Nguyên
Giác
Tranh Thiền Thạch Kha
Câu
hỏi thường gặp cho một Thiền sư là: nên nói, hay nên im lặng? Hễ nói, là toàn
chữ, là tất cả những gì thuộc về khái niệm hình thành từ quá khứ, là cái khuôn
khái niệm hạn hẹp chụp vào bầu trời mênh mông, là một thế giới dựng lập từ quy ước
xã hội và từ nhân quả của một cộng đồng sử dụng chung một ngôn ngữ; vậy thì,
khi nói, sao có thể hiển lộ được thực tướng của các pháp? Chữ là niệm, là cái của
những ngày hôm qua, là khuôn thước, là khái niệm để giam một thực tại lớn rộng
như hư không; chữ do vậy luôn luôn dẫn tới ngộ nhận, vì là ngón tay, không bao
giờ chỉ ra đúng được mặt trăng. Làm sao để chữ, tức là những khái niệm từ những
cái hôm qua, có thể nói được cái bây giờ, cái đang chuyển biến bất tận và luôn
luôn mới? Nhưng im lặng, rất nhiều khi sẽ là một hố thẳm bất tận, nơi người
nghe không dò ra được lối để đi.
Do
vậy, nhà văn Vũ Khắc Khoan trong tác phẩm Đọc Kinh, khi bình luận về bế tắc của
ngôn ngữ nơi chương “Như lai vô sở thuyết” đã dẫn ra thơ của Thiền sư Chân Nguyên
(1647 - 1726), vị thầy đã khôi phục lại thiền phái Trúc Lâm đời Trần ở Đàng
Ngoài.
Nói
ra là bị kẹt
Không nói cũng chẳng xong
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng.
Câu
hỏi tới đây là: Thiền sư sẽ vẽ gì để người đời thấy được đầu núi ánh dương hồng?
Nhật xuất lĩnh đông hồng… Từng chữ của Thiền sư Chân Nguyên đều là lời tha thiết
dặn dò môn đồ. Núi chính là tâm. Đầu núi, là nơi tâm mới hiển lộ, khi chưa bị vương
vào so đo yêu/ghét, lành/dữ. Như thế, không phải ai cầm cọ vẽ cũng có thể vẽ như
Thiền sư. Dĩ nhiên, nơi đây chúng ta không dám đánh giá bất kỳ ai. Nơi đây sẽ kể
chuyện một vài họa sĩ nổi tiếng vẽ tranh Thiền.
.
HỌA
SƯ LƯƠNG KHẢI
Hầu
như tất cả những người quan tâm về Thiền Tông đều đã từng nhìn thấy tranh của họa
sĩ Lương Khải (c. 1140 – c. 1210). Lương Khải là phiên âm từ Liang Kai. Bậc thầy
hội họa này sinh vào thời Nam Tống, sinh khoảng năm 1140, từ trần khoảng năm
1210. Họa sĩ còn được gọi là Madman Liang (Lương Khùng) vì những nét vẽ
dị thường.
Lương
Khải sinh ở Shandong, làm việc ở Lin An (về sau gọi là Hangzhou). Học vẽ với họa
sư Jia Shigu. Lương Khải trở thành họa sĩ cung đình cho triều đình Jia Tai (Gia
Thái), nơi đây Lương nổi tiếng về vẽ người, phong cảnh và các chủ đề khác. Lương
được trao tặng Đai Vàng (Golden Belt), nhưng rồi Lương Khải bỏ hết tất cả những
gì liên hệ tới cung đình để theo học Thiền Tông (Chan Buddhism). Từ đó, nét vẽ
của Lương Khải phóng khoáng hơn, ít nét hơn, được xem như nét vẽ của tập trung định
lực cao độ và mang vẻ đẹp hồn nhiên của những hiệu ứng tình cờ.
Hai
tấm tranh thường thấy nhất của Lương Khải trong các sách Thiền là: Lục Tổ Huệ Năng
chặt cây tre, và nhà thơ Lý Bạch. Trong tấm tranh vẽ Lục Tổ Huệ Năng, hình ảnh
ngồi, lui cui, chặt cây tre để làm gậy, cho thấy cách nhìn mới trong hội họa
Trung Hoa, đó là mang trang phục rất đời thường để làm chuyện đời thường, chứ
không phải mặc trang phục nghiêm túc và ngồi trên tòa giảng. Tuy nhiên, tranh Đức
Phật Thích Ca Xuống Núi lại có bút pháp trang trọng, như trầm mặc về sứ mệnh hoằng
pháp. Trong khi đó, tranh vẽ nhà thơ Lý Bạch cho thấy như dường nhà thơ lơ đãng
này muốn bước ra ngoài trang giấy. Tấm tranh nhân vật bụng phệ, tóc lưa thưa được
Lương Khải ghi đề tài là “Bát Mặc Tiên Nhân”… cũng là phi truyền thống, nghĩa là
một bậc trí giả (hay bậc thánh) có bụng phệ và đầu hói. Làm sao các hình ảnh bị
suy diễn là không đẹp trong đời thường (bụng phệ, đầu hói) lại có thể mô tả cái
đẹp của trí tuệ, của giải thoát? Đó là nan đề của họa sĩ. Đặc biệt là nan đề đối
với các họa sĩ đã quen vẽ các giai nhân cung đình, những tà áo thướt tha bên
chiếc đàn, những nhan sắc bên bàn rượu để làm vui cho giới vua, quan. Trong thế
kỷ thứ 12 và 13, rời bỏ kiểu vẽ cung đình, bước ra đời để vẽ tự do và phi truyền
thống hẳn là cũng nhìn thế gian theo mắt Thiền (chúng ta chỉ suy đoán, từ cương
vị của người thế kỷ 21).
Từ trái: Lục Tổ Huệ Năng
chặt tre, Đức Phật Thích Ca xuống núi,
Bát mặc tiên nhân, nhà
thơ Lý Bạch (Tranh: Lương Khải)
HỌA
SƯ QUÁN HƯU
Tới
đây, chúng ta thử lùi thời gian lại để nhìn ngắm tranh Thiền Trung Hoa theo bút
pháp khác. Họa sĩ Quán Hưu (Guanxiu) cũng vẽ nhiều tranh chủ đề Phật Giáo nhưng
nét vẽ rất khác với tranh Lương Khải. Quán Hưu sinh năm 832 ở Jinhua, từ trần năm
912 tại Chengdu. Quán Hưu là một nhà sư nổi tiếng, cũng nổi tiếng là một họa sư,
một thi sĩ và là nhà thư pháp.
Trong
các tranh nổi tiếng nhất của Quán Hưu là loạt tranh về 18 vị A La Hán. Điều xuyên
suốt trong nét vẽ của Quán Hưu là tất cả các vị A La Hán đều lộ ra nét khắc kỷ,
nghiêm ngặt tu hạnh đầu đà.
Quán
Hưu cũng nổi tiếng về thơ, dùng ngôn ngữ như một lối dạy Thiền. Thiền sư Viên
Ngộ Khắc Cần (1063–135) -- người kết tập Bích Nham Lục (Blue Cliff Record), một
sách giáo khoa về công án cho Thiền Tông Trung Hoa -- đã ghi lại một trong các
bài thơ trong nhóm thơ Sơn Cư Tập của Quán Hưu. Các dòng thơ trích nơi đây của
Quán Hưu rất là kinh điển:
.
Một,
hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy ---
sáng nay là buổi đầu tiên trong tháng này.
Đêm qua, một trận lửa lớn thổi ngược về tây,
một trận gió đông lay động địa cầu, âm vang chảy xiết
Nghe âm vang chảy xiết là khởi đầu của hiểu biết lớn
Nếu chúng ta vào thẳng lắng nghe
rồi sẽ trở thành hiểu biết toàn diện
Ký ức là gông xiềng của phiền não;
vô tâm mới là điện đài trong suốt.
.
Có
thể ghi nhận vài điểm về bài thơ trên. Trận lửa là phiền não, là nhận ra Khổ Đế.
Gió đông thổi ngược lửa về tây, là gió của giải thoát với những âm vang của trí
tuệ. Khi lắng nghe là xa lìa tất cả những gì của hôm qua, của ngày mai, và của
cả cái bây giờ. Vì trong lắng nghe, chỉ là âm vang vô thường, nơi hôm qua không
in dấu trong lắng nghe, nơi ngày mai chưa tới được với lắng nghe, và nơi cái bây
giờ không níu kéo được lắng nghe. Ngay khi lắng nghe, là khi tham sân si biến mất.
Ký ức là những gì của hôm qua, của hôm kia, là nhân duyên ràng buộc vào cõi này.
Vô tâm là khi trong tâm đã vắng bặt tất cả những gì của hôm qua, và tâm trở
thành tấm gương trong suốt, không vương chút bụi ký ức.
Quán
Hưu nổi tiếng về tranh vẽ các vị A La Hán. Các tranh này bây giờ lưu giữ trong
Bộ Sưu Tập Mỹ Thuật của Nhật Hoàng. Truyền thuyết kể rằng các vị A La Hán đã xuất
hiện trong giấc mơ của Quán Hưu để họa sư này vẽ. Các tranh vẽ cho thấy các vị
là người nước ngoài (đối với dân Trung Hoa), với lông mày rậm, mắt to, cặp má vồ
ra, mũi cao. Các vị A La Hán được vẽ trong tranh Quán Hưu đều trong cảnh thiên
nhiên, dưới gốc cây thông hay bên bờ đá. Đặc biệt các vị trông như du tăng, như
người không nhà, hay như ẩn dật nơi góc núi, lộ ra phong thái xa lìa mọi quyến
rũ trần gian.
Khi
được hỏi làm sao vẽ được quý ngài A La Hán, Quán Hưu nói rằng họ xuất hiện bên Đức
Phật, trong giấc mơ của họa sư này. Từ sau Quán Hưu, truyền thống Phật Giáo
Trung Hoa phần lớn mô tả các vị A La Hán theo tranh vẽ của Quán Hưu.
Các vị A La Hán trong
tranh của Thiền sư Quán Hưu.
HỌA
SƯ THẠCH KHA
Họa
sư Shi Ke, phiên âm là Thạch Kha, không có tiểu sử rõ ràng. Chỉ biết rằng Thạch
Kha nổi tiếng trong thế kỷ thứ 10, thuộc thế hệ sau họa sư Quán Hưu. Theo lịch
sử ghi lại được, Thạch Kha sinh tại Chengdu (Thành Đô), nổi tiếng vào cuối Ngũ
Triều, và là thời kỳ khởi đầu của Nhà Tống. Thạch Kha thời trẻ nổi tiếng về uyên
thâm Khổng Giáo, có tài vẽ từ thời mới lớn, nhưng tính tình bướng bỉnh, kỳ quái,
và có lẽ đó là dấu hiệu về sau tới gần với Thiền Tông.
Thạch
Kha nổi tiếng với hai tấm tranh còn lưu lại được, đều là vẽ mực trên giấy, kích
thước 35.5 cm X 129 cm, hiện nằm trong bộ sưu tập của National Museum of Tokyo,
Nhật Bản. Tấm tranh thứ nhất là vẽ ngài Nhị Tổ Huệ Khả (Huike), người kế thừa tông
phong ngài Bồ Đề Đạt Ma và là người nổi tiếng với truyền thuyết đứng dưới trời
tuyết lạnh để cầu pháp.
Tấm
tranh nổi tiếng thứ nhì của Thạch Kha là vẽ Thiền sư Phong Can (Fenggan), hình ảnh
vị Thiền sư này đang ngồi Thiền bên con cọp đã hàng phục. Ghi nhận rằng cả hai
cách ngồi Thiền của hai vị rất là Thiền Tông, rất phi truyền thống. Hai Thiền sư
Huệ Khả và Phong Can trong tranh Thạch Kha không mặc trang phục nhà sư nghiêm
trang, không ngồi kiểu kiết già hay bán già, không thẳng lưng, không tay bắt ấn,
không kiểu lim dim “nghiêm và buồn” như sách vở cổ điển.
Các
sách Thiền tiếng Việt ghi nhiều về Nhị Tổ Huệ Khả, đặc biệt là truyền thuyết ngài
tự chặt tay khi tới xin học đạo với Bồ Đề Đạt Ma. Thực tế, chuyện chặt tay nhiều
phần là không thật, chỉ do đời sau ghi lại qua lời kể từ đời này qua đời sau,
nhưng không có chứng cớ khả tín.
Nhị Tổ Huệ Khả ngồi thiền.
(Tranh: Thạch Kha)
.
Trường
hợp Thiền sư Phong Can, sách Cao Tăng Dị Truyện kể rằng: “Phong Can, chẳng
biết người ở đâu. Niên hiệu Trinh Quán đời Ðường, Sư đến ở chùa Quốc Thanh núi Thiên
Thai, cắt tóc ngang mày, mặc áo vải rách, có ai hỏi lý Phật, chỉ đáp hai chữ
“tùy thời”. Thường xướng đạo, cưỡi cọp ra vào, chúng tăng đều kinh sợ chẳng ai
dám nói chuyện với Sư. Có Hàn Sơn, Thập Ðắc cũng chẳng biết dòng họ, người đời
cho là đồ điên khùng, chơi thân với Phong Can…”
Do
vậy, hình ảnh con cọp trong tranh hẳn là có lý do. Chúng ta không suy đoán được
thực hư hay ý nghĩa của việc hàng phục con cọp theo như sử kể lại. Ngài Phong
Can có để lại một bài thơ, trích như sau:
Thực
sự, không hề có một vật
thì lấy bụi nào để lau chùi
Ai có thể nhận ra thực tướng này
sẽ không cần ngồi [thiền] làm chi.
Thơ
trên nghe y hệt như các nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời trong Kinh Tập, tức là nhóm
kinh Đức Phật cho chư tăng tụng hàng ngày trong các năm đầu hoằng pháp. Tư tưởng
Thiền trong thơ Phong Can cũng là tư tưởng trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ
Huệ Năng, và cũng nằm trong Khóa Hư Lục của Thiền Trúc Lâm tại Việt Nam.
(Tranh: Thạch Kha)
.
HỌA
SƯ THOMAS YANG
Còn
tranh Thiền trong thời đại chúng ta? Hiển nhiên sẽ không có bút pháp như thời
xa xưa. Nhìn quanh đây, trong các họa sĩ vùng Quận Cam, chúng ta có thể nói người
vẽ tranh Thiền là những vị nào? Họa sĩ Ann Phong, họa sĩ Khánh Trường, và nhiều
họa sĩ khác? Chúng ta không biết chắc là nên gọi thế nào là tranh Thiền. Nhưng
không thấy (hay chưa thấy) họa sĩ gốc Việt nào miệt mài với hành trình khám phá
tư tưởng Thiền trong nét vẽ. Một trong các họa sĩ tự kể về hành trình khám phá
Thiền là một họa sĩ ở Singapore, tên là Thomas Yang.
Thomas
Yang có hơn 400 giải thưởng hội họa quốc tế và khu vực. Nhưng nét vẽ mới của
anh, theo anh gọi, là “Journey To Zen” (Hành Trình Tới Thiền). Thomas Yang tốt
nghiệp đại học mỹ thuật Nanyang Academy of Fine Arts năm 1992, sau đó vào làm
việc trong ngành vẽ quảng cáo, thiết kế, và nổi tiếng từ năm 1998 sau khi thắng
giải thiết kế mỹ thuật Best New Art Director tại giải thi Singapore Creative
Circle Awards.
Họa
sĩ Thomas Yang kể: “Đôi khi, đi xe đạp cũng là một hành trính nội tâm. Gần như
là một hình thức Thiền, các âm thanh lắng im dần, tâm chúng ta sáng tỏ hơn, và
tất cả những gì chúng ta tập trung là con đường trước mặt. Đường càng dài và càng
xa hơn để chúng ta đi, chúng ta càng học thêm về chính mình, và về bản tánh của
tâm mình. Trong những thời kỳ bất định này, đi xe đạp đã giúp giảm căng thẳng,
giảm lo âu, và giúp làm sáng tỏ tâm mình. Có rất nhiều để được, để giữ tâm bình
lặng, và cứ đi xe đạp. Họa phẩm này được gợi ý từ các vườn Thiền Nhật Bản. Các
nét mực trôi chảy qua cây cọ lớn tạo ra y hệt như các đường nối tiếp, hay là các
samon (sa văn - 砂紋) trong mặt sỏi, và hiển lộ ra hành trình
mà mỗi người đi xe đạp tham dự. Và 100 ấn bàn tranh đầu tiên đã bán hết…”
Tạp
chí Vulcan Post đã gọi nét vẽ của Thomas Yang là “Tyre Art” vì trông bút pháp
như vỏ xe lăn trên đường.
Hai tranh Thiền của
Thomas Yang
(Photo: Thomas Yang -
100copies.net)
.
HÃY
VẼ TRANH THIỀN
Dĩ
nhiên, Thiền sư thì hiếm. Nhưng vẽ tranh Thiền thì, trên nguyên tắc, ai cũng có
thể tập vẽ, học vẽ. Tất cả chúng ta đều có thể tự nhận là “họa sĩ Thiền” -- nếu
muốn. Bạn có thể học vẽ từ YouTube, hay từ sách, hay từ thầy, hay từ bạn. Không
có giấy mực, thì cầm chiếc đũa vẽ trên cát. Nếu thấy vẽ hoài mà chưa có chất
Thiền trong nét vẽ, xin hãy kiên nhẫn. Vẽ tranh Thiền không phải để thi giải quốc
tế, trước tiên là khởi đầu một hành trình nghiên cứu Thiền, tìm học Thiền, khám
phá Thiền, và tu Thiền.
Nếu
bạn không muốn đi xe đạp như một lối vào Thiền tập, bạn có thể đi bộ. Nếu không
muốn đi bộ, bạn có thể ngồi uống trà. Thiền là lắng tâm, là tìm lại bản tâm, là
nhìn thấy thực tướng tất cả các pháp chỉ là những dòng chảy xiết, chỉ là trận gió
vô thường, và nơi đó, như Thiền sư Chân Nguyên đã viết, rằng khi lời nói nào cũng
bất toàn, khi sự lặng im nào cũng vô ích, lúc đó, nét vẽ có thể sẽ hữu dụng.
Do
vậy, xin ghi lại lời thơ của Ngài Chân Nguyên:
Nói
ra là bị kẹt
Không nói cũng chẳng xong
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng.
Lúc
đó, Thiền chính là nét vẽ nơi đầu ngọn núi [khi tâm hiển lộ, và chưa nhuốm trần
ba cõi], như lời Đức Phật dạy Ngài Bahiya rằng, hãy để cái được thấy là cái được
thấy, hãy để cái được nghe là cái được nghe… và đó là giải thoát. Do vậy,
Thiền chính là khi đi đứng nằm ngồi, nơi đó tâm họa sư không rơi vào nhân quả.
NGUYÊN GIÁC
No comments:
Post a Comment