Tuesday, March 31, 2020

PHỐ VẮNG


Lưu Na

Phố vắng. Hình tác giả gởi

     Trời ngả chiều nhưng mặt trời vẫn sáng rực rỡ.  Nắng vàng ấm và gió nhẹ khiến phố xá thêm êm đềm tươi mát, mà đường phố vắng tanh chỉ lác đác vài chiếc xe vài bóng người.  Đại dịch và chỉ thị giới hạn sinh hoạt đã trả cho thành phố cái thanh bình yên ắng.  Ngà nhớ những bức ảnh Sài Gòn xưa đăng trên những trang facebook, cái thuở thái hòa những năm 1930’s, 40’, và 50’s, khi Sài Gòn chỉ nhiều nhất một vài triệu dân và mọi sinh hoạt dường như nhỏ nhẹ.  Ngà nhớ thành phố nơi này những năm 1980’s khi Ngà mới đặt chân lên đất Mỹ.  Những buổi sáng chộn rộn trong lặng im và những ánh đèn vàng lúc đêm về là nỗi khốn khổ của Ngà trong suốt 10 năm đầu.  Một đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở hẻm nghèo chật chội luôn vang tiếng người với đèn nê ông trắng xóa giờ lọt vào một nơi rộng mênh mang với bóng đèn mờ tỏ võ vàng, một mình.  Đời lúc đó thê lương biết nhường bao…
      Ngà rẽ vào nhà anh Kính.  Anh ở cùng thành phố chỉ cách Ngà độ mươi phút lái xe, nhưng nhà anh tiếp giáp với thành phố biển nên lối xóm không quá xô bồ như khu Ngà ở.
      Căn nhà nhỏ xinh xắn với đất vườn rộng rãi, anh Kính ở một mình nên không mấy gọn ghẽ dù cũng không quá bừa bộn.  Anh hể hả cất tiếng chào đón Ngà nhưng vẫn không rời căn bếp nhỏ, lửa đang phừng phừng và một món gì đó đang xém cháy thơm lừng.
      -Vô đây em, vô đây.  Anh làm cá bống trứng chiên dòn tụi mình nhâm nhi.
      Anh Thăng ở đâu hiện ra nơi cửa.  Khác với anh Kính cao lớn và hỉ hả như Phật Di Lặc dù anh không mập như vậy, anh Thăng nhỏ con và gầy gò.  Anh nhỏ nhẹ và ít nói nên nhỏ con thấy càng thêm nhỏ!    Anh lôi trong túi giấy ra một chai Martel để lên chiếc bàn ăn nhỏ kề bên bếp.
      -Trời ơi, có đủ hết mà, mang tới chi anh Thăng, anh Kính đưa đĩa cá bống trứng nghi ngút khói ra bàn.
      -Thì ai thích gì uống nấy, anh Thăng cười cười ngồi xuống.
      Ngà cũng mở hộp tôm sốt hạt hồ đào đổ ra đĩa.  Nhà hàng đóng cửa, chỉ mua được món này ở quán cơm chỉ Panda Express thôi, mấy anh chịu khó ăn đỡ !
      -Gì cũng được em à, miễn vui.  Uống là chính, ăn thì bao nhiêu.  Anh Kính mau mắn khui 2 chai Bud, rồi lấy ra 3 cái ly nhỏ vuông vuông.  Anh Thăng cũng loay hoay khui chai Martel rót cho mình một chung.
Cuộc nhậu chính thức mở màn.  Cụng một cái, 3 đứa con Ngọc Hoàng.
      -Nè, cấm tụ tập mà tụi mình xé rào, coi chừng á.  Anh Thăng hăm he thăm dò
      -Coi chừng ai, đâu có ai cấm gì đâu, chỉ là “ra nghị quyết” thôi mà, Ngà cãi
      -Tụi mình đứa nào cũng khỏe mạnh, đâu có ai bịnh gì đâu mà lo.  Anh dẻo dai lắm, em không cần sợ.     Anh Kính hớn hở tu một hớp.
      -Tui sợ, tui đang tuổi quân dịch!
      -Anh vừa mới hưu, già chát còn quân dịch gì nữa?
      -Thì cô Vi tuyển binh già, không tui thì ai vô đây!  Gặp đại dịch, dẫu không buông tay cũng đến lúc phủi tay rồi, rủi chết không có gì để khiếu nại.  Mà dóc chơi cho dzui, chớ tui độc thân, có bịnh thì cũng không lây được cho ai, chỉ sợ cô Ngà
      -Dạ em cũng độc thân tại chỗ, không có ai để lây
      -Thì dô, vạn tuế độc thân, anh Kính mau mắn.  Ba đứa con Ngọc Hoàng lại lanh canh chụm chai và ly.
      Ngà đặt chai xuống, bắt đầu tấn công cá bống trứng chiên dòn.  Ngà ăn ba con cá mới hớp một hớp bia, còn anh Kính đã xếp ba chai ra cạnh bàn mà chưa đụng đũa.  Anh Thăng cười rạng rỡ như thể hơi men đã làm anh nở bung như hoa hướng dương.  Anh hết cái vẻ rụt rè ít nói, và anh gọi Ngà là em chứ không “cô, tui” như mọi khi nữa.
      -Anh nói cho em hay, từn nào anh cũng nhậu. 
      -Anh nhậu với ai?
      -Thì dzới bạn cũ trường lựt. 
      -Ủa, hồi xưa anh học luật?
      -Chớ sao.  Mà goa đây gần 15 năm mới xong mảnh bằng cử nhân điện toán quản trị dữ liệu.
      -À, ra là em có đồng minh, Ngà vỗ bàn cười, thanh toán thêm mớ tôm hồ đào cho “thơm râu!”
       Anh Kính chợt đứng dậy, bước ra cửa vườn cách bàn ăn chỉ vài bước.  Bên ngoài trời đỏ sẫm, những cụm mây xám bỗng tím biếc rực rỡ.  Anh bật lửa châm điếu thuốc.  Anh Thăng xoay ghế ngó ra vườn, tay vẫn cầm cái ly vuông vuông xinh xắn, nhẹ lắc cho rượu sóng sánh.  Ngà đã no, cũng cầm chai ra đứng kế, ngửa cổ tu một hớp.
       Anh Kính chợt dúi điếu thuốc vào tay Ngà, làm một hơi đi em.  Con Ngọc hoàng giờ lên ngôi, Ngà vừa nghĩ vừa với tay cầm điếu thuốc hít một hơi.  Anh Thăng bật tiếng- trời đất, dữ à nghen?
       -Chuyện nhỏ, nó làm bộ cho vui chứ thấy là biết không phải dân thở khói.
       -Dzậy là sao, nó dzừa hút đó thôi?
       -Coi nè, anh Kính rít một hơi thuốc thật sâu, lại đưa điếu thuốc qua tay Ngà, Ngà cũng hít một hơi khói bay mù mịt.
       -Nó hít vô miệng rồi nhả ra chứ đâu có ếm vô như em đâu anh Thăng.
       Anh Thăng bật cười, à, cái đó tui hổng biết.
       -Nói dóc, sao biết được em có hít vào phổi hay không, Ngà cãi.
       -Anh đi lính em còn con nít, hút cả ngàn điếu rồi, sao lại không biết.
       -Mà sao lính hay hút thuốc?
       -Cái thú dễ nhất tiện nhất và rẻ nhất.  Vậy mà nhiều khi cũng đói thuốc đó em.  Như có giọt sầu rơi xuống đáy giếng, anh Kính dập tàn trở vào bàn.  Thức ăn đã nguội, mùi gia vị giờ mới trùm lên đầu tóc.    Anh Thăng nhìn Ngà loay hoay thu vén đĩa thức ăn chợt hỏi:
       -Em tích trữ giấy vệ sinh chưa?
       -Em có đủ.
       -Không biết thiên hạ làm gì mà khùng dữ dzậy, chớ thuở xưa mình xài lá tre lá chuối cũng còn được mà, em nhớ hông?
       -Không, thuở em là thuở xài giấy báo!  Mà anh có đi lính hông?
       -Không cần phải đi lính mới khổ
       -Nhưng không ai khổ bằng lính, anh Kính phản đối.
       -Khổ sao ông nói tui nghe, anh Thăng cười cợt.
       -Quên rồi.  Lúc đó vô quân trường là chấp hành bổn phận, ra mặt trận là phải hoàn tất nhiệm vụ, nhưng vào chỗ súng đạn rồi thì chỉ còn nhớ một điều là không được chết.  Không được chết, còn trẻ quá mà, chết sao được…  Hết chiến tranh còn mắc ở tù, không thể chết.  Ra tù phải kiếm cơm, phải vượt biên, không thể chết. 
       -Thì bi giờ được chết rồi còn muốn gì, anh Thăng châm chọc
       - Ừ, bây giờ ở đây yên lành, hết bổn phận hết trách nhiệm, không chết, nhưng sống để làm gì? Bây giờ chết cũng lố tuổi chết non rồi anh Thăng ơi.  Lỡ độ rồi!  Dô một cái giải sầu nè!
       Ba đứa lại ngửa cổ.  Không dưng Ngà nhớ bài Rượu Xuân:
Cao tay nâng chén rượu nồng
Mừng em, em sắp lấy chồng xuân nay
Uống đi em, uống cho say
Để trong mơ thấy những ngày Xuân qua
Thấy tình duyên của đôi ta
Đến đây là, đến đây là, là thôi
Em đi dệt mộng cùng người
Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh
       Thật là lạc quẻ, không biết mình say hay vớ vẩn nữa!  Ngà nhìn anh Kính, anh ngó chừng cũng đã say nhưng vẫn chưa muốn thôi, anh Thăng thì hồng hào như tiên chứ không có vẻ gì sắp lật.  Bên ngoài đã tối hẳn, một ngày sắp qua, như 40 năm 12000 ngày đã qua, sáng trưa chiều tối.  Ngà đưa anh Kính thêm một chai, anh vặn mở nắp chai rồi đưa lại cho Ngà.
      -Hết chai này em về
      -Lái được hông đó?
      -Được, con gái Ngọc Hoàng không đến nỗi đâu.
      Ba đứa con Ngọc hoàng chợt im lặng chẳng ai nói với ai câu nào.  Ngà nhìn chai bia trên mặt bàn.  Hơi sương lúc mới lấy ra khỏi thùng đá giờ đọng thành giọt lăn dài xuống dọc thân chai như những giọt nước mắt nâu lạnh rớt vào lòng.  Bốn mươi năm thái bình trên đất chẳng chiến tranh, sống thì cũng bốn mươi năm lăn lóc khóc cười, bốn mươi năm nhăn nhó vật vã bươn chải, cũng bốn mươi năm yêu đương ngăn cách đắp xây phá bỏ.  Bụng dạ đã đầy mảnh chai, sống thêm cái gì nữa?
       Ngà lái xe về, đường đêm vắng lặng.  Đại dịch tàn phá, cái hoang vu của thành phố hay của khắp nơi trên thế giới thì cũng chỉ như những chiếu vọng của từng cõi lòng đã rữa tan.  Đâu chỉ mình anh lỡ độ, anh Kính!

LƯU NA
03292020

Monday, March 30, 2020

TRANH HẢI PHƯƠNG

Tháng 3 Mùa Tuyết Tan
Sơn dầu trên bố 18x24. thực hiện Mar. 2010

NHÌN TỪ TRẠI TÙ: THƠ VÀ THIỀN


Nguyên Giác

Tập thơ The Buddha in Jail của Cuong Lu.

     Bên trong các bức tường trại giam, luôn luôn là những hoàn cảnh rất buồn của những người trải qua một thời bất trắc gian nan. Nhưng cũng từ sau các chấn song sắt, thi ca và Thiền chánh niệm đang trở thành niềm vui mới cho rất nhiều tù nhân. Trong các nhà thơ mặc đồng phục nhà tù Hoa Kỳ đó, có những người gốc Việt --- có người viết bằng tiếng Việt, có người viết tiếng Anh. Trong các hoàn cảnh đặc biệt đó, nổi bật nhất trong nền thi ca quốc tế là một nhà thơ Hoa Kỳ, gốc Mễ Tây Cơ và bản xứ da đỏ Apache: Jimmy Santiago Baca, vào tù năm 13 tuổi mới bắt đầu học chữ, và rồi có cơ duyên học Thiền, bây giờ là một nhà thơ lớn với nhiều giải thưởng.

Nhà thơ Jimmy Santiago Baca đọc thơ.

     Tạp chí NPQ gọi đó là nền văn học nhà tù, qua bài viết nhan đề “A Growing Literary Genre with Deep Nonprofit Ties: Prison Literature” (Một Thể Loại Văn Học Đang Phát Triển với Quan Hệ Bất Vụ Lợi: Văn Chương Nhà Tù) (1) của tác giả Eileen Cunniffe hôm 27/2/2020.
     Trong bài có nói về nhà thơ Chu Ngoc Tu Nguyen, 48 tuổi, bị giam ở Michigan từ năm 1999. Nguyen cho biết, anh hy vọng thơ của anh, viết bằng tiếng Việt và được dịch sang tiếng Anh, có thể giúp những người nơi thế giới tự do hiểu về những gian nan của người ngoại quốc bị giam trong một vùng đất không phải quê hương. Anh sẽ được ra khỏi nhà tù vào năm 2030.
      Bài thơ nhan đề Withering Life (bản gốc tiếng Việt là: Tàn Đời) của Chu Ngoc Tu Nguyen được Phạm Thu Uyên dịch sang tiếng Anh và đăng trong A World Without Cages, một tuyển tập văn học của tù nhân Hoa Kỳ ấn hành bởi hội Asian American Writers’ Workshop (AAWW), một tổ chức bất vụ lợi bản doanh ở New York City.
      Thơ Chu Ngọc Tu Nguyen, bản tiếng Anh, do Phạm Thu Uyên dịch, với sáu câu đầu như sau:
Tonight, surrounded by the walls of a prison,
there is a traveller who is hugging his sorrow.
Many years wandering the underworld
bringing misfortune to other beings
only to fall into the hands of law
one winter night, wrists in handcuffs
      Đó là dịch từ bài thơ “Tàn Đời” dài 28 câu theo thể lục bát, với sáu câu đầu là (bản gốc có lỗi dấu hỏi/ngã, nơi đây được hiệu đính; nhưng sẽ không sửa lỗi gieo vần):
Đêm nay giữa chốn lao tù
Có người lữ khách ngồi ôm nỗi sầu
Bao năm phiêu bạt giang hồ
Mang niềm bất hạnh cho người thế gian
Để rồi một tối mùa đông
Sa cơ luật pháp mang còng vào tay…
     Bản tin nói rằng ấn hành các tác phẩm văn học của tù nhân không phải chuyện mới lạ, Trung Tâm Văn Bút Hoa Kỳ (PEN America) đã thực hiện Prison Writing Program (Chương Trình Viết Trong Tù) từ năm 1971. Chương trình toàn quốc này cung cấp miễn phí các sách cẩm nang cầm bút tại các nhà tù, bảo trợ các giải thi văn học trong tù thường niên, và có tới 250 nhà văn tình nguyện hướng dẫn các tù nhân viết văn. Một trong những điển hình nổi tiếng là tạp chí San Quentin News, một ấn phẩm viết và ấn hành bởi các tù nhân trại San Quentin đã phát hành từ năm 1940. Tạp chí này mỗi tháng phân phát tới hơn 35 trại tù tiểu bang California.
     Cũng có một số chương trình văn học nhà tù nổi tiếng khác, như tổ chức The Prisons Foundation đăng các sáng tác tù nhân lên mạng, và in các sách tuyển tập. Hay, trang lưu trữ dữ kiện The American Prison Writing Archive là tuyển tập trên mạng các bài viết phi-tiểu-thuyết (nonfiction) của các tác giả bị giam trong tù, cũng như nhân viên nhà tù và người thiện nguyện.

      Một trường hợp khác, nhưng viết bằng tiếng Anh: Hoang Vu Tran, sinh tại Việt Nam năm 1972. Khi Tran mới 7 tuổi, gia đình sang Mỹ định cư, tại Houston. Năm 1997, Tran bị kết tội tấn công bạo lực với vũ khí có thể làm chết người và bị kêu án 60 năm tù. Tran đã bị giam ở Texas trong 21 năm qua.
       Bài viết của Hoang Vu Tran nhan đề “My Name is Chino” (Tên Tôi Là Chino) đăng trong tuyển tập A World Without Cages của hội AAWW. Mấy đoạn đầu sẽ được dịch như sau:
“Tên tôi là Chino
Tặng Thảo, bạn tôi
Tôi ngồi đây, bây giờ, do dự viết bài này, vì tôi không phải nhà văn và không tự nhận là nhà văn. Thực ra, tôi không học cao. Tôi rời bỏ trung học khi học lớp 9, vì tôi không thể ngồi trong lớp trong khi các bạn tôi ở ngoài đang vui chơi, ngồi trên xe của người khác. Tôi không bao giờ đoán được trong một triệu năm chữ ngờ rằng những bộp chộp của tôi đã biến đổi đời tôi vĩnh viễn.
      Lý do duy nhất tôi viết bài này vì tôi được khích lệ từ một người tin rằng tôi có thể viết. Chính người tôi quan tâm đã yêu cầu tôi cầm bút. Tôi đã nhận thức xuyên qua những bi kịch của đời hay của những thời đểm gay go, những người xuất hiện nơi đó chính là những người yêu thương tôi chân thực. Thảo là bạn thân nhất của tôi, là một trong những người đó. Từ ngày tôi gặp cô này, thay vì bỏ chạy xa, nàng đã chạy về hướng tôi. Vì ngày sinh nhật của nàng sắp tới, tôi viêt bài này như món quà tặng nàng. Tôi gặp khó khăn để nêu lên tiếng nói của tôi, để kể về kinh nghiệm của tôi, và ghi lại quan điểm của tôi. Xin hiểu rằng viết là một việc rất khó cho tôi.
      Là một người gốc Á, tôi được dạy từ thuở nhỏ là đừng bao giờ nói về những chuyện xấu xa, hay về những nỗi đau khổ trong gia đình và người thân của mình. Tôi nhớ một sự kiện. Trong thời tôi mới lớn, nhà chúng tôi có hai con thỏ. Một hôm từ trường về nhà, tôi thấy cha tôi và các bạn của ông đang ăn thịt chúng. Khi hàng xóm hỏi chúng tôi là hai con thỏ đâu rồi, anh tôi buột miệng nói cha tôi ăn thịt chúng rồi. Thấy cái nhìn trên khuôn mặt cha tôi, tôi biết là chuyện này không nên nói ra. Không phải là ba mẹ chúng tôi hay người thân bảo chúng tôi chớ nói các chuyện này, nhưng chỉ là luật hiểu ngầm trong văn hóa Châu Á. Nghĩa là, chúng tôi luôn luôn muốn “giữ thể diện” – do vậy tôi do dự kể chuyện vì tôi không muốn bị la rầy.
      Thế này, tên tôi là Chino. Đó không phải tên thật, mà là một tên gọi gán cho tôi và vài trăm người như tôi trong trại tù Texas. Vâng, tôi được gọi tên theo một cái quần. Tôi được kể rằng trong ngôn ngữ Tây Ban Nha, chữ Chino có nghĩa là Chệt, hay người Trung Hoa, mà tôi chẳng phải người Hoa đâu. Tôi là một người Việt, lớn lên hầu hết đời tôi từ Houston, một thị trấn dơ bẩn phía nam Hoa Kỳ. Trong 21 năm qua, tôi bị tiểu bang Texas chôn vùi, hay bị tống giam…” (2) .

Tỳ kheo Thích Thiện Tâm, tuyên úy nhà tù.

      Trong trại tù, niềm vui không chỉ là thơ và văn, mà còn là Thiền tập.
      Nổi tiếng trong giới thiện nguyện vào nhà tù dạy Thiền chánh niệm và Thiền tâm từ cho tù nhân tại California và Arizona là Thầy Thích Thiện Tâm, đã hoàn tất học vị Tiến sĩ Phật học tại trường University of the West, miền Nam California, năm 2013.
      Trong một buổi nói chuyện tháng 6/2018 tại Viet Bao Gallery ở thành phố Westminster, California, Thầy Thích Thiện Tâm đã nói về việc làm tuyên úy và dạy Thiền tỉnh thức trong các trại giam cho tù nhân. Thầy Thích Thiện Tâm đã thường xuyên vào hướng dẫn  tù nhân trong nhiều trại tù California và Arizona, và thấy trại nào cũng có người Việt trong đó.
      Trước đó, nhà báo Đoàn Hưng (SBTN) trong một bài viết năm 2016 kể rằng tại Nam California có một tổ chức thiện nguyện, chuyên đến các trại tù Tiểu Bang Nam Cali để hướng dẫn cách sống thiền cho tù nhân. Những lợi ích nhóm đem lại cho những người tù, cũng như cho xã hội thật to lớn. Engaged Buddhist Alliance (EBA- tạm dịch: Liên Minh Phật Giáo Dấn Thân) là một tổ chức thiện nguyện vô vụ lợi của Hoa Kỳ. Những người thành lập và thành viên hầu hết là người Mỹ trắng, chỉ có Tỳ Kheo Thích Thiện Tâm (De Hong) là người Việt gốc Hoa.
       Bản tin ghi lời Thầy Thích Thiện Tâm rằng khi nhìn sâu sắc  để hiểu và thương, chúng ta có thể nhận ra nhiều tù nhân chỉ là nạn nhân đáng thương của xã hội, hơn là những tội phạm nguy hiểm đáng bị trừng phạt. Nhiều gia đình trong cộng đồng người Việt chúng ta cũng đã có thể rơi vào tình trạng đáng thương này. Là một dân tộc mới di dân sang Mỹ, nhiều gia đình Việt đã từng có cảnh cha mẹ đều đi làm, bỏ mặc con cái cho nhà trường giáo dục. Các em thanh thiếu niên mới sang một xã hội, mới lạ về văn hóa, nên bị lạc lõng. Lúc đó, chỉ cần những phần tử xấu trong xã hội đến dụ dỗ là các em dễ bị sa ngã, trở thành nạn nhân của tội ác. Luật pháp Hoa Kỳ qui định việc mua bán ma túy có thể lãnh án tù từ 20 năm đến 30 năm. Từ khoảng năm 1993 đến 2012, luật pháp qui định cứ 3 lần phạm tội ăn cắp vặt thì sẽ lãnh án chung thân. Những dạng tội danh như vậy đối với thanh thiếu niên quả là quá khắc nghiệt, bất kể hoàn cảnh nào đã đưa đẩy các em phạm tội, bất kể các em chỉ là nạn nhân của sự thiếu chăm sóc từ phía gia đình. Theo thầy Thiện Tâm, khoảng hơn một ngàn phạm nhân trong các trại tù Cali là người gốc Á. Rất nhiều trong số họ là người gốc Việt ở mọi độ tuổi, từ thanh thiếu niên đến trung niên.
       EBA đem ánh sáng Phật Pháp đến không chỉ cho tù nhân Việt Nam, hay gốc Á, mà cho cả những sắc tộc khác. Khoảng 200 tù nhân đã tham dự các khóa hướng dẫn Phật Pháp của EBA, chỉ có hơn 20 người là gốc Việt và gốc Á. Điều đầu tiên họ được nhắc nhở là họ vẫn là những con người, với đầy đủ nhân tính. Họ vẫn có khả năng trở lại thành những con người bình thường xã hội sau này, nếu được đối xử và giáo dục đúng mực. Tại các buổi học, tù nhân được hướng dẫn phương pháp thiền chánh niệm, phương pháp sống tỉnh thức. Những phương pháp này giúp cho tù nhân tìm được hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, cho dù đó là giây phút ở trong chốn lao tù. Các phạm nhân được hướng dẫn cách làm hòa với chính bản thân mình, nhận ra nguyên nhân dẫn đến những tuyệt vọng, giận dữ, căm thù, tham dục… trong tâm thức của mình, vốn là nguyên nhân dẫn đến những hành động phạm pháp. Nhìn vạn vật có sự tương liên mật thiết với nhau, những người tù sẽ có cái nhìn cảm thông, tha thứ với mọi người và với chính bản thân mình. Việc chữa lành những vết thương trong nội tâm của người tù nhờ vậy mà khởi lên và phát triển.
      Lợi ích của việc học cách sống thiền trong tù đem lại những kết quả to lớn, có thể thấy ngay trước mắt. Thầy Thiện Tâm cho biết những tù nhân theo học với mình có những tiến bộ vượt bực về vấn đề tâm linh. Khó có thể hình dung họ sẽ tái phạm tội trong tương lai. Một thống kê chỉ ra rằng những phạm nhân tham gia những khóa giáo dục tương tự, thì khả năng tái phạm tội khi được thả về giảm đến 43%. Và 1 USD bỏ ra cho những chương trình giáo dục trong nhà tù, sẽ tiết kiệm được 5 USD cho nhà tù trong tương lai trong chi phí giam giữ các tù nhân.
      Trong khi đó, tại Châu Âu, một người gốc Việt nổi tiếng trong giới thiện nguyện dạy Phật pháp trong tù là Cuong Lu. Bản thân cư sĩ Cuong Lu cũng là một nhà văn: ông đã xuất bản sách nhan đề “The Buddha in Jail” (Đức Phật Trong Tù) --- nội dung về Phật học và về kinh nghiệm hoằng pháp trong tù.

Cuong Lu, tuyên úy nhà tù Hòa Lan.

      Cuong Lu sinh năm 1968 ở Nha Trang, Việt Nam, định cư tại Hòa Lan cùng gia đình năm 1980 Lu học chuyên ngành Đông Á tại University of Leiden, và năm 1993 thọ giới xuất sĩ tại Làng Mai, Pháp quốc, dưới hướng dẫn của Thầy Nhất Hạnh, và năm 2000 được công nhận là bậc giáo thọ. Năm 2009, Cuong Lu rời Làng Mai, về đời thường ở Hòa Lan, nơi cùng 5 người đồng sự thiết lập chương trình Buddhist Spiritual Care Program trong hệ thống nhà tù Hòa Lan; năm 2015, tốt nghiệp Thạc Sĩ chuyên ngành Buddhist Spiritual Care (Phật Học Ứng Dụng Chăm Sóc Tinh Thần) tại đại học Vrije (“Free”) University ở Amsterdam. Từ đó, Cuong Lu hướng dẫn những khóa tu và thuyết pháp tại nhiều quốc gia, và là tác giả    4 sách tiếng Việt và một sách tiếng Hòa Lan.
      Việc làm chính thức của Cuong Lu là tuyên úy trong các trại tù Hòa Lan, nơi tù nhân được chính phủ cho một giờ đồng hồ/tuần để “chăm sóc tâm linh” trong khu vực nhà tù gọi là Silent Center (Trung Tâm Tịch Lặng). Chính trong các giờ tiếp xúc tù nhân như thế, Cuong Lu đã dạy về căn bản Phật học và hướng dẫn Thiền tập.
       Trong khi đó, tuyệt vời là Jimmy Santiago Baca (thường được gọi tắt là Baca), từ trong tù mới bắt đầu học chữ và học Thiền, nhiều năm sau trở thành một nhà thơ nổi tiếng của Hoa Kỳ, trong khi bản thân ông thường xuyên được mời đi thuyết trình có khi về thơ văn, có khi về Thiền tập.
       Nhà thơ Baca  sinh ngày 2 tháng 1/1952 tại tiểu bang New Mexico, mang trong người dòng máu Mễ Tây Cơ và thổ dân da đỏ Apache. Ba mẹ rời bỏ khi Baca mới 2 tuổi, và một người bà (nội hay ngoại) đón về nuôi, khi Baca được 5 tuổi thì đưa vào trại mồ côi. Năm 13 tuổi, Baca trốn ra bụi đời, sống trên đường phố, tới năm 21 tuổi thì bị bắt vào tù về tội ma túy. Trong khi ở tù, Baca tự học đọc, viết và làm thơ, gửi thơ tới tạp chí Mother Jones và thi tập đầu tiên được tạp chí này xuất bản và phát hành. Baca nằm tù 6 năm rưỡi, trong đó có 3 năm biệt giam. Trong thời gian ở tù, Baca cũng bán thơ cho các bạn tù để đổi lấy thuốc lá.
       Năm 1979, tuyển tập thơ “Immigrants in Our Own Land” của Baca được nxb đại học Louisiana State University Press ấn hành. Từ đó tới giờ, JSB ấn hành hàng chục tập thơ khác. Năm 1987, tập thơ xuôi nửa-hư-cấu, nửa-tự-truyện nhan đề “Martin & Meditations on the South Valley” thắng giải thưởng American Book Award về thơ, và nổi tiếng quốc tế từ đó, và năm 1989 thắng giải Hispanic Heritage Award về văn chương. Từ đó, Baca mở ra các buổi hướng dẫn sáng tác cho cả trẻ em và người lớn, tại nhiều trường tiểu học và trung học, tại nhiều đại học và trong nhiều nhà tù.
      Baca có bằng Cử Nhân Anh văn, và được trao bằng Tiến sĩ Danh dự về Văn chương từ đại học University of New Mexico.
      Năm 2004, ông thành lập hội bất vụ lợi Cedar Tree, Inc., để hỗ trợ các buổi hướng dẫn sáng tác văn học trong tù, xuyên qua tiền quyên góp từ thiện. Bên cạnh các buổi dạy viết, Cedar Tree đã thực hiện 2 phim tài liệu. Cedar Tree nhận các cựu tù nhân vào làm thực tập sinh.
       Trong một cuộc phỏng vấn trên tạp chí Kenyon Review, ấn bản ngày 8/8/2017, nhà thơ Baca tâm sự với nhà văn K.E. Ogden rằng: “Bạn biết đó, tôi thực tập Zen của Phật giáo, và tôi biết Thiền tập này tốt lành; tôi biết thế nào là quân bình; tôi biết cái gì đúng và cái gì sai…”
       Thỉnh thoảng, nhà thơ Baca cũng thuyết pháp tại một số trung tâp Thiền tập. Trong bài viết vào tháng 3/2010 trên mạng của Trung tâm Thiền tập Upaya Zen Center, nơi có chương trình tuyên úy nhà tù Buddhist Chaplaincy Program, cho biết vào cuối tháng 3 nơi trung tâm UZC đã có buổi lễ tốt nghiệp cho 13 tuyên úy trại giam, và nơi đó đang huấn luyện 43 sinh viên khác cho ngành tuyên úy. Dịp đó, nhà thơ Jimmy Santiago Baca là một trong ba diễn giả thuyết pháp tại Upaya Zen Center.
      Nhà thơ Baca tự nhận định rằng tuy ông say mê các nhà thơ Nga, nhưng ông viết theo văn phong riêng trong dòng máu của ông, người Chicano (Mỹ gốc Mễ Tây Cơ), và “Tôi tìm cách viết để có thể vinh danh người bà (nội/ngoại) của tôi bằng cách bày tỏ kinh nghiệm của bà. Một người bà chưa bao giờ được trả lương cao hơn 1 đôla/ngày khi gặt hái trên cánh đồng. Sáng tác tôi khởi từ ban đầu là một vinh danh những người bị câm lặng vì áp bức. Việc tôi là là tự đứng trên chân của mình và bước tới, và tôi làm như thế xuyên qua ngôn ngữ.”
      Sau đây là bản dịch bài thơ nhan đề I Am Offering this Poem (Tôi Tặng Bài Thơ Này). Nên ghi nhận, chữ “to you” có thể dịch là “tặng em” hay “tặng bà” hay “tặng bạn”… Nơi đây, sẽ dịch là “tặng em”…
.
TÔI TNG BÀI THƠ NÀY
Thơ JIMMY SANTIAGO BACA

Tôi tặng bài thơ này cho em,
vì tôi không có gì khác để tặng.
Hãy giữ nó như một áo choàng ấm
khi mùa đông tới vây phủ em,
hay như một đôi vớ dầy
hơi lạnh không thể cắn xuyên qua,
                         Tôi yêu em,
Tôi không có gì khác để tặng em,
do vậy đây là một nồi đầy những bắp vàng
để làm em ấm bụng trong mùa đông,
nó là chiếc khăn để trùm đầu em, để mang
trên mái toc em, để buộc quanh khuôn mặt em.
                         Tôi yêu em,
Hãy giữ nó, trân trọng bài thơ này như em có thể
nếu em đi lạc, cần dò hướng đi
trong hoang dã, đời sống trở thành khi già dặn;
và trong góc ngăn tủ của em,
ẩn giấu như một chòi gỗ hay căn lều
trong cây dầy đặc, hãy tới gõ cửa
và tôi sẽ trả lời, sẽ chỉ em hướng đi
và để em tự sưởi ấm bằng lửa này
nghỉ ngơi bên lửa này, và làm em cảm thấy an toàn
                         Tôi yêu em
Thơ này là tất cả những gì tôi phải tặng
và tất cả những gì bất kỳ ai cần để sống
và tiếp tục sống bên trong
khi thế giới ngoài kia
không còn bận tâm dù em sống hay chết
hãy nhớ rằng
                      Tôi yêu em.
(Trong thi tập “Immigrants in Our Own Land and Selected Early Poems”)
.
       Bài thơ sau đây cũng là điển hình văn phong Baca, nhan đề “Into Death Bravely” (Vào Cái Chết Một Cách Can Đảm), hình ảnh mùa đông là chiêm nghiệm cái chết, có thể hiểu theo tinh thần Phật giáo là niệm tử, hoặc tổng quát hơn, là đối diện Khổ đế..
 
CAN Đ ẢM BƯC VÀO CÁI CHếT
Thơ JIMMY SANTIAGO BACA

Mùa đông
xô ngã cái khiên trắng lớn của chàng
quăng rớt xuống đất,
bẻ gãy những cành mỏng từ các cành cây xoắn
và rồi hú lên
nơi phía bắc của Black Mesa
một tiếng cười sâu và trầm.
Bởi vì chàng
chúng tôi phải bán gia súc của mình
gia súc phải ủi tuyết để tìm rơm
Đã sống trọn đời chàng
trong vài tuần lễ nữa
chậm và ưu tư, chàng đã bước đi xa
kéo cái khiên khảm bạc
xuống các cành cây
và trên mặt đất
chàng tiếp tục bước đi chậm rãi
vào cái chết
một cách can đảm.
("Into Death Bravely" từ tuyển tập thơ Black Mesa Poems)
NG

GHI CHÚ: