Triều Hoa Đại
Lê
Chiều Giang April 2021
LCG
cùng gia đình rời Việt Nam năm 1984.
Hiện
sống tại California
Độc giả và văn hữu vừa ngạc nhiên, vừa thích thú đón nhận những hương thơm trong vườn thơ rất lạ.. Thơ của Lê Chiều Giang đọc lên nghe vừa bương bướng, vừa quyết liệt lại xa xót, ngậm ngùi. Thú vị hơn nếu trên tay có một ly rượu chát với chút ánh đỏ của ráng chiều, và rồi hãy nhẩn nha cùng nhau đọc thơ của Lê Chiều Giang. Hoặc với một ly cafe ngát thơm đầu ngày nắng gọi thì mới thấy, thì mới ngấm đến tận cùng cái thú của đọc thơ.
Vậy thì Chiều Giang là ai? Bạn bè trong giới thầm hỏi, và rồi biết được rằng Lê Chiều Giang là hiền thê của cố họa sĩ Nghiêu Đề một hoạ sĩ tài hoa, một người mà trái tim luôn luôn mở rộng để chào đón bạn bè.
Những bài thơ của Lê Chiều Giang như những kỷ niệm được cất giấu, như những êm đềm một thuở xa xưa ấp ủ bỗng giờ đây thức giấc với nhân gian, Lê Chiều Giang và cố hoạ sĩ Nghiêu Đề đã một thời sống với, sống cùng, rất tha thiết với bạn bè. cho nên trong phần mở đầu tập: Không Đứng Mãi Trong Tranh nhà văn Nguyễn Thi Thuỵ Vũ đã viết:” Chúng tôi sẽ đọc Lê Chiều Giang, những dòng chữ chảy lui về quá khứ. Một quá khứ của thời đã “ chết đi, sống lại”.
Trò chuyện với Lê Chiều Giang hôm nay chúng ta sẽ tìm lại những gì đã mất, chúng ta sẽ với nhau (hy vọng) sẽ cùng hát lên những bài ca của Sài Gòn thuở trước với Nguyễn Đình Toàn, với Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, với Nghiêu Đề, với Lê Chiều Giang ở những đêm trăng sáng nơi thuyền trôi tưởng như cùng với Lưu Nguyễn đi vào cõi mộng.
Nắng đã lên cho một ngày mới. Xin mời mọi người hãy cùng tôi, chúng ta cùng nhau vào chuyện với nhà thơ Lê Chiều Giang.
Sông Thanh Đa có chiếc ghe của bà Mười đưa khách từ Làng Báo Chí qua lại. Với chiếc ghe nhỏ xíu đó, chị Nguyễn Thị Thụy Vũ và anh Nguyễn Đình Toàn đến chơi Thanh Đa thường hơn. Mỗi lần chị đứng bên kia sông réo gọi, và anh Toàn đưa tay vẫy...
Chúng tôi luôn có với nhau những bữa cơm rất tội nghiệp, chỉ một tô canh thôi, và tôi thường phải giải thích với chị Thụy Vũ: "Thấy chị qua em đã thêm nước vô cho nó nhiều". Anh Toàn hỏi thêm trước khi cầm muỗng: "Thêm nước thì hiểu được, nhưng rồi Chiều Giang có nấu lại không?" Vậy đó thôi mà cười tung toé.
Bóng trăng có khi bị che khuất bởi những tàn cây ven sông, và bóng tối như đã ôm ấp tiếng hát nghìn trùng của chúng tôi, trải dài những âm vang dặt dìu xuôi theo dòng nước.
[Trích:”Nghĩ với Trần Quang Lộc” KĐMTT]
Bác sĩ, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc ông cứ thắc mắc:” không biết nên gọi KĐMTT là gì cho đúng?, Tuỳ bút? Không phải. Tản mạn? không phải. Viết ngắn? không phải. Thơ…ừ, thơ “Đúng là thơ rồi”, nó cuốn hút, nó xao xuyến, nó ray rứt…“ [Trích Đỗ Hồng Ngọc]. Đọc mãi tìm hoài, cuối cùng ông đã tìm ra KĐMTT là thơ. Còn chị thì mọi người nên gọi thế nào cho chính danh?
Họa sĩ Trịnh Cung hay anh Phan tấn Hải khi viết bài điểm sách về cách tôi viết. Thiên hạ cứ nhất định cho rằng tôi viết gần như một bài thơ dài.
Chữ nghĩa, với tôi tự nó muôn đời đã lả thơ. Như đôi khi dù tôi đã gửi bài cho những tạp chí cả tuần rồi, tôi vẫn hay gửi lại chỉ vì muốn sửa một chữ nào đó, cùng một nghĩa, nhưng âm giai khi đọc nó không bị gượng ép. Vậy mà tôi vẫn không nghĩ mình đã viết như thơ, hình như nó lại là như…hát.
Như một sự phải “Bước ra với đời", nên tôi “Không đứng mãi trong tranh". Trong bài thơ “Đầu hàng”, tôi tâm sự rằng: Sau những năm dài, vai góa phụ tôi đã “diễn” xong. Hăng hái lắm, tôi trở lại với đời, nhưng tôi lạc lõng, và khi nhìn chung quanh chỉ còn là những úa tàn, khô héo, nên tôi lại phải:
Diễn tiếp.
Hỡi thế gian. Ta
Bỏ cuộc chơi.”
[Trích “Đầu Hàng”. KĐMTT]
Đã xong.
Thì đi bước nữa. Rồi
bước nữa.
Bảy tỷ!
Nhân gian chẳng thiếu ai
Chợt nghe trong gió lời bạt mạng
Chẳng thiếu ai, vẫn thiếu …
Một người.”
[Trích:”Cinema" KĐMTT]
Đặc biệt nhất anh thường nói với bạn bè, không ai nhận xét tranh Nghiêu Đề đúng bằng Bé Búp. Khi cô con gái 3 tuổi của chúng tôi nửa đêm dụi mắt, chập chững ngang qua chỗ anh Nghiêu Đề đang vẽ, buông lời phê phán:” Bố vẽ con Ma,…”. Và anh nhận ra Bé Búp mới là người phê bình tranh Nghiêu Đề chân thực nhất, đúng nhất.
Thú vị hơn nữa, khi anh được Medal cho giải Hội Hoạ năm 1962. Một bạn thân từ Huế lang thang vô Saigon, Nghiêu Đề đã tặng để bạn bán đi cho những bữa Cơm Xã hội và những ly nước mía. Với anh, sống là một cuộc vui chơi cùng bè bạn, Medal hay gì gì đi nữa, cũng chỉ là những phù phiếm, bọt bèo.
“Định mệnh” là những gì rất lạ lùng, và vô cùng khó hiểu.
Nhưng để sáng tạo ra một bức tranh, bên cạnh tài năng, Họa sĩ còn phải là người kiên nhẫn.
Anh Nghiêu Đề khi vẽ xong tranh, nếu không bằng lòng chi tiết nào đó, có khi Anh cần cả tháng hay lâu hơn thế để vẽ lại. Thơ thì dễ hơn nhiều lắm, dù như anh nói “cứu cánh” đều như nhau.
Thơ “hay"? Thôi, tôi đành coi là…Hôn lễ của trần gian như ý của anh vậy.
Có thể tôi không có khả năng làm thơ dài, hay viết ra những truyện kể lê thê bất tận…Tôi thích sự vừa đủ.
-...Tố!
-Ta tố hết:
Đời.
Canh bạc cuối
Người dám cùng ta. Chấp?
cuộc chơi.
Hay thôi,
ngồi lại ta cùng uống
Bàn chuyện nhân gian vá đất trời
Nói về trăng tan và
Tuyết nguyệt
Một chút hoàng hôn
Chút mưa bay..
Chỉ xin đừng nhắc thêm gì nữa
Chuyện ta yêu người hay
Yêu ai?
[Trích:”Poker” KĐMTT]
Chữ nghĩa chợt đến, như một sáng ngồi trên cỏ mướt xanh, với nắng vàng rực rỡ:
Duy nhất.
Ở giữa rừng gai
Không hoa trái mọc
Đất.
Đá.
rực cháy những lửa
Điêu tàn.
Ta đứng giữa trời
Lặng thinh.
Không khóc…”
[Trích” 1998” KĐMTT]
Những khi hò hẹn, phở chỉ một tô, nước mía lề đường có mỗi một ly. Anh Nghiêu Đề ngồi nhìn tôi uống hồn nhiên như tôi khát đâu đã từ tháng trước…Dễ thương nhất là có một chiều, chúng tôi và anh Trần Tuấn Kiệt ngồi ở La Pagode. Anh TTKiệt màu mè hỏi nếu tôi muốn uống thêm? Thích sữa tôi “dạ”. Đến lúc tôi hối anh Nghiêu Đề cho về, vì giờ hẹn hò của tôi phải chấm dứt khi Thánh lễ hết, và nhà thờ sắp đóng cửa. Anh chần chờ, lần khân…Sau này tôi mới hiểu chỉ tại ly sữa uống thêm của tôi, mà anh Nghiêu Đề phải ngồi chờ để anh TTKiệt hớt hải qua bên Khai Trí tìm xem có Văn nhân Thi sĩ nào lảng vảng, hỏi mượn vài đồng trả thêm cho ly sữa… Và nạn nhân hôm đó là Ngọc Thứ Lang, dịch giả đang giàu có với “Bố Già”.
Khói thuốc Haft & Haft thơm tho, Basto nặng nồng, hay Lucky mờ mịt. Mắt tôi bốc cay với khói mà tưởng như có thêm cả chút nồng nàn, sướt mướt.
Những bức tranh với tên gọi bàng bạc như Thơ.
Anh Trịnh Cung với “Vương Hương”; “Trăng, Chim, Hoa và Nàng” của anh Đinh Cường; Nghiêu Đề với “Vùng Thanh Thoát”; và Nguyễn Trung của “Đêm Chân Không” …
Tôi mê những bức tranh cổ điển của anh Đỗ Quang Em. Ánh sáng và bóng tối, lạnh toát hay vắng tanh, anh đã làm ấm lại trong tranh chỉ với chút ánh đèn dầu le lói.
Và tranh Cù Nguyễn đẹp như một thinh lặng, gắn bó cùng nỗi chết, đâu đó mãi tận cuối chân trời.
Sàigòn, những ngày xao xác cùng chiến tranh, những lửa đạn kinh hoàng Khe Sanh, Quảng Trị...
Đạn lạc tên bay tận những nơi xa vời để bảo vệ cho Sàigòn. Một Sàigòn không tiếng súng.
Và tôi, trốn hết học hành trường lớp. Tôi mê muội theo những hương thơm ngát của sơn dầu, tôi bàng hoàng bên những nét cọ sắc sảo. Nét cọ mà khi dào dạt cùng tranh, đã phải óng ánh hơn những nét bút rời rạc; chữ nghĩa lơ mơ chợt quên, chợt nhớ của tôi trong trường thi, lớp học.
Tôi bị cuốn theo những chiều rực rỡ La Pagode, những đêm Givral hoa đèn lấp lánh.
Và cả với những sáng khi Sàigòn còn mờ hơi sương, lúc phòng tranh chưa mở cửa. Nơi đó, có năm bảy chàng họa sĩ trong Hội Họa Sĩ Trẻ, ngồi nghi ngút cùng café bên góc hè của Continental Hotel, ngay cạnh phòng triển lãm Alliance Française.
Hình ảnh mà sau này tôi xem trong phim tài liệu về những Họa sĩ thuộc thế kỷ 19th: Claude Monet, Rodin, Degas, Renoir, Cezanne… Họ đã có những sáng vang vang bốc khói cùng café, những đêm rượu đổ đầy đường trên phố Montmartre. Họ cũng đã ngồi cùng nhau bên những câu chuyện đầy màu sắc, ấm áp và chan chứa nhiệt tình, không khác gì những vị trong Hội Họa Sĩ Trẻ.
Từ The Boulevard Montmartre tới Đại Lộ Tự Do Sàigòn.
Trăm giấc mơ đã cùng với khói thuốc mịt mù bay, họ say sưa bàn bàn, nói nói về những tác phẩm tinh khôi, nhằm sáng tạo ra nhiều nét khác biệt hẳn với những tàn dư cũ.
Những bước chân reo cho một ước mơ dài: Làm mới, làm thăng hoa thêm cho nền hội họa của Miền Nam Việt Nam…
“...Tôi cafe mỗi sáng, rượu đỏ mỗi tối bên những tranh của Đỗ Quang Em, Nguyễn Trung, Đinh Cường, Nguyễn Lâm, Ngy Cao Uyên, Nguyễn Phước…Những xanh mượt mà. Những vàng ánh xôn xao. Những đỏ thắm như mặt trời, trắng xóa như chẳng còn thấy gì, những âm u lạnh toát trong tranh Nghiêu Đề…
Bắt chước La Dolce Vita, tôi thắp sáng những ánh đèn, tôi tạo ra một không gian ấm áp và bừng lửa. Ánh sáng trầm như nhạc, sắc như gươm đã như ngàn tiếng hét hò trong đời sống tôi: Lặng im.
Ánh sáng như giục giã, như gọi mời, để lắm khi dù đêm đã sắp tàn, những nhân vật vẫn lặng lẽ, vẫn mơ hồ bước ra từ tranh. Họ điềm đạm ngồi uống với tôi, nhắc lại cùng tôi những điều rất xa xôi từ trăm năm cũ.”
[Trích: Nhớ Về Hội hoạ sĩ trẻ. KĐMTT]
Người ta chọn lớp học, trường thi, chọn người để yêu thương và ngay cả chọn nhà, chọn phố…
Nước mắt tôi rơi như sông như suối, khi tôi đã vừa chọn xong chiếc quan tài. Tôi đứng chơ vơ giữa chồng chất áo quan, chọn lựa rất lâu trong kinh hoàng, khiếp sợ. Và cuối cùng tôi đã “chọn” xong. Đêm đó, trăng sáng một cách lạ lùng. Trăng của nỗi chết.
Nhưng mới đây thôi, tuần trước. Trăng đỏ như lửa. Khi nhìn trăng đỏ như máu ai, cũng là lúc tôi nghiệm ra nhiều điều thay đổi, là lúc tôi tập sống với một vầng trăng mới. Chỉ vì, thưa anh: Cũng có khi trăng đỏ.
Kể với anh chút chuyện gia đình. Khi anh Ngô Thế Vinh xuống thăm, nhắn nhủ 3 đứa nhỏ của chúng tôi: đừng theo nhau học ngành thuốc men, như gia đình người bạn trên San Francisco. Gia đình mà 7 người đều là Bác sĩ. Mỹ nó đã chẳng thể nào hiểu nổi. Lập tức anh Nghiêu Đề buông lời bông đùa:” Thôi ông Vinh, 7 đứa bác sĩ trong một nhà thì rất khó hiểu. Nhưng nếu tôi nói rằng:” Thưa bạn, gia đình chúng tôi tổng cộng có 7 Thi sĩ, hay 7 Họa sĩ !”. Thì chắc cả thế giới này sẽ đều không hiểu…
Mang trong tâm thức một đời sống nhiều tai ương, nhọc nhằn. Anh Nghiêu Đề chỉ muốn con cái đừng nối điêu theo lối sống đầy va vấp như chính mình. Nhưng cô út của chúng tôi. Sau khi tốt nghiệp Stanford rồi PHD ở Berkeley… Lại chẳng thiết tha gì với những thứ đã học. Khải Thư nghe theo lời kêu gọi của Art. Ngành Đạo diễn!
Art. Âm vang của những gì đẹp nhất, thanh thoát nhất. Nhưng Art là tiếng nói của một đời sống bấp bênh với rất nhiều bất trắc. Và chắc là ở nơi xa xăm kia, anh Nghiêu Đề đang lo lắng, đang sợ hãi… Anh đành phải thuận theo để cùng mơ ước, mong Khải Thư Nguyễn thành công trong sự lựa chọn đầy thơ mộng này. Thưa Anh.
Và để kết thúc cho có hậu với cuộc phỏng vấn của anh hôm nay, tôi đọc anh nghe một bài thơ ngắn nhất.
Trái tim liều mạng
Dốc hết giang san:
Thế giới?
Nhỏ.
Như vài chiếc lá.
Giật mình. Ta
Chắc phải yêu thôi.
[Trích:”Liều mạng”]