Tuesday, August 9, 2011

Anh vái trời 

Lưu Na



…cô thích cải lương

Thích kẻ hùng anh diệt bạo tàn

Mốt mai thê thảm quanh đời sống

Cô sẽ còn đôi chút lạc quan…


   Mới lớn tôi nghĩ Nguyễn tất Nhiên gàn.  Đã vái thì vái cho “cô” yêu anh, vái chi chuyện thích cải lương.  Tai hại lắm.  Thích cải lương cũng tương đương với thích nhạc sến, con gái sẽ bị chê nhà quê, con trai sẽ bị gọi là cả quỷnh, là cù lần, là nẫu, v.v…  Thời tôi lớn lên là phải nhạc phòng trà (là nhạc gì tôi cũng không biết, chưa đủ tuổi đi phòng trà!), nhạc tuyển Mây bốn Phương, nhạc Pháp nhạc Mỹ.  “Tâm tư” hơn tí thì nhạc Trịnh công Sơn nhạc Phạm Duy.  Tôi cắm đầu mê Thanh Lan Thanh Mai Nguyễn Chánh Tín Bích Trâm Lệ Thu Khánh Ly Thái Thanh…, tôi ông ổng mấy bài nhạc ngoại quốc lời Việt.  Cải lương tôi bị nghe mòn cả tai, nhạc sến nhạc lính tôi thuộc cả ngàn bài, chả tích sự gì mà còn phải giấu. 

   Rồi tôi được trao vào tay cái thứ mình không mặn mà ấy.  Sau vài năm định cư, tôi lấy được việc làm lương khá và thôi học.  Mà không thôi cũng không xong, vì phải làm ca đêm.  Ngồi soạn thư vẹo cả người, tay vẫn gõ máy mà mắt thì nhắm và đầu gật gù không thấy xếp đang đứng trước mắt.  Vào cái lúc tôi sắp té ra khỏi ghế thì Mèo Con vịn nhẹ vào vai và dí vào tay tôi băng cải lương Lương sơn Bá Chúc anh Đài.  Thủ thỉ, dỗ dành, nghe thử đi, nghe đại đi, cho đỡ buồn ngủ.  Thì nghe.  Tôi tỉnh ngủ.  Tôi bắt đầu lắng nghe xem những câu hát đó ý nghĩa gì.  Dần dà tôi nghe đủ thứ tuồng, loại đánh kiếm có vua quan_sau được biết gọi là tuồng hương xa, cũng như loại thời đại gọi là tuồng xã hội.  Nghe tuồng chán chê, tôi lấn qua tân cổ giao duyên, rồi Chế Linh Thanh Tuyền Phương Dung Phương vân vân.   

Chao ơi, tôi nhớ tha thiết anh Hùng tôi thuở ngồi gác nhân dân tự vệ ở đầu xóm.  Anh ôm đàn ghi ta hát những câu nhạc lính não nề.  Đến phiên bạn anh gác, anh Ba Gà hát Võ đông Sơ Bạch thu Hà thì anh Ngọc đàn.  Vài năm sau anh Hùng vào Hải quân lái HQ603 đi hoài, 6 tháng mới về 1 lần.  Tôi lẩn thẩn nhớ các chị giúp việc.  Chị Hoa mê cậu chủ là anh Hùng tôi nên thường mặc áo thun bó vào người mỗi khi anh về phép.  Chị Ba Cổ Cò tóc mướt dầu dừa và có cài răng vàng thì nhất quyết về quê tát đìa (?) dịp Tết dù Má nói cho tiền thưởng nếu ở lại.  Cứ 11 giờ trưa, giờ mấy chị nấu cơm trưa, là Ra dô ông ổng, không nhà mình thì nhà người.  Lúc thì Lệ Thủy véo von “em biết yêu từ năm mười sáu tuổi nhưng nói ra chỉ sợ các anh cười,” lúc thì Thanh Tuấn Thanh Kim Huệ “mình về đường ấy thì xa để anh bắc cầu cái về qua Ninh bình…” 

Dần dà, cả kho nhạc sến và tuồng tích cải lương trong đầu tôi được khơi ra theo với những băng nhạc cứu tỉnh của Mèo Con.  Tôi nhớ vanh vách, Ba đã từng bàn rằng giọng Út Bạch Lan buồn vời vợi dù không hề than khóc, Ngọc Giàu ngọt lịm như mật và dài hơi vô câu vọng cổ hai mươi mấy chữ không hề ngắt nhịp lấy hơi… Tôi nhớ giọng buồn nghẹn ngào của Thanh Sang, giọng buồn da diết đắng cay của Hữu Phước, giọng buồn thấm đọng của Út Trà Ôn, giọng hào sảng uy phong của Thành Được, giọng đầy sức sống của Hùng Cường…  Tôi nhớ lũ bạn trẻ con hàng xóm tối tối cặp dép vào nách, bước vô nhà mắt len lét nhìn Ba, chân đi dọc một bên tường đến cuối nhà leo cầu thang lên gác coi ké tuồng Yêu người điên của đoàn Dạ lý Hương chiếu trên TV đen trắng. 

Hóa ra, gốc tích xóm nghèo và nhà quê vẫn còn trong tôi. 

Dầu vậy, tôi vẫn chưa cam tâm với cái sắc màu của mảnh hồn quê ấy!  Ở xứ mà cái gì cũng có thể thử, tôi vác xác xin gia nhập ca đoàn, học thuộc sẵn một bài nhạc sến để thử giọng.  Anh nhạc trưởng đã không đòi hỏi tôi hát thử nên may cho tôi không phải hát và may cho anh không phải nghe.  Sau này, nhiều lúc anh cự nự tôi hát giọng Bôn Sa, tôi thách anh hát được giọng đó và anh thua.  Vậy, tôi cứ tà tà đi hát trong ca đoàn và tối đến vẫn nghe cải lương, hát nhạc sến.  

Chỉ đến khi nghe Hoài Nam phân giải trong 70 năm tình ca, tôi mới hiểu sao nhạc sến (ông Hoài Nam gọi là nhạc thời trang hay nhạc quê hương gì đấy) đã chạy tuột vào lòng tôi dễ dàng đến vậy. Và mãi đến khi có anh bạn xa oang oang nhận mình có hồn cải lương thì tôi mới dám dơ cao tay: em nữa.  Tôi mê cải lương, dứt khoát là vậy rồi.  Tôi giật mình nghe Minh Phụng ngân nga câu thơ Xuân Diệu hãy đốt đời ta muôn ánh lửa, cho bừng tia mắt đọ tia sao…Tôi phơi phới nghe Thanh Tuấn bỏ chữ câu cuối cùng em về nếu có quên anh, xin đừng quên..tấm..chơn(ơ)tình…ngày nay và thầy đàn cũng rallentando theo rồi đàn hát cùng kết câu một cách nhịp nhàng hòa điệu mà nhớ quê đau đớn (quê tôi là Sài gòn, nhưng ở đất người thì Sài gòn Đại lãnh gì cũng “the same difference”).

Tình quê hương có mặn mà hơn trong lòng tôi vì những câu tân cổ giao duyên không, tôi không dám quyết.  Nhưng qua cải lương hay những bản tân cổ những bài nhạc sến tôi thương những bóng hình chưa hề biết mặt, nhớ những miền đất tôi chưa có dịp hình dung.  Tuồng xưa, tôi học thêm được nhiều điển tích nhiều chữ.  Tuồng xã hội, tôi biết thêm được chiều sâu của những giòng sông.  Tôi thấy những ông thầy tuồng như biết nhiều chữ Nho, sách Tàu, cảm như các vị ấy có học và rất rành tâm lý người chung quanh.  Tuồng cải lương có tuồng còn tựa như phim Mỹ, based on true story!  Như Tuyệt tình ca 1, chi tiết về cuộc tình duyên của ông cò quận 9 với người vợ hai là cô giáo ở Vĩnh Long giống như chuyện Nguyễn Hiến Lê tự thuật trong hồi ký!!

Và cái cách người xưa đóng tuồng mới đáng mê.  Chỉ cần nghe họ hát mà thấy được chuyển biến tâm tư, thấy được nhiều vai nhiều vẻ.  Nghe Hùng Cường trong Tuyệt tình ca 1 chỉ trong vòng 15 phút thấy được một thanh niên rắn mắt nhưng có suy tư có tâm hồn, bồng bột và đang yêu, dù phá phách vẫn giữ lễ phép và có giáo dục gia đình.  Bạch Tuyết chỉ trong một câu hát chuyển từ cái giọng đanh đá qua dọ dẫm lẳng lơ, và đến cuối câu nói thì chỉ còn là một cô gái hiền lành với chút nỗi bùi ngùi ngơ ngẩn.  Họ hát bằng giọng khỏe chắc và đầy cảm xúc đúng tâm tình, không như những ca sĩ bây giờ: tân nhạc chỉ cốt khoe giọng khỏe bài nào cũng gào cũng róng riết đau thương, cổ nhạc chỉ cốt khoe dài hơi, vô vọng cổ câu nào cũng uốn éo như đang trên roller coaster. 

Ngày nay nghe lại những câu hát, những tuồng tích, tôi càng quý các nghệ sĩ đã góp tiếng góp tuồng góp bài hát làm nên một mảnh văn hóa Việt.  Tuồng cải lương, bài tân cổ, nhạc sến, nhạc lính, bấy nhiêu thứ đã đưa tôi lại gần những miền đất những con người những cuộc sống của quê hương.  Đứng nơi xứ người dù quê hương chỉ là những bóng chưa gặp những đất chưa qua tôi vẫn thấy yêu tha thiết.  Thoạt nghe ai đó bảo văn xuôi hải ngoại có tính hoài niệm tôi buồn.  Nhưng gẫm lại thấy đúng.  Mà cuống rún chưa lìa cũng chỉ nhờ một chút hoài niệm đó thôi.  Vài mươi năm nữa, nếu có 1 phần trăm lứa trẻ lớn lên nơi đất người đọc trang viết cũ nghe câu ca xưa mà thương mà nhớ một quê hương mất bóng không quý sao.  Tôi chưa sinh ra để biết Sáu Lầu, tôi đọc thơ mà chưa bao giờ gặp Nguyễn Tất Nhiên.  Bây giờ tôi thương họ hết sức.  Tôi cũng vái như Nguyễn Tất Nhiên.

Lưu Na

08/01/2011


  

No comments:

Post a Comment