Với chiếc đèn
quảng cáo…
Do nhầm lẫn, lúc chặp tối, người ta để anh
xuống một bến xe cũ, đã bỏ hoang. Trên nền đất khô khốc, ngôi nhà lớn lợp
tôn đứng trơ vơ. Quanh nhà, cây dại mọc lùm sùm, chen chúc, chồm lên
cả thềm đất. Anh chưa kịp quay lại để cầu cứu, chiếc xe anh đi nhờ từ QB đã
biến khỏi tầm mắt. Đành vậy, anh nhủ thầm, nhìn quanh bãi xe. Không hiểu vì
lẽ gì, khi di chuyển xe cộ, đồ đạc, vật dụng… người ta lại để lại nơi
đây một cột trụ cao ngất ngưỡng với những ngọn đèn quảng cáo xanh đỏ tím vàng
không ngừng quay, không ngừng nhấp nháy sáng. Có thể, chính ngọn đèn quảng
cáo này khiến nhiều ngưới nhầm
tưởng bến xe vẫn đang hoạt động. Anh loay hoay mất một lúc, không biết
phải bắt đầu bằng việc gì, rồi đành vất ba-lô, ngồi xuống nền đất,
khoanh tay bó gối, nhìn đăm đăm lên những ngọn đèn, làm như chúng có thể giúp
anh tìm ra một lối thoát. Chỉ đến khi mọi thứ nhòe đi thành một quầng sáng hỗn
loạn anh mới rời mắt, ngoảnh nhìn vạt cỏ xơ xác trước nhà.
Trong lúc cố tìm ra một cách
khả dĩ để sống qua đêm ở nơi chốn xa lạ không một bóng người, chẳng
hiểu do đâu mà trong mớ ý nghĩ hỗn độn bỗng hiện lên mấy câu thơ của
người bạn học cũ. Có lẽ, trừ câu đầu tiên, chúng liên quan trực tiếp
đến cảnh ngộ của anh chăng: Chẳng
thà làm một cơn mưa/ trên bãi xe không bóng người/ với chiếc đèn quảng cáo quay những vòng ngũ sắc lên trời/ không ngớt.* Bữa đó, không biết vội
vàng thế nào mà thay vì mang cuốn vở toán hắn lại đem theo cuốn vở
ghi chép ở nhà. Những câu thơ ghi trong cuốn vở học trò có bìa màu
vàng nhạt, vẽ hai đứa nhỏ cầm tay nhau đến trường, tình cờ rơi vào
tay cô giáo chủ nhiệm khi hắn lên trả bài. Có thể, khi vừa trao cuốn
vở hắn đã nhận biết một tai họa sắp đổ ập xuống cuộc đời hắn. Hắn
vốn giỏi toán vậy mà bỗng lắp bắp không ra lời, tay cầm phấn run
run, phấn rơi lên rớt xuống mấy lần. Cô giáo lần giở các trang vở,
mặt cũng tái dần đi. Cả lớp nín thở, không biết đang xảy ra chuyện
gì. Hóa ra, cô đọc thấy mấy câu thơ trong vở của hắn. Ở trang đầu
tiên hắn còn nắn nót ghi lại thơ của ai đó, kèm với hình vẽ một
người gầy nhẵng, hai tay giơ lên trời, miệng há to: Bỗng nhiên tôi chán làm người…Sẽ rất tuyệt vời/ đi ngoài đường với con dao màu xanh lá
cây/ rống cho tới khi chết cóng. Cả trường nhốn nháo truyền
tai nhau mấy câu thơ kỳ quặc, vô
nghĩa, phi hiện thực của hắn. Bấy giờ, các thi sĩ chỉ một mực làm
thơ về nhà máy, về công trường, về tăng năng xuất lúa, về hy vọng,
về niềm tin mà thôi. Người ta bảo, nếu làm to chuyện, hắn có thể bị
bắt, bị truy cứu, bị giam cầm. Ban giám hiệu, nhất là thầy hiệu trưởng, thương
đứa học trò giỏi, bàn tính với gia đình làm đơn cho hắn nghỉ bệnh, đợi
mọi việc nguôi ngoai rồi học tiếp. Anh thi vào Mỏ-Địa chất. Anh đinh
ninh hắn sẽ thi vào một trường nào đó có liên quan đến văn chương
nhưng hắn lại thi vào ngành kinh tế. Anh nghĩ vẩn vơ, không hiểu thằng
bạn ngồi cùng bàn, mắt lúc nào cũng dài dại sau cặp kính tròn, cả
đời chưa ra khỏi ngôi làng nhỏ, làm sao lại có được cái ngọn đèn
quảng cáo, cái bến xe vắng khách, làm sao lại muốn làm một cơn mưa,
làm sao lại yêu thích những câu thơ lạ lùng của ai đó.…Anh không hỏi,
hắn cũng im lặng, coi đó như chuyện cấm kỵ. Nhưng ngay cả khi đã khôn
lớn, khi P.Neruda được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam, anh cũng không
có điều kiện để hỏi han thêm vì hắn đã rẽ sang một con đường khác, trở thành
chuyên gia phân tích kinh tế. Thỉnh thoảng anh nhìn thấy hắn trên TV,
trong các chương trình về tài chính, ngân hàng, vẫn đôi mắt dài dại
sau cặp mắt kính tròn, vẫn giọng nói nhỏ, điềm đạm như ngày trước.
Các lập luận của hắn chắc chắn, các kiến giải của hắn sáng sủa.
Hắn có lối nói thẳng, mạch lạc. Chỉ có điều, trông hắn mệt mỏi,
lúc nào cũng mệt mỏi, giống như kiểu một người đang gắng sức làm
cho xong phần việc được giao. Đôi lúc, anh nghĩ, có thể, sự cố hồi tuổi
nhỏ đã vùi lấp tình yêu dành cho văn chương của hắn. Ấy vậy rồi, anh tình
cờ nghe thấy những bài thơ của hắn được giới văn chương nhắc nhở, khen
ngợi. Hắn dùng chính tên khai sinh làm bút danh nhưng chỉ in đi in lại một
dessin của hắn do họa sĩ H vẽ, không khi nào in ảnh. Anh lại nghĩ, hóa
ra, giết chết một tình yêu không phải là chuyện dễ dàng. Chúng ở đâu đó,
bị đè nén, khuất lấp bởi cuộc sống thường nhật nhưng rồi sẽ đến lúc,
chúng bùng cháy. Và khi ấy, khó mà lường được sức nóng, sức lan
tỏa của chúng.
Anh vốn ghét các chương trình
quảng cáo. Cầm một tờ báo trên tay, bao giờ anh cũng ném mấy chục trang quảng
cáo sang bên cạnh. Xem phim, đến lúc quảng cáo là anh chuyển kênh. Vợ anh
bảo, anh lạ quá, không quảng cáo làm sao mình biết thứ này thứ nọ
để mua sắm. Anh xem, TV, tủ lạnh, máy giặt, máy tập thể dục, cây lau
nhà, nồi cơm điện…chẳng nhờ quảng cáo đó sao. Anh hầm hừ, nhưng ít
nhất 50% là sai sự thật. Em kiểm chứng đi. Anh ghét kiểu cái gì cũng
nhất, cũng tuyệt hảo, cái gì cũng không thể thiếu, không thể thay
thế của bọn họ. Vợ anh không cãi, chăm chú nhìn lên màn hình, dõi
theo người phụ nữ tóc vàng đang hướng dẫn cách sử dụng máy mat xa cầm tay giúp tan mỡ bụng. Vợ
anh là người tốt nhịn. Chị không bao giờ đẩy những tranh cãi đến
cùng.Ví như việc anh thích lang thang trên vùng núi này. Chị bảo, anh
lăn lộn mãi rồi, giờ là lúc có thể làm việc ở phòng thí nghiệm.
Anh đến bên vợ, nhẹ nhàng, sức khỏe anh thế nào, sở thích anh thế
nào, hiệu quả công việc của anh đến đâu, chỉ có tự anh biết. Chị lại
lẳng lặng thu xếp quần áo, thuốc men, thức ăn dự trữ …cho chồng. Anh
lôi từ ba lô ra một thỏi lương khô. Kẹt nỗi, ăn thứ này mà không có
nước là chết nghẹn. Ý nghĩ về cơn khát đã kéo theo một cơn khát
thực sự. Cổ họng anh chợt khô rát, tay chân chợt mỏi mê, rời rã. Anh
treo ba-lô lên chiếc đinh người ta đóng sẵn trên cột nhà, vặn mình mấy
cái rồi bắt đầu cuộc tìm kiếm nước. Anh đã nhiều lần lạc đường,
nhiều ngày lang thang một mình trong những cánh rừng thâm u, những đèo
dốc, những lũng sâu…nên việc bất ngờ rơi vào bến xe không người giữa
đêm hôm khuya khoắt không phải là chuyện chi to tát. Chỉ có cơn khát
đang hành hạ anh là điều đáng ngại. Căn nhà khá rộng, sực lên mùi
ẩm mốc, chỉ còn lại một khung gỗ cũ, trổ hai ô cửa nhỏ, hình chữ U
ngược, chắc vốn là quầy vé. Anh vừa chạm tay vào, khung gỗ đã sụm
xuống như thể chỉ chờ có vậy để kết thúc sự tồn tại vô bổ của
mình. Anh quét đèn pin dọc theo
chân tường, cố tìm một dụng cụ chứa nước nhưng vô hiệu. Anh bỏ ra
ngoài, đi vòng quanh ngôi nhà dưới ánh sáng nhấp nháy của ngọn đèn
quảng cáo. Lần đầu tiên trong đời anh có thiện cảm với một vật dụng
quảng cáo. Không có mày, hẳn chỗ này buồn lắm, anh vừa lẩm bẩm vừa
dò dẫm bước trên những mô đất, những búi cỏ. Anh vấp phải một vật cứng.
Hóa ra là một cái vòi nước cũ. Anh ngồi thụp xuống, nhận thấy tay
mình run run khi chạm vào nó. Cái vòi đã han rỉ. Anh vặn đi vặn lại
nhưng chỉ nghe tiếng rào rạo khô khốc. Nhìn kỹ thì nó chỉ đứng trơ
trỏng một mình, không nối với ống dẫn. Anh thở dài, với tay bứt một
cọng cỏ, nhấm nhấm lấy nước, tình cờ lại chạm vào một đoạn ống
sắt lạnh ngắt. Anh phấp phỏng lần theo đường ống lẫn trong vạt cỏ,
lúc đứt lúc nối rồi đột ngột gãy vụn, chỉ còn những mảnh kim loại
nhỏ lạnh lẽo trong lòng tay. Nỗi lo không thể tìm thấy nước xâm chiếm
cả đầu óc lẫn thân thể, khiến anh có cảm giác mình cũng vừa gãy
vụn ra trên nền đất xa lạ. Anh chuồi
mình xuống cỏ, chìm vào giấc ngủ nặng nề. Anh thấy người bạn học
cũ đến bên anh, vẻ mệt mỏi, cậu biết không, điều khác biệt giữa tôi
và cậu là ở chỗ, một thằng thì mơ làm
một cơn mưa, thằng kia thì mong có một cơn mưa. Anh hỏi, anh nghe
thấy giọng mình thều thào, vậy đằng nào khó hơn. Hắn cười, bây giờ
thì tôi hiểu, đằng nào cũng khó. Tôi chẳng thể làm một cơn mưa mà
cậu cũng chẳng có một cơn mưa. Tôi vẫn không thể rời xa những GDP,
CPI, FDI, VN Index, HNK-Index…còn cậu thì sắp chết khát ở nơi này. Anh đang định hỏi hắn về mấy
bài thơ tân hình thức, hậu hiện đại gì gì đó thì hắn đã đứng dậy,
đưa tay về phía anh, nhân tiện, báo với cậu một tin liên quan, người ta
cho biết hiện trên mặt trăng có khoảng 5 triệu tấn Halium-3.** Các cậu
chuẩn bị lên đó mà khai thác, trái đất cạn kiệt rồi. Vừa dứt lời,
hắn lặng lẽ bỏ đi, khuất dạng sau những thân cây lớn của cánh rừng
trước mặt. Anh nhổm lên rồi lại ngã vật xuống. Anh thấy mình bước
hụt, rơi tõm vào một hố nước trong vắt. Quá sung sướng, anh lặn sâu
xuống đáy để thỏa cơn khát, để nước có thể thấm đẫm vào từng
đường gân, thớ thịt. Chỉ đến khi sắp ngạt thở anh mới ngoi lên nhưng
vừa ngoi lên thì cơn khát lại ập đến. Anh tính ngụp lặn một lần nữa
thì nhận ra cái hố đã khô khốc, trơ ra mấy bụi cỏ xơ xác. Anh bật
khóc. Anh nghĩ là anh đã khóc rất to.
Giữa khuya, khi sương xuống ướt
đẫm quần áo, tóc tai, anh mới tỉnh lại. Ánh đèn quảng cáo giúp anh
nhớ đến tình cảnh của mình. Hóa ra, anh chỉ cách nhà xe một đoạn
rất ngắn. Bíu vào bụi cây dại ven đường, anh ngồi dậy. Anh hoảng kinh
khi nhận thấy một khối đen sát ngay bên mạn sườn. Nhìn kỹ, đó là
một con chó gầy nhom, hai chân sau duỗi dài, đầu đặt trên hai chân
trước bắt chéo nhau, hơi thở đứt quãng. Thảo nào hồi chặp tối anh
có cảm giác như có ai đó quanh quất, dõi theo bước chân của mình. Anh
đã cầm sẵn con dao đa dụng ra tay để phòng thân. Anh hỏi nó, giọng
rời rạc, sao vậy. Người ta bỏ quên mày giữa chốn hoang tàn, không cơm
ăn, không nước uống này sao. Nó ngước nhìn anh, khẽ rung rung đôi tai,
rên ư ử, thừa nhận sự thật cay đắng. Anh vỗ nhè nhẹ vào đầu nó, thôi,
cùng hội cùng thuyền, cùng chiến đấu nhé. Đứng lên xem nào. Nó cố
đứng lên, chân run lẩy bẩy, trông rất tội nghiệp. Anh cởi chiếc khăn
quàng cổ, ủ ấm cho nó, vấn đề sinh tử của chúng ta lúc này là
nước, mày hiểu không. Nó cúi đầu, cố hiểu thông điệp của người bạn
bất ngờ. Mày là dân bản địa, hẳn mày biết chỗ ngày trước người ta
lấy nước. Anh nhấn mạnh chữ nước.
Nó loạng choạng bước đi, anh theo sau. Anh tin chắc rằng con Mực (anh vừa
đặt tên cho nó) sẽ giúp anh.
Hai cái bóng liêu xiêu đi giữa
đêm vắng như hai kẻ say. Anh không biết đi như thế bao lâu thì anh nghe
thấy hơi nước từ đâu đó phả vào mặt, như kiểu sắp sửa có một cơn
mưa giông. Anh ngồi xuống, ghé sát mặt vào tai con Mực, mày siêu quá. Mày có máu của dân địa
chất, ở đâu có quặng là ngửi thấy
liền. Con chó lây nỗi vui của anh, tai dựng thẳng, mũi khịt khịt, bước
đi có phần nhanh nhẹn hơn. Cuối cùng, nó chạy lên trước, dẫn anh đến
bờ một con suối nhỏ. Anh ôm con Mực, lăn mấy vòng rồi nhảy ùm xuống
nước. Con Mực vùng vẫy trong tay anh, miệng rít lên khoan khoái.
Khi quay trở lại, anh tìm thấy
một lối mòn. Rõ ràng, ống nước chạy dọc theo con đường này và suối
cũng không xa lắm. Vậy mà hồi chặp tối anh đã mò mẫm chật vật,
khốn khổ biết bao.
Anh soạn ba-lô. Ngoài lương khô, vợ anh
còn gói theo một bọc ruốc, một ít thịt sấy. Con Mực ngồi bên cạnh,
chờ đợi bữa ăn, mắt ươn ướt nhưng không có vẻ chi vồ vập, nôn nóng.
Anh bảo nó, sẽ có một bữa hoành tráng đây. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm
của loài người, lúc đói quá, chớ ăn vội, chớ ăn no, phòng bị bội
thực. Có người chết vì bội thực đấy. Con chó ra chiều hiểu ý, ăn nhỏ
nhẹ, từ tốn, liếm cho bằng hết chỗ thức ăn rơi vãi. Anh vừa bẻ lương
khô vừa hỏi nó, thế lâu nay mày sống bằng cách nào, chẳng lẽ chỉ
uống nước suối rồi nằm khoèo nhìn mấy cái đèn xanh đỏ tím vàng
đang quay tít trên kia. Nhận ra âm điệu cảm thương của giọng nói, con
Mực nằm lăn bên chân anh, khoe mấy cái khoeo chân xinh xắn. Anh ồ lên,
hóa ra mày cũng không thường đâu. Rõ là một chú khuyển thông mình. Nó
đập đập cái đuôi xuống nền đất, ra dấu đồng tình.Trước khi rời bãi
xe để ra đường lớn, anh cẩn thận chia thức ăn thành nhiều phần rồi
dặn nó, đừng có ăn hết một lần đấy nhé. Đợi tao ở đây.
Anh về nhà muộn một ngày. Nghe
anh nói lý do của việc chậm trễ, vợ anh bảo, em có phải trẻ con đâu
mà tin vào câu chuyện của anh. Anh cứ đi kể hết cho bàn dân thiên hạ
xem có ai tin nổi không. Cái bến xe chứ đâu phải quán chè chén mà dời đi chỗ khác cũng
không ai hay biết. Lại còn con chó nhịn đói được mấy tháng mà vẫn
nhanh nhẹn, lại còn giấc mơ, lại còn cái ngọn đèn quảng cáo quay
không ngừng giữa chốn không người, rồi thì mấy câu thơ kỳ quặc, mấy
lời nói bí hiểm, thật không sao tin nổi. Chị nói một thôi một hồi
rồi thở hắt ra. Anh đến bên vợ, em không tin cũng phải nhưng tất cả
là sự thật mà.Vợ anh dài giọng, vâng, sự thật của một mình anh, kẻ
thích trèo đèo lội suối, thích chốn rừng thiêng nước độc. Anh cố tìm
cách giải thích, nhưng anh là người muốn
có một cơn mưa chứ không phải là kẻ mong làm một cơn mưa. Anh nhấn mạnh hai chữ có và làm.Vừa dứt lời anh đã nhận thấy mình đang tự dấn thân
vào chốn hiểm nguy.Vợ anh mở to
mắt nhìn anh, nói rành rẽ từng tiếng một, anh ơi, anh có làm sao
không, anh mơ màng kiểu gì vậy. Bị thất thế, anh liều lĩnh, đáp lại
cùng một cách, nhưng em ơi, mơ là một phần của đời sống, một phần
của sự thật. Người ta chẳng tìm hiểu con người qua những giấc mơ đó
sao. Anh chờ đợi một phản ứng dữ dội hơn nhưng vợ anh bước tới, nhẹ
nhàng đặt tay lên trán anh, anh có mệt mỏi quá không, anh gặp trục
trặc ở chỗ làm ư, dự đoán của anh sai số quá lớn phải không. Anh
mỉm cười, không đáp, tránh sa vào một cuộc tranh cãi mới.Vợ anh lắc
đầu như để xua đi một ý nghĩ tồi tệ, rồi nói, giọng mệt mỏi, thôi,
đến lúc anh phải đi thì đi đi. Anh không dám nói với vợ việc mình sẽ
ghé lại bến xe để tìm con Mực.
Suốt chuyến xe trở lên nơi làm việc, đầu
óc anh cứ luẩn quẩn câu chuyện giữa hai vợ chồng. Vốn là một phụ
nữ thuần phát, vợ anh chỉ tin vào những gì có thể nhìn thấy, có
thể dẫm dưới chân, có thể cầm trên tay. Lẽ ra, anh nên chọn một lý do
đơn giản như xe hỏng, xe hết xăng, nước suối bất ngờ lên cao, núi lở,
cây đổ, thậm chí, gặp hổ, gặp báo giữa đường…hẳn vợ anh sẽ dễ
chấp nhận hơn rất nhiều. Đằng này, anh đã vô tình kéo vợ vào một
câu chuyện rắc rối, không đầu không cuối, nửa hư nửa thực, nhất là
mấy câu thơ và câu nói vẩn vơ về năng lượng trên mặt trăng của người
bạn học cũ.
Tựa người vào thành xe, anh dõi
mắt theo những mảng sương trắng đục chập chờn ngoài ô cửa, đầu óc
quẩn quanh những câu hỏi, những ý nghĩ không liền mạch, không rõ
ràng. Tại sao sau bao nhiêu ngày
tháng, mấy câu thơ lạ lùng đó lại trở về trong trí nhớ của anh, giữa
một đêm lạc đường. Tại sao người bạn cũ lại hiện ra trong giấc mơ.
Câu nói của hắn có ý nghĩa như thế nào. Mối liên hệ giữa một nhà
kinh tế sáng suốt, rành rẽ và một người làm thơ mơ mộng nằm ở đâu.
Vì sao hắn bỗng công bố thơ sau mấy mươi năm im lặng…Cảm thấy váng
vất, khó chịu, anh lắc lắc đầu, đưa mười ngón tay xới tung đám tóc rồi
chồm tới xin cậu lái xe một điếu thuốc. Cậu ta đáp, em chỉ có thuốc
lào thôi. Anh đáp, gì cũng được. Cậu ta vừa đưa điếu đóm cho anh vừa
hỏi, hôm nay anh sao vậy. Bình thường anh có hút xách gì đâu. Anh vê
thuốc, cho tỉnh táo ấy mà. Cậu lái xe cười, em thấy anh khang khác
thế nào ấy. Anh vừa nhả khói vừa nghĩ, sao mình không làm một cái test với cậu ta nhỉ. Anh kể câu
chuyện xảy ra mấy ngày trước cho cậu lái xe, rồi hỏi, cậu có tin
không. Cậu ta cười, có gì lạ đâu ạ. Anh ơi, thằng em ba chìm bảy nổi,
làm đủ thứ nghề, sống khắp hang cùng ngỏ hẹp, sướng khổ đủ rồi,
chẳng thấy cái gì là lạ, là không thể. Anh biết không, những lúc
kiếm không nổi bữa cơm, nằm khan trong xó nhà, em mơ đủ thứ. Gì chứ
cái kiểu mơ làm thứ này thứ nọ thì em rành lắm. Lúc đói thì mơ làm
chủ quán phở, lúc rách thì mơ làm chủ tiệm quần áo, lúc hết tiền
thì mơ làm chủ ngân hàng, lúc cửa nhà chật chội nóng bức thì mơ
làm chủ khách sạn, rồi thì mơ làm ông nọ ông kia, đủ cả. Cứ nằm
khểnh mà mơ làm cũng được an ủi
đôi chút. Thấy anh chăm chú lắng nghe, cậu ta khoái chí, nhưng thú
thật, gì chứ mơ làm cơn mưa thì
chưa hề, lại còn mưa trên bãi xe vắng người thì chán lắm. Em nhớ hồi
học cấp hai ở làng, cô giáo dạy em bài thơ của một ông quan, làm quan
chả thiết lại mơ làm cây thông. Rõ chán. Em đếch mơ dại thế. Ông quan
nọ, cũng như cái bác bạn anh, chắc lúc đó buồn quá mới mơ rồ mơ
dại như thế. Thú thật với anh, cánh xế
như em, thấy mấy vị đó cứ hâm hi thế nào ấy. Anh bật cười, thâm thúy
lắm. Thế bây giờ cậu có mơ làm
cái gì nữa không. Cậu ta cười to, có ăn, có mặc, chẳng ai bức hại
mình, vi vu nơi này chốn nọ, bằng lòng rồi thì còn mơ gì nữa. Người
ta chỉ mơ khi thiếu thốn, cùng quẫn thôi, kiểu như anh mơ thấy nước khi
khát cháy cổ ấy. Rồi hắn chợt quay lại, thế còn anh, anh mơ làm cái gì. Anh cười giả lả,
cũng như cậu thôi, mơ màng gì nữa. Anh ngâm nga, suốt ngày dài lại đêm thâu. Cậu ta tiếp luôn, chúng ta đi trên đất Phi châu. Cả hai cười phá lên vì sự ăn ý.
Bằng lòng với sự kiểm nghiệm của mình, anh ngả người trên ghế, ngủ thiếp đi
với ý nghĩ, thế nào cũng phải kể cho bạn anh nghe câu chuyện thú vị
với tay lái xe. Anh giật mình vì một tia sáng lóa mắt táp vào ô cửa
và tiếp ngay sau đó là một tiếng nổ dữ dội. Thoạt tiên, anh nghĩ là
mìn phá đá ở chỗ đang khai quặng. Tỉnh hẳn, nhìn thấy cậu lái xe
đang kéo cửa kính lên, anh mới nhớ mình đang đi trên xe.
Cơn mưa dữ dội, tối tăm trời đất.
Cậu lái xe bảo, phải đợi dứt cơn thôi. Đi kiểu này nguy hiểm quá.
Chẳng hiểu sao lại mưa giữa mùa này. Anh đáp, ông trời mà.Trời cho
sao ta được vậy. Tay lái xe nén lại một
cái ngáp, mình cắm trại ở đây nhé. Anh đáp, ừ, thì cắm, rồi khoanh
tay, tựa đầu vào thành ghế. Cậu ta gãi đầu, buồn quá, hay mình đánh
phỏm giải khuây. Anh xua tay, tôi dốt mấy trò
này lắm. Thỉnh thoảng thấy người ta chơi say sưa cũng ghé mắt nhìn
nhưng chẳng hiểu gì cả. Cậu ta tròn mắt, thế lúc rỗi anh chơi trò
gì. Đọc sách. Cha mẹ tôi là nhà giáo, nhà rất nhiều sách nên anh em
tôi đọc sách từ tấm bé. Mãi đến bây giờ tôi cũng không bỏ được thói
quen vừa ăn cơm vừa đọc sách. Vợ tôi bực lắm, nói đi nói lại một
câu, ăn vậy còn gì là ngon. Tôi cãi, có vậy anh mới thấy ngon. Thế
là huề. Cậu lái xe chậc lưỡi, chị ấy hiền nhỉ. Phải tay vợ em
thì…Hắn bỏ lửng câu nói, quay sang lấy chiếc túi vải, không bài bạc
thì nhậu nhẹt. Em thì chỉ biết hai món này thôi. Anh cũng lấy túi
của mình, tớ đem theo đủ cho cả tháng lạc đường. Lần này vợ tớ bắt
vác một can nước lớn. Không tin
câu chuyện của tớ nhưng vẫn sợ tớ chết khát ở đâu đó. Nhậu nhẹt
thì nhậu nhẹt. Tay lái xe bỗng cười
vang, anh có biết chuyện hai ông xứ nọ rủ nhau nhậu nhẹt không. Hai bố vào quán chè chén bên đường, ngồi
nghênh ngang, gọi thật to, bà chủ, hai nước, hai kẹo lạc, hai Tam
Thanh***. Chủ quán đem ra các món họ gọi. Hai ông xắn tay áo, cầm hai
cốc nước hô to, zo. Một ông quát
lên, uống đi mi, ăn đi mi, hút đi mi, đời là cái chó chi. Ông kia cũng
la theo, xả láng cuộc đời đi mi. Một đám người hiếu kỳ vây lấy quán.
Bà chủ quán sợ quá, van lạy, thưa hai ông, quán nhà cháu nhỏ lắm,
chả bõ, hai ông vào cái nhà hàng to đùng kia mà xả láng cuộc đời. Anh cười, cũng giống bọn ta nhỉ, có
vài cốc nước lã mà cũng làm cho to chuyện. Tay lái xe cãi, ý em
không phải thế, cái chính là cảm hứng anh ơi. Mình cao hứng thì ngồi
đâu, ăn gì cũng ra vấn đề.
Từ khá xa anh đã nhìn thấy ngọn
đèn quảng cáo. Trong buổi chạng vạng, giữa cảnh thâm u, vắng lặng,
trông nó thật cô đơn, lạc lõng. Tự nhiên anh thấy bồn chồn trong lòng.
Anh hỏi cậu lái xe, cậu bảo con Mực có đợi mình không. Tay lái xe quả quyết, đợi, nhất định nó đợi. Nói
anh bỏ quá, trên trái đất này không có giống gì chung thủy bằng
giống chó. Ông bà nội em nuôi một con chó ta. Ông bà em toàn gọi nó
là con, cho nó ăn uống tử tế, trò chuyện, la mắng nó như với người
vậy. Ông em đi đâu xa về, mới tới đầu xóm nó đã phi ra mừng rối rít.
Lúc ông em mất, nó chạy ra mộ, nằm ngoài đó, ai gọi cũng không về. Bà
em sai đem cơm cho nó, nó không ăn. Ngày mở cửa mả, mọi người ra mộ,
thấy nó đã tắt thở. Đấy, anh thấy có giống gì như vậy chưa. Bố em
còn kể, chính cụ Phan Bội Châu đã xây mộ, viết văn bia tưởng nhớ hai
con chó dũng cảm, tình nghĩa của mình nữa kia.
Hình
dung con Mực sẽ chạy tung tăng trên lối vào bãi xe hoặc nằm trên hiên
nhà để chờ mình nhưng khi xe dừng lại, anh mở cửa bước xuống, chẳng
thấy bóng dáng nó đâu. Anh lấy tay làm loa, gọi thật to, Mực, Mực
cũng không nghe động tĩnh. Có phần hoang mang, anh hỏi cậu lái xe, hay
nó làm sao. Anh tránh dùng từ chết
vừa hiện lên trong đầu. Cậu ta vẫn quả quyết, nó có thể làm sao
được. Bao lâu nay nó vẫn tự lo liệu mọi thứ để sống, giờ lại có
thức ăn anh để lại nữa. Chắc nó ra suối. Anh quày quả chạy ra suối,
bỏ cậu lái xe to béo ì ạch phía sau. Con suối nhỏ hơn anh nghĩ rất
nhiều, nó gần giống như một lạch nước, len lỏi giữa những khóm cây
có hoa màu trắng. Anh lại lấy tay làm loa, Mực, Mực nhưng không có
tiếng đáp lại. Cậu lái xe chạy tới, hổn hển, chắc nó bị con vật
khác tấn công rồi. Anh nổi cáu, con vật khác là con gì. Cậu ta phân
bua, thì những con lớn hơn nó, hổ, báo gì gì đó. Anh gắt, cậu nhìn
đi, hổ báo nào ở mấy ngọn đồi lúp xúp sim mua này. Cậu lái xe lúng
túng, thế thì chắc nó bị người ta bắt. Hắn đã kịp dừng lại nhưng
anh đoán ra những lời sau cùng. Anh thấy buồn nôn khi nhớ tới lần ăn
thịt chó trên phố đê với mấy tay cùng phòng.
Anh
quay về nhà xe. Không còn chút lương khô hay đồ nguội nào trên sàn
nhà. Nghĩa là nó không bị đói, không bị khát, anh nghĩ, cảm thấy
được an ủi đôi phần.
Khi
xe trở ra đường lớn, anh không nói không rằng. Tay
lái xe cũng im lặng, chăm chú nhìn xuống mặt đường. Nhưng có vẻ như
hắn nghĩ lung lắm. Thỉnh thoảng hắn lại hắng giọng, dợm cất lời
rồi lại thôi. Anh chồm người tới, cho tớ xin điếu nữa. Hắn đưa điếu
cho anh rồi bất thần nói, hay là chẳng có con Mực nào sất. Anh giật
mình, cậu bảo sao. Hắn lúng búng, ý em là, chắc bữa đó anh mệt
quá, buồn quá, như cái ông nhà thơ bạn anh ấy, nên tưởng tượng ra một
con Mực cho có bạn. Anh đáp, nhưng cậu ơi, tớ là thằng dân địa chất,
thằng lăn lộn với đất đá, thằng tính toán chi li từng centimet, từng
gram, tớ không phải là thi sĩ. Tay lái xe có vẻ như đang quyết tâm tấn
công người bạn đường, dân địa chất các bác thực sự là những nhà
lãng mạn. Em còn biết có mấy bác kỹ sư là nhà thơ nổi tiếng cả nước nữa kìa. Hắn
dừng lại, như chờ phản ứng của anh rồi ngập ngừng, với lại, em tuy
văn dốt vũ dát nhưng cũng hiểu, đâu phải cứ làm thơ mới là lãng mạn.
Tóm lại, cha mẹ sinh ra đã lãng mạn, lãng mạn là lãng mạn, thế
thôi. Anh không đáp, nhớ lại cuộc chiến không cân sức giữa mẹ và anh
khi anh chọn nghề địa chất. Hồi đó, trong sổ tay của anh cũng có vô
số các câu thơ viết về nghề địa chất. Có thể, chính các câu thơ về
những cánh rừng hùng vĩ, những núi đá cheo leo, những mạch quặng bí
ẩn, những ước vọng đẹp đẽ… đã
góp phần không nhỏ vào sự lựa chọn của anh.
Khi xe rẽ
sang trái để về trạm, anh ngoảnh nhìn ngọn đèn quảng cáo kiên nhẫn
quay trong đêm tối, tưởng nhìn thấy con Mực, không có trò gì để chơi, đang
chạy quanh trụ đèn. Những mảng hồng, xanh, tím, đỏ…loang loáng dưới
bước chân nó, tạo nên một vòng sáng khác. Mải ngắm cái vòng sáng
tưởng tượng đó, anh giật mình vì xe bỗng đứng sựng lại. Cậu lái xe
nhảy xuống đất, hình như bánh sau hơi non,
để em kiểm tra kỹ chứ đoạn sắp tới dồi dập lắm. Đúng lúc ấy, anh
nghe thấy tiếng chạm khẽ vào thành xe. Nghĩ là một cành cây bị gãy,
anh nhắc cậu lái xe cẩn thận. Thế rồi anh nghe thấy tiếng rít khe
khẽ, mỗi lúc một gấp gáp, khẩn thiết. Con Mực, anh kêu lên. Cậu lái
xe quay lại, ngơ ngác, anh bảo sao. Anh mở cửa xe, nhìn thấy con Mực
đang chồm lên, vẻ căng thẳng. Anh vỗ vỗ vào đầu nó, mày đây rồi, mày
thật rồi. Cậu lái xe cũng nhảy vội tới, đấy, em đã bảo mà. Về cái
khoản chung thủy thì không ai bằng được giống này. Chắc nó không thực
sự tin vào lòng chung thủy của anh, sợ anh quên lời hứa, không ghé
bãi xe, nên mới ra tận đây để chờ. Cách nào đó, chính nó khiến em
phải dừng xe đúng chỗ này đấy.Cũng phải có điều kiện mới chung
thủy được chứ, phải không Mực. Anh cười nhẹ nhõm, cậu lúc nào cũng
đúng.
Anh nhấc con Mực lên xe. Xe rộng, nó
thoải mái nằm dưới chân anh, hai chân sau duỗi dọc theo thân, đầu đặt
trên hai chân trước bắt chéo, hệt như lần đầu anh nhìn thấy nó nhưng
thần thái thì đã khác, mắt khép hờ, hơi thở đều đặn, thanh thản. Anh
vỗ vỗ vào đầu nó, mày có nhớ nơi này không. Dù cực nhọc, khốn
khổ, cũng là nơi mày đã sống mà. Con chó rên khe khẽ, không rõ đồng
tình hay phản bác.
Anh quay nhìn ngọn đèn một lần nữa,
lòng bùi ngùi, rồi đột nhiên nảy ra ý muốn đặt tên cho nó, này cậu,
mình gọi nó là Ngọn đèn rừng
nhé. Có đèn biển thì cũng có thể có đèn rừng chứ. Cậu lái xe bị
bất ngờ, đặt tên à, để làm gì. Anh đáp, ừ, thì để nhớ một nơi
chốn, coi như một bí mật nhỏ của tôi và cậu. Cậu lái xe quay lại.
Trong ánh nhập nhoạng của ngày vừa hết, trông anh có vẻ chi là lạ, vẻ
của kẻ đi lạc.
SG 8/2012
YN
*
Thơ của Vũ Thành Sơn
**
Loại nguyên liệu dùng sản xuất điện hạt nhân sạch và an toàn.
***
Tên một loại thuốc lá hạng xoàng .
No comments:
Post a Comment