồi, lấy thường lạc Niết-bàn đổi thành tướng khổ, trọn
ngày tìm cầu. Phật vì thương những người này, mới chỉ dạy Niết-bàn chân lạc,
trong sát-na không có tướng sanh, trong sát-na không có tướng diệt, lại không
có sanh diệt có thể diệt, ấy là tịch diệt hiện tiền. Chính ngay khi hiện tiền cũng
không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường lạc. Vui này không có người thọ,
cũng không có người chẳng thọ, há có tên một thể năm dụng, huống là lại nói Niết-bàn
ngăn cấm các pháp khiến hằng chẳng sanh. Đây là ông chê Phật hủy pháp.”
Không
có tướng sanh, không có tướng diệt, không có sanh diệt có thể diệt… ngay khi hiện
tiền cũng không
có cái lượng hiện tiền… Đó chính là, theo cách Ni Trưởng Trí Hải viết trong bài
thơ, rằng tâm như người
gỗ, tâm như hồ gương, tâm như đá núi, và là tâm bất động, mới là thây chết diệu
kỳ. Thấy mình như thây chết như thế, chính là sống với cái sát na tịch diệt, sống
với cái vắng lặng bất khả tư lường. Và đó chính là Niết Bàn Tâm.
NG
No comments:
Post a Comment