Khuất Đẩu. Huyền Chiêu & Lữ Kiều
Trong bài hát Gọi tên bốn mùa của Trịnh Công Sơn, có một hình ảnh thật dễ thương,
đó là “em đứng lên gọi mưa vào hạ”. Tôi thì không dễ thương, nếu không muốn nói
là dễ ghét, lại già lụ khụ, nhưng cũng ráng chống gậy đứng lên để gọi tên bè bạn.
Người bạn tôi muốn gọi tên đầu tiên, là anh bạn
hàng xóm. Anh họ Hồ tên Vĩ, cùng tuổi rồng với tôi nhưng không học cùng lớp, vì
cha anh không háo thắng như cha tôi, nên không cho anh đi học sớm. Nhà anh làm
nghề bán cốm bắp, do vậy anh có vẻ vất vả vì suốt ngày phải phơi bắp, lảy bắp,
chứ không cà nhỗng rong chơi như tôi.
Tôi gọi tên anh vì trong khi tôi đi học, thì
anh bị gọi đi quân dịch (là thương nòi giống!). Xe từ Qui Nhơn đưa anh vào Dục
Mỹ, vừa xuống xe sắp hàng đi vào trại Lam Sơn, bước thường-bước chứ không bước
đều-bước vì chưa tập ắc-ê, đã bị VC pháo kích toi mạng.
Đời lính đã quá ngắn mà đời anh cũng chẳng
dài chi hơn. Trai nhà quê mới 18 tuổi, chưa có vợ nên cũng chưa biết giữa hai
chân của “phía bên kia” nó có gì. Mỗi lần về thăm nhà, mẹ anh lại sang ôm tôi
mà khóc suốt.
Cái chết của anh khiến ông bà và mẹ tôi cùng
đi tới “thống nhất” rằng, tôi thà làm một kẻ bị nguyền rủa vì không thương nòi
giống còn hơn là bỏ xác một cách lãng xẹt như thế. Nay tôi cũng xin thành thật
khai báo, hồi đó tôi đã “chốn” đến những 15 năm!
Người thứ hai, là một anh Bắc kỳ thòng lòng cọng
rau muống, cùng học hai năm ngũ và tứ ở Cường Để, Qui Nhơn. Anh họ Trần tên Tường,
giữa lót chữ văn, thường bị gọi đùa là Trần vanh Vách. Anh hơn tôi 3 tuổi, chững
chạc, đạo mạo chứ không lí lắc như tôi. Vì đến tuổi, nên sau khi đậu trung học,
anh đi quân dịch. Xong 18 tháng, trở về thấy bạn bè đã thi Tú tài, nghĩ rằng có
học nữa cũng không theo kịp bè bạn, thôi thì đi Thủ Đức. Tại đây, anh đậu á
khoa, mang lon chuẩn úy cũng le lói lắm. Lúc về, ghé thăm tôi có đem cho một
trái mít tố nữ (mà con gái tôi sau này gọi nhầm là mít tố hữu, nghe cũng hay
hay). Trong khi ngồi chờ xe lửa ở ga Nha Trang, anh bóc một trái khác, cả hai
cùng ăn, lần đầu tôi thấy mít tố nữ đúng là thơm và ngon thiệt.
Đó là lần gặp cuối cùng, vì sau đó, do chuyên
về chất nổ, anh được đổi ra coi một kho đạn ở Quảng Ngãi. Vừa mới mon men muốn
tìm người để yêu, thì bị VC pháo kích. Kho đạn nổ tung trời, anh cũng tan xác
pháo luôn, gia đình không nhặt được chút gì gọi là của anh, đành lập mộ gió!
Người thứ ba là một chàng thi sĩ thứ thiệt, rất
nho nhã hiền lành, giỏi chữ Hán và thư pháp, họ Phạm, cùng họ với bà cố tôi,
tên là Ngọc Lư.
Tôi nói thi sĩ thứ thiệt vì chưa có thời nào,
chưa có nước nào lại nhiều thi sĩ giả như ở nước ta bây giờ. Trước đây, miền Bắc
ra ngõ gặp anh hùng (giả), giờ, cả hai miền Nam Bắc ra ngõ đều gặp thi sĩ (giả)!
Giả, trông tướng mạo là biết liền: có kẻ mày
râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao như Mã Giám Sinh, ăn nói đểu cáng như Sở Khanh,
cũng có kẻ quan chức đề huề như Kim Trọng, hay ngổ ngáo ngang tàng như Từ Hải,
lại có kẻ nham hiểm như Hồ Tôn Hiến hay yếu hèn như Thúc Sinh…, coi lại truyện
Kiều của cụ Nguyễn Du, mới thấy cụ chẳng những tài giỏi mà còn rất thâm, vì tất
cả những nhân vật đàn ông trong truyện, đều rất giống với thi sĩ giả!
Còn thiệt, thì như Bùi Giáng, như Nguyễn Nhược
Pháp, như Quang Dũng, như Hàn Mặc Tử, như Bích Khê, như Hoàng Trúc Ly… và như
Phạm Ngọc Lư.
Trước hết, họ không giống các nhân vật nam
trong truyện Kiều, mỗi người tuy có những nét riêng, nhưng dù rách hay lành, dù
điên hay tỉnh, họ đều có một nét chung là rất nhân bản. Thơ của họ không nhiều
nhưng cùng đồng hành với thời gian, nên vang vọng tới hậu thế.
Như Quang Dũng chỉ cần một bài Tây Tiến, với
câu thơ: áo bào thay chiếu anh về đất/
sông Mã gầm lên khúc độc hành, đã là thi sĩ “định mệnh tại thiên thư” rồi.
Và, Phạm Ngọc Lư với bài hành Biên cương, mở đầu với lời chào thống thiết: Biên cương, biên cương, chào biên cương/ Chào
núi non rừng thẳm nhiễu nhương! Đây biên cương, ghê thay biên cương/ Tử khí bốc
lên dày như sương, … nghe như những hồi chuông báo tử.
Được nghe anh đọc thơ trong một đêm gió cuồng
ở Tuy Hòa, gần Củng Sơn nơi anh từng dạy học và thai nghén bài thơ, với những
âm uông, ương tưởng chừng như đang nghe tiếng hú của những oan hồn!
Sau 75, anh bỏ dạy đi Bến Tre bán dừa, đi đất
đỏ Long Khánh cạo mủ cao su, cuối cùng về quê vợ ở Đà Nẵng, nhà gần viện bảo
tàng Chăm, bị đuổi để xây cầu mới… nên nghèo vẫn hoàn nghèo.
Anh sống mực thước giản dị, dù làm gì vẫn ra
vẻ một nhà nho lỡ vận. Anh chết vì ung thư phổi, cũng được an ủi đôi chút khi
những phút cuối cùng có nhiều người ái mộ đến thăm và có một giọng hát tên Thu
Vàng đến tận bên giường hát cho anh nghe.
Người thứ tư tôi muốn gọi tên với tất cả mến
thương, là họa sĩ Đinh Cường. Tranh của anh được các nhà sưu tập và bạn bè lưu
giữ nâng niu. Anh ưa vẽ chân dung các thi sĩ, nhạc sĩ. Nhiều nhất và có hồn nhất
là chân dung của Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn. Còn dị hợm và rừng rú là chân dung
của Sơn Núi, tức Nguyễn Đức Sơn.
Anh sinh ra không phải thi sĩ, nhưng trong cả
ngàn bài ký theo dạng thơ tự do, lác đác một đôi câu xuất thần khiến Bùi Giáng
cũng phải kinh ngạc.
Trong số những họa sĩ mà tôi nghe tên, biết mặt,
chưa có ai hiền và nhân hậu như anh. Dường như, chưa có ai phàn nàn về anh điều
gì. Những năm cuối đời bị ung thư, anh vẫn âm thầm chiến đấu, vẫn vẽ cho đến
khi không cầm được cọ nữa, mới nhắm mắt xuôi tay.
Tôi quen anh qua chủ điền trang Thân Trọng ở
Đà Lạt. Anh thường ít nói, ngồi một góc nhà, nhìn ai đó rồi lặng lẽ lấy giấy
bút ra ký họa. Nhà tôi được anh vẽ tặng một bức “par mémoire” tưởng như anh mới
gặp trong mơ, là một thiếu nữ 15, nhỏ nhắn đáng yêu, khiến bà nội của các cháu
tôi rất thích.
Người thứ năm, là Dương Nghiễm Mậu, nhà văn
miền Nam nổi tiếng. Anh là bạn cột chèo với Đinh Cường. Đọc và thích anh từ thời
anh viết Gia tài của mẹ, nhưng mãi sang đầu thế kỷ này mới quen anh, cũng qua
bác sĩ Thân Trọng Minh.
Như một số nhà văn miền Nam, anh cũng bị cầm
tù. Khi được thả, trước nhà anh lúc nào cũng có công an canh chừng. Anh có một
truyện mà tôi rất thích, truyện Tiếng sáo của người em út. Người em nói với người
anh ở xa về, “một đời, cha không làm điều gì xấu, khi chết con nên thổi sáo cho
cha nghe”. Anh ta thổi sáo thay cho kèn đám ma, rồi cắm cây sáo lên mộ.
Cuối đời mà nói được một câu an lành như thế,
cũng có thể là của anh. Dù phải bỏ bút, học làm tranh sơn mài để sống, dù bị
công an canh chừng, bị Vũ Hạnh ganh ghét, anh vẫn thản nhiên, trên môi lúc nào
cũng nở nụ cười.
Tuy nhiên, anh cũng có cách riêng để thầm chứng
tỏ phẩm cách của mình. Như chiếc tủ đựng đầy sách do anh viết, sau khi bị tịch
thu đem đi đốt, giờ vẫn để trống không giữa phòng khách trông như một quan tài
dựng đứng! Và những mặt ghế phủ sơn mài bóng loáng, nổi lên những mặt của tuồng
chèo đang quắc mắt, vểnh râu để khách kê… đít lên ngồi, càng nhiều đít kê lên,
những khuôn mặt kia càng bóng như được thoa bằng mỡ lợn!
Anh mất rất bất ngờ, nằm bệnh viện chưa được
30 tiếng, các bác sĩ đang loay hoay cố tìm ra bệnh, thì anh đi. Tôi ở xa quá,
không kịp đến tiễn đưa anh, cũng thật buồn.
Hãy còn nhiều người bạn khác, tuy già, nhưng
vẫn đang khỏe mạnh. Họ là những người dù ở xa vẫn nghĩ đến tôi, là đốm sáng
trong những đêm bão giông của thời cuộc, là cuộc gọi tâm tình kín đáo giữa đêm
khuya, là đội mưa đến thăm nhau trong một chiều đông lạnh, là một bức tranh vẽ
tặng trong lúc cố quên cơn đau ruột thừa, là gói quà từ tầng thứ 16 một cao ốc ở
ngoại ô Paris, là tiếng nước sôi trong ấm vọng lại từ bên kia bờ đại dương… tôi
gọi thầm họ trong từng trang viết vì tôi biết rằng họ sẽ đọc tôi, sẽ khóc cười
chửi rủa cùng tôi…
Xin được cảm ơn tất cả!
KHUẤT ĐẨU
No comments:
Post a Comment