Lương Thư Trung
Bìa Khi
Loài Sâu Biết Khóc
Bạn
ơi, nhớ hồi ấy, năm 2004, nhóm văn Nghệ Boston, tổ chức giới thiệu sách của bốn
tác giả nữ gồm có Nguyễn Thị Thanh Bình (Virginia), Thu Thuyền (Dallas, Texas),
Hạ Uyên (Boston) và Hoàng Thị Bích Ti (Virginia). Tôi có mua tập truyện dài “Khi Loài Sâu Biết Khóc” của Hoàng Thị
Bích Ti. Vậy mà rồi, mới đó mà cũng đã lâu rồi, có tới mười bốn năm!
Từ trái:
Nhà thơ Triều Hoa Đại (Florida), nhà văn Song Thao (Montréal, Canada),
nhà văn
Hoàng Thị Bích Ti (Virginia), nhà thơ Phan Xuân Sinh (Boston) và nhà thơ Nguyễn
Xuân Thiệp (Dallas, Texas).(Hình nơi trang nhà của nhà văn Song Thao, năm
2004).
Nhớ
lần đó, mới nghe cái tựa sách thôi, tôi đã nghĩ làm gì có loài sâu nào biết
khóc? Có lẽ vì phụ nữ có thêm giác quan thứ sáu, nên mới nghe ra được tiếng
khóc của một loài sâu! Bởi lẽ giản dị là, nếu một người con trai viết văn, chắc
gì họ đã khóc dù khóc cho một cuộc tình không trọn của chính họ, nói gì nghe
được tiếng khóc của một loài sâu? Cái giới tính, nam và nữ, trong nghề viết văn
nó lộ ra từ cái tựa rất ư sướt mướt và buồn thảm ấy! Và rồi, một truyện dài
không có lời màu mè gì ở ngay trang đầu tiên của Chương Một, bắt đầu bằng một
màu vàng của màu lá tháng mười:
“Tháng mười, lá vàng
ơi là vàng…”
Bạn
thấy chưa? Bạn đọc được ở đâu đó một nhà văn con trai nào nhập đề bằng một màu
vàng đầy hấp dẫn như vậy lần nào không? Rồi, xin mời bạn theo bàn tay chỉ của
tác giả lướt qua một chút không gian của mùa lá tháng Mười:
“Khoảng giữa tháng, lá
đổi màu thật nhanh. Mới vài ngày trước đây cây còn xanh lá. Qua vài trận mưa,
trời trở lạnh, cỏ cây bắt đầu nhợt nhạt như người đang kiệt sức. Lá vàng võ, ủ
ê. Thoắt đi vài hôm, lá ngã sang một màu đỏ bầm, vàng ráng. Rừng phong rực rỡ
như nàng vương phi trong tà áo ngũ sắc, từ tạ quân vương lần cuối cùng trước
khi lui vào chốn lãnh cung. Bầy chim phản trắc, bỏ rừng đi gần hết. Những chú
nai con thấp thoáng bên ven rừng. Thỉnh thoảng có con nằm chết một mình bên lề
xa lộ. Cái chết đến bất chợt ở chỗ không ngờ. Trong sân nhà ai, chiếc kén sâu
tiêu điều treo lơ lửng trên cành đào khô. Những con sâu bỏ cành, tìm chỗ trú
hay đã hóa thân thành đàn bướm nhỏ từ Xuân trước.” (KLSBK, trang 7)
Thê
rồi qua đó, bạn sẽ theo dõi suốt 247 trang sách qua 26 chương với các nhân vật
cả đàn ông lẫn đàn bà, mỗi người mỗi nét! Nào là Huệ với ông chồng người Mỹ có
cái tên là Wayne, và cái cách quen-quen ưa gọi chồng bằng “thằng” hoặc bằng “nó”
với một cách nói chuyện rất ư bình dân, nghĩ sao nói vậy mà tác giả gọi cách
nói như vậy là một thứ “ngôn ngữ trống
không” mà rất thương người khốn khó:
“Cô thường bắt đầu
bằng những câu như: “Biết hôn? Hôm qua, … biết hôn? Hồi đó nhà mình nghèo lắm.
Cơm hổng có mà ăn. Bà già nuôi hổng nổi mới giao cho người bà con nuôi giùm.
Nuôi giùm cái búa! Ở đợ không công thì có! Vậy mà tối ngày cứ bị thằng con của
bà chủ hăm he đánh hoài! Hôm nào nó khảo không ra tiền của mẹ nó là nó kiếm
chuyện! Biết hôn? Có bữa nó đánh chảy máu đầu, máu ra lênh láng. Bà già sợ có
ngày ông quí tử đi tù nên đưa mình đi ở cho người khác. Mấy người này giàu ghê
lắm Ngâu ơi! Họ có phòng cho Mỹ thuê. Tưởng được yên thân rồi, vậy mà … Biết
hôn? Bữa đó đang đi làm bị thằng Mỹ già nó hãm. Hãm xong nó cho mấy đồng bạc
rồi đuổi về. Hồi đó sao mà ngu ghê Ngâu ơi! Hổng biết gì hết trơn hết trọi. Đâu
biết mất trinh là cái gì đâu, cứ tưởng là có tháng! Rồi cũng xong! Sống lây lất
một thời gian thì gặp thằng Wayne, nó đem về Mỹ luôn. Đẻ cho nó hai đứa con… Vậy
mà cũng sống với nó cũng cả chục năm trời! (KLSBK, trang 17)
Rồi một nhân vật nữa là Ngâu, một người con
gái có cha là ông Thanh nhưng không gọi cha bằng Ba mà lại gọi bằng “bác”, sau này yêu thương Đính, một
người đàn ông có vợ là bà Mai còn bên quê nhà để rồi cuộc tình ngang trái ấy
làm cho Ngâu bao phen phải lụy vì tình. Còn ông Thanh, ba của Ngâu, trong vai
người chồng hờ của bà Ánh trong một chuyến vượt biển khi bị bọn hải tặc hãm
hiếp, nhiều lần ông van lạy bọn đàn ông cướp biển buông tha cho người đàn bà
đẹp ấy nhưng rồi ông cũng bất lực nhìn cảnh bọn quỷ dữ hãm hại người!
Thêm nữa, nhân vật có tên Lâm, còn trẻ mà
dường như bị bịnh trầm cảm nặng, mà nguyên do là có lần ông chứng kiến cảnh cha
mình bị người ta kéo lê trên boong tàu, trên đường tị nạn, tác giả viết:
“Chị biết không?
Chúng nó hô hoán lên là bố tôi ăn cắp vàng của nó. Thế là mấy thằng quân cảnh
Mỹ ào đến bắt bố tôi. Chúng trói quặp ông lại, tròng vô cổ ông tấm bảng lớn với
hàng chữ đỏ: “Kẻ cắp!” (…) Bố tôi là một người vô tội! Vậy mà tôi không giúp
được ông. Không thể giải oan cho ông. Tôi là một thằng con trai bất tài! Còn bố
tôi? Thanh liêm một đời, trong sạch một đời rồi rốt cuộc cũng bị chiến tranh
làm cho hoen ố!” (KLSBK, trang 47)
Ngoài ra, còn có thêm vài nhân vật phụ như ông
Mục sư nhà thờ, như Helen, Jack, David, Paul, vợ chồng Hoành &Thu, ông
Phong ba của Hoành và cũng là ba chồng của Thu, rồi còn có Tuấn, Đạt, Khuê
trong nhóm được gọi là tạp chí “Thân Hữu” vân … vân…
Tất cả những nhân vật trong truyện như tôi
vừa lướt qua một chút được tác giả cho chảy tràn lên biển đời đầy bão dông, dâu
bể của mỗi người… Tất thảy, qua những chương sách, họ nhập vào dòng sống tha
hương của những người bất chợt gặp nhau như những định mệnh của cuộc đời mà họ
không có quyền chọn lựa! Dường như muốn diễn tả cho hết từng ấy những nhân vật
nhiều như vừa kể có lẽ tác giả phải sống với từng nhân vật của mình rất lâu để
có thể diễn tả hết những bất trắc, những nghịch cảnh, những tâm lý giữa người
này với người khác đã là một điều mà, với cảm tưởng của một người đọc nhà quê
già như tôi, tôi nghĩ đã là một điều rất đáng nể ở tác giả rồi!
Từ trái: Nhà thơ Tô Thùy Yên (Houston), nhà văn Thu
Thuyền (Dallas),
nhà văn Hoàng Thị Bích Ti (Virginia), nhà thơ Đức Phổ
(Atlanta). [Houston,
dịp giới thiệu tác phẩm Tát Cạn Đời Sông của Phan Xuân Sinh,
ngày 20 tháng 7 năm 2013]
Dĩ nhiên rồi, tôi không muốn kể cho bạn nghe
về cuộc sống của đôi vợ chồng Huệ & Wayne, vợ chồng mới của ông Thanh &
Ánh, tình cha con giữa ông Thanh và Ngâu, cuộc tình của Ngâu & Đính, đời
sống của ông Tâm, công việc mà Helen & Ngâu cùng các người khác như Jack,
David làm trong nhà thơ Tin Lành của một vị Mục sư chuyên nhận các thư từ của
hằng ngàn tín hữu gởi tới nhà thờ mỗi ngày mà ít người bên ngoài biết được… Và
còn nhiều nhân vật phụ khác xoay quanh chủ đề mà tác giả muốn gởi gắm… Ở đây
tôi chỉ muốn gợi cho bạn một vài nét khái quát về cách dựng truyện như vừa kể của
tác giả, nó vừa có lớp lang, thứ tự, mà cũng vừa có những cảnh rất hợp với số
phận của mỗi người mà tôi nghĩ cách bố cục như vậy là khá chặt chẽ!
Thứ đến là về phép tả cảnh và tả người. Dường
như là tác giả Hoàng Thị Bích Ti có cái diễm phúc là được trời ưu ái ban cho
tác giả cái chất phụ nữ với nhiều giác quan mẫn cảm cùng với cái vốn lãng mạn
của tâm hồn, chẳng những tác giả đã nhìn ra được những khía cạnh tâm lý qua
những cảnh đời bất trắc khác nhau ấy, mà còn quan sát được sự biến đổi của
thiên nhiên trời đất qua từng mùa màng nắng sớm mưa chiều với cái man mác buồn
của mùa Thu, cái lạnh cắt da của mùa Đông, cái tươi mát của mùa Xuân và cái ấm
áp của mùa Hè để rồi tác giả ngồi xuống với một chút chú tâm làm cho những dòng
chữ cứ thoăn thoắt chảy tràn lên từng trang sách một cách thật trôi chảy, không
ngừng… Tôi không nghĩ tất cả những chương sách trong truyện dài Khi Loài Sâu Biết Khóc là hoàn toàn có
thật nhưng nếu vậy thì qua tài viết truyện của Hoàng Thị Bích Ti, tôi nghĩ tác
giả đã khắc họa lên được những chi tiết gần như thật vậy!
Ngoài ra, cũng xin ghi nhận thêm ở đây cái
nét đặc biệt ở những câu văn đối thoại của tác giả thì hết sức tự nhiên, không
gò ép… Chẳng hạn, tôi không chọn lựa trước, bất chợt tôi đang đọc mẩu đối thoại
dưới đây, ở chương 25, xin ghi lại cùng bạn:
“Đặt ly cà phê xuống
bàn, Helen quay xuống cười tủm tỉm, tay đặt úp một tấm ảnh xuống trước mặt
Ngâu, mặt đầy vẻ bí mật. Ngâu cầm lên, lơ đãng hỏi:
“Gì thế này?”
Helen hớn hở, thúc
giục:
“Xem đi.”
Ngâu lật tấm ảnh lên,
tròn mắt:
“Con ai đây?”
Helen cười, mắt rạng
ngời kiêu hãnh:
“Con tớ đấy!”
Ngâu ngỡ ngàng:
“Dễ thương quá! Tàu
hay Thái Lan?
“Tàu. Con bé xinh quá
phải không Ngâu? Con mắt sao mà nhỏ và dài như hai lá trúc. Vừa thấy hình nó là
tớ thương liền.”
Ngâu cười:
“Helen muốn xin nó về
nuôi à?”
Helen gật đầu, mau
mắn:
“Ừ, tớ và Jack đang
lo giấy tờ.”
Ngâu không tin ở tai
mình:
“Jack à ? Jack cũng
bằng lòng rồi sao?”
Helen cười rất tươi:
“Thế mới hay! Anh
chàng còn sốt sắng hơn cả tớ nữa kia.”
Lòng khấp khởi mừng
cho bạn, Ngâu cười:
“Vậy sao?”
Helen hạ giọng:
“Thật ra con bé này
có một hoàn cảnh rất đáng thương. Không ai đành lòng để nó sống trong cô nhi
viện, nhất là Jack. Bề ngoài anh chàng hùng hổ như con gấu nhưng tâm hồn thì
lúc nào cũng bao dung và hiền như trẻ thơ. Ngâu xem, chưa đầy một tuổi mà gương
mặt của nó thông minh sáng sũa làm sao…”
Ngâu vui vẻ:
“Ừ!”
(KLSBK, chương 25,
trang 220)
Có lẽ bạn thấy không cần thêm bớt hoặc chấm
phết lại ra sao, cho gọn hơn, và tự nhiên hơn như cách tác giả diễn tả trong
mẩu đối thoại vừa rồi phải không? Riêng tôi thì tôi đành chịu, không dám sửa đổi
hoặc thêm bớt một chút gì! Còn nhiều lắm những đoạn văn tiêu biểu như vừa dẫn…
Và ở chương cuối, tác giả kể:“Trên chiếc băng ghế của hai chú nhỏ ngồi
với mẹ khi nãy có cặp tình nhân đang ngồi đan tay trong nhau, thì thầm những
ngôn ngữ của tình yêu. Đâu ai biết rằng,
khoảng nửa giờ trước đây có con sâu nhỏ đã sống trong những khoảnh khắc cực kỳ sợ hãi.” (KLSBK,
trang 246). Tôi chợt nhớ có lần Helen tâm sự với Ngâu về tiếng khóc của một
loài sâu:
“Khi loài sâu biết
khóc là khi nỗi đau khổ của con người đã trở thành vô biên, vô vị. Thượng đế ở
trên cao làm sao nghe được tiếng kêu của chúng nó phải không Ngâu? Tiếng kêu
thấp lắm…, nhỏ nhoi lắm Ngâu ơi! Cúi xuống. Cúi xuống đi! Cúi xuống! Ngâu sẽ
nghe được tiếng khóc của nó! Cúi xuống, Ngâu sẽ nghe được cả tiếng khóc căm
lặng của chính mình!” (KLSBK, trang 146).
Có thể nói, sau khi đọc lại truyện dài “Khi Loài Sâu Biết Khóc” của Hoàng Thị
Bich Ti, tôi có cảm tưởng như đây là một thể văn“tả chân tâm lý”, một loại vừa tả chân vừa chuyên chú vô phần tâm
linh của con người, xem đó là động cơ quan trọng nhất, cần thiết nhất để vẽ lại
những cảnh đời chìm nổi của con người cứ bị hoàn cảnh đẩy đưa, trôi giạt mãi
hoài … Gắp sách lại rồi mà sao lòng tôi dường như nghe ra có chút gì nao nao về
“tiếng khóc của một loài sâu”, đâu
đó, quanh đây!
HAI TRẦU LƯƠNG THƯ TRUNG,
Houston, ngày 22
tháng 11-2018
(Ngày lễ Tạ Ơn)