Trần Thị Nguyệt Mai
(Nguồn: Blog Phạm Cao Hoàng. Cúc Hoa, Nguyễn Ngọc Yến, Trần Hoài Thư, Đinh Cường)
Trong tháng 12 tôi thật bận rộn sau một chuyến
đi xa trở về. Anh THT cho biết TQBT 55 có
chủ đề “Nhà văn Dương Nghiễm Mậu” sẽ phát hành tháng 1-2013 với phụ bản “Địa ngục
có thật”, một bút ký của ông viết về Tết Mậu Thân, mà anh đã cùng với chị Yến đi
lên Đại học Yale sưu tập (vì gần nhà anh chị hơn Đại học Cornell). Anh chị đi lần
thứ nhất, phải đóng $35 làm thẻ thư viện chỉ có giá trị trong một tuần lễ (chuyện
tiền nong này, đại học Cornell không bao giờ đòi hỏi). Tuy nhiên, dù anh đã đứng
trước kệ sách tìm hoài tìm mãi nhưng vẫn không thấy. Hỏi thì được biết cuốn sách
đã có người mượn và chưa hoàn trả. Anh buồn bã ra về. Anh đã nản chí, đã nghĩ là
sẽ ra báo nhưng không làm phụ bản nữa. Nhưng hai ngày sau khi nhận được email của
Yale cho hay sách đã về tới thư viện và yêu cầu anh tới nhận sách trong vòng 10
ngày, thì chính chị Yến là người đã động
viên, đã khuyến khích anh thực hiện ý định của mình. Để anh chị lại lên đường thêm
một lần nữa. Nói như vậy, để bạn thấy rằng, đằng sau anh Trần Hoài Thư luôn
luôn có người vợ, người cộng sự đã đồng hành với anh trên mỗi bước đường, mỗi dự
án. Sẽ không bao giờ có cả ngàn, cả chục ngàn trang sách sưu tầm văn thơ miền
Nam thời chiến nếu
không có chị Yến tiếp tay ủng hộ với anh THT để thực hiện những dự án đồ sộ ấy.
Như anh Phạm Cao Hoàng đã ghi lại trên trang blog của anh:
“Công
việc đầy hy sinh và gian khổ của Trần Hoài Thư và Nguyễn Ngọc Yến trong hơn 10
năm qua nhằm sưu tầm và thực hiện TỦ SÁCH DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM 1954-1975 là có một không hai. Lái xe hàng ngàn dặm,
nhiều lúc trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, đến các thư viện Mỹ còn
lưu trữ sách báo miền Nam trước 1975, sao chụp lại, mang về nhà đánh máy, in
thành tuyển tập, thành sách. Không phải chỉ in vài cuốn, mà là hàng trăm cuốn.
Không phải chỉ vài trăm trang, mà là hàng chục ngàn trang. Lao tâm khổ trí, vất
vả, mệt nhọc, tốn kém tiền bạc, nhưng Nguyễn Ngọc Yến, người phụ nữ hiền hòa gốc
Cần Thơ, vẫn vui vẻ kiên trì hỗ trợ Trần Hoài Thư hoàn thành ước mơ của mình…”
(Một bông hồng cho
bạn tôi - Phạm Cao Hoàng)
Chị Yến mà trước đây tôi chỉ được "thấy"
qua văn chương, qua những bài viết của anh, và các bạn của anh. Từ những ngày đầu mới quen:
…
Đồng bằng bỗng chốc mà thân thiết
Bởi có em là một tình nhân…
(Cảm tạ đồng bằng - Trần Hoài Thư)
Đến khi anh chị lấy nhau, một đám cưới rất
đơn giản thời chiến tại Sài gòn mà anh đã ghi lại:
Người yêu tôi ở tận đồng bằng
Tôi đánh điện về nàng xin hỏi cưới…
… Đám cưới không nhà cao, nhà thấp
Không áo quần lễ lạc xênh xang
Tôi quá nghèo chỉ bộ đồ xanh
Dăm thằng bạn quen nhau thời khốn
khó
Nàng thì thào bên tôi, cần gì thứ
đó
Miễn tình anh vô lượng như thơ
anh
(Người
yêu tôi ở đồng bằng - Trần Hoài Thư)
Để rồi sau đó anh vội vã trở về đơn vị và
chị trở về Cần Thơ, mang theo nỗi nhớ thương, lo lắng của người chinh phụ:
“Phải. Em không bao giờ biết được một ngày,
em lại mang thêm niềm lo âu, đau khổ mới. Em mới biết rằng trên đời này, không
phải riêng em, mà còn có biết bao những người con gái khác như em. Không phải
lo âu đau khổ thường tình mà là niềm lo âu đau khổ vì định mệnh. Những sáng
những chiều đợi thư
anh. Những sáng những chiều đọc tin
tức trên báo chí hay nghe từ máy thu thanh hay liếc vội vàng trên các tin phân
ưu cáo phó. Anh đã làm em lo sợ. Và em chỉ biết cầu cứu đấng Tối Cao để cầu
nguyện. Trong đêm khuya. Trong những buổi trống vắng. Vâng, em đã yếu đuối. Tất
cả những người còn lại đều yếu đuối. Bởi vì em và họ đã bất lực.
Anh còn nhớ không, hỡi anh yêu dấu. Lần nào anh về, anh cũng làm em muốn
bật khóc. Anh về, không vui, không buồn, bước những bước chậm và mỏi. Đi bên
anh, em có cảm giác như sắp rời anh. Anh đã thuộc về ai, chứ không thuộc về em
nữa. Anh không biết, trong lần gặp nhau cuối cùng, em đã cúi mặt, ít nói năng,
nhưng thật sự, con tim em đã nói thật nhiều. Em muốn kể cùng anh tất cả nỗi nhớ
nhung như trời biển. Em muốn nói cùng anh, mỗi giờ mỗi phút là mỗi lo lắng, chờ
đợi bàng hoàng. Anh đã theo em không rời…”
(Lời cầu
nguyện - Trần Hoài
Thư)
Chị đã chấp nhận hết tất cả khi yêu anh, khi
làm vợ anh, rồi sau ngày giải giáp, khi anh lên rừng tràm "trả nợ",
chị đã ở lại gánh những gian nan:
Sợi tóc mấy năm em làm tình nhân
Khi em theo tôi một thời lận đận…
… Khi yêu tôi, em trở thành thua
lỗ
Bắt chước ca dao, hái nụ khổ đau…
… Tôi bỏ em vào tận rừng tràm
Em cũng theo tôi nuôi chồng lận đận
Bà Tú Xương ngày xưa gánh gạo
Em cũng theo bà gánh tiếp lao đao
Cám ơn em, người con gái miền Nam
(Sợi
tóc nhớ nhung - Trần Hoài Thư)
Như nhà thơ Du Tử Lê đã ghi lại:
“ Tuy
đã trên mười năm, tôi vẫn không quên, một buổi tối, trong bóng tối nhoè nhoẹt
khu parking, một thương xá rời rã ở thành phố Philadelphia, người bạn đời của
nhà văn Trần Hoài Thư, kể tôi nghe: Năm 1979, họ Trần ra tù, về quê vợ. Tám
tháng không nghỉ, mỗi ngày mười tiếng, với cặp mắt cận thị 7 độ, một tai điếc,
một xác thân chỉ còn 35 ký lô, Trần Hoài Thư gò lưng trên chiếc xe đạp rách,
nát, chở thùng kem, bán dạo trên các ngã đường Tây Đô...
Chị kể, chị không dám, dù chỉ một lần, lấy
con số 10 giờ, nhân với số ngày của tám tháng nắng, mưa phũ phàng trên phần số
của người đàn ông (mà,) chị vẫn vẹn, nguyên ngưỡng mộ. Chị bảo, đêm nào, chị
cũng phải cố cầm, ngăn nước mắt, khi nhìn, ngắm người đàn ông, mối tình đầu của
chị, đìu hiu chiếc bóng, tìm về căn nhà bế tắc mọi lối thoát...
Chị nói, cuối cùng, chị đành chọn lựa: Vượt
biên. Vợ, chồng lại chia tay! Chị để Trần Hoài Thư đi trước. Nếu ông trót lọt,
chị sẽ ôm con, đi sau.
Vì sống trong một thành phố nhỏ, (mà,) chồng
lại là tù cải tạo, đang bị công an địa phương quản chế; nên, nhất cử, nhất động
của họ Trần, đều bị giám sát chặt chẽ.
“Vợ chồng chúng tôi phải dàn cảnh gây lộn
nhau. Đêm nào anh ấy cũng giả bộ say rượu. Khua, đập nồi, niêu. La. Hét. Nạt nộ
vợ con. Xáng chén. Xáng bát... Tới độ lối xóm sinh lòng tội nghiệp cho tôi...
Sau những màn kịch dở khóc, dở cười như vậy, chúng tôi cũng tội nghiệp cho hoàn
cảnh của chính mình... Nhưng, nhờ thế mà, ngày anh ấy vượt biên, vắng mặt trong
nhà, đã không bị công an điều tra, gây khó. Vài tháng sau, tới phiên tôi và
cháu nhỏ, cũng lặng lẽ, ra đi...”
Được biết, họ vượt biên ở cùng một cửa biển;
nhưng mỗi con thuyền, lại trôi dạt tới một trại tỵ nạn khác. Qua năm 1980, gia
đình mới sum họp.
Dù chuyến tầu thương-đau-tốc-hành, đã lùi
sâu quá khứ. Những năm, tháng Trần Hoài Thư thồ kem, bán dạo đường phố Tây Đô;
với đêm đìu hiu chiếc bóng, lần về căn nhà thường trực run rẩy trong nỗi sợ
hãi, vì bị canh chừng; cũng đã lăn theo vành bánh xe đạp, lãng quên, yên nghỉ
đâu đó, trong xứ Cần Thơ... Vậy mà, khi thuật lại, những điều trên, tôi không
biết nước mắt hay, sương khuya, lại hiện ra trong mắt chị.”
(Trần
Hoài Thư, Ngọn Cờ Đầu: Nỗ Lực Xiển Dương 20 Năm Văn Chương Miền Nam - Du Tử Lê)
Chị Yến của những năm đầu tiên trên xứ người.
Chị đã chấp nhận cuộc đời làm công nhân, để lo cho chồng con được trở lại trường.
Yêu chồng, thương con như tấm lòng của bất cứ một người vợ, một người mẹ Việt
Nam nào.
Hãy đọc truyện ngắn “Cho con mùa tựu trường”
mà anh THT đã ghi lại khi lần đầu tiên người con duy nhất của anh chị phải xa
nhà để vào Đại Học:
“Trường mới của con cách nhà chỉ gần hai giờ
xe. Ngày ba mẹ đưa con đến trường thì mùa thu đã bàng bạc cả đất trời. Dù lá vẫn
chưa đổi màu, dù ngọn gió vẫn chưa tê lạnh, nhưng trong cõi không gian, mùa đã
chuyển. Bầu trời với những đám mây làm biếng, xám trắng như ngủ yên tự một kiếp
nào, và những hàng cây bên đường như gục đầu chờ đợi một ngày lá rụng. Nhưng ở
trong lòng ba mẹ, là cả một biến động đến sững sờ. Nào ai biết một ngày đứa con
phải xa vòng tay đùm bọc. Nào ai biết một ngày cánh chim nhỏ bé lại sổ lồng. Bởi
vậy, mẹ con đã khóc như chưa bao giờ được khóc. Khóc thút thít suốt đường. Giấu
đôi mắt đỏ hoe khi mang va-li của con lên lầu nội trú. Và khi từ giã con, xuống
lại xe, thì mẹ lại khóc òa.
Ba đã lái xe ra ngoài cổng trường. Mẹ lại
van ba lái vào trường thêm một lần nữa. Ba chiều mẹ. Xe đậu dưới lầu. Mẹ ngồi
trông lên nói: "Không biết con có quen với đời sống mới hay không? Không
biết đứa bạn cùng phòng có kỳ thị hay không? Không biết trái gió trở trời, đau
bụng đau dạ nó có xức dầu hay không? " Ba đổ quạu, gắt: "Mình cứ xem
nó còn con nít mãi. Nó đã trưởng thành rồi. Để cho nó tự lập cho quen." Rồi
ba đạp ga lái ra ngoài đường. Ba phải có quyết định dứt khoát. Nếu không mẹ cứ
ngồi ở đây suốt cả đêm.
…
Xe lại về nhà. Ba mẹ bước vào cửa. Cõi trống
vắng đến đứt đoạn sững sờ. Mẹ vào phòng con, rờ tay lên tấm drap, tấm chăn, chiếc
gối. Hình như trong từng thước khối của không khí đều vướng vít hình ảnh con,
tiếng cười, tiếng nói của con. Ở đâu cũng thấy con, trên sofa, mở lại TV, nghe
lại bản nhạc, thấy cái show quen thuộc... Rõ ràng ba mẹ đã không chuẩn bị cho một
sự chia ly, dù sự chia ly ấy chỉ là tạm thời, và khoảng cách ngăn chỉ trên dưới
trăm dặm. Một người ở đầu sông, một người ở cuối sông cũng đã nhớ nhung rồi, huống
hồ ba mẹ chỉ có mỗi một mình con, gần mười tám năm chưa rời nhà một ngày. Bởi vậy,
mẹ con mới khóc, đôi vai cứ bật run trong bóng mờ của căn phòng.
Mẹ bảo mẹ muốn đi chợ một lát. Mẹ ra xe rồ
máy. Còn lại ba một mình. Ngực ba như nhói bởi một sức nặng vô hình. Đó là khối
buồn, cộng thêm khối mất mát, khối nhớ nhung trộn thành vôi hồ đông cứng, bắt
ba phải hết ngồi lại đứng, nhìn ra ngoài đêm, quay quắt...
Mẹ con đã giấu ba. Mẹ đã lái xe lên trường
thêm một lần nữa. Lên đó để làm gì? Ngồi trong xe và nhìn lên. Vì sao? Không ai
có thể cắt nghĩa nổi.”
(Cho con mùa tựu
trường - Trần Hoài Thư)
Và với hoài bão sưu tập văn chương miền Nam
thời chiến của anh Trần Hoài Thư, chị Yến đã đóng góp một phần không nhỏ, luôn
đồng hành cùng anh đến các thư viện:
“Thư viện là một ngôi lầu rất
cao. Có lần tôi đang ở tầng cao nhất thì chuông cứu hỏa báo động. Thang máy ngừng
chạy. Chỉ một mình tôi chạy bộ xuống lầu. Và khi xuất hiện, bà xã tôi đứng đợi ở
đó, khóc vì quá mừng!”
(Trò chuyện cùng Trần Hoài Thư về Thư Ấn Quán & Thư Quán Bản Thảo - Trần Doãn Nho)
Và như anh Phạm Cao Hoàng đã ghi lại:
"... chuyện in sách di sản văn chương miền Nam của Trần Hoài Thư thì quanh
đi quẩn lại cũng chỉ có hai vợ chồng. In ra, xếp theo thứ tự số trang, dùng keo
dán gáy lại, loại keo rất nóng, sơ suất có thể bị phỏng. Rồi thì dán bìa, cắt
xén, cho vào phong bì, ghi địa chỉ, ra bưu điện gửi tặng thân hữu và những người
yêu sách. Tất cả những công việc ấy đều có bàn tay tuyệt vời của Nguyễn Ngọc Yến."
(Một bông hồng cho
bạn tôi - Phạm Cao Hoàng)
Cho đến một ngày cuối năm 2012, khi đang làm số TQBT 55 cho kịp in để
anh chị sẽ mang theo tặng bạn bè khi đến dự buổi lễ ra mắt sách của anh Nguyễn
Xuân Thiệp vào ngày 1-5-2013 tổ chức tại Virginia, tôi đột ngột nhận được điện
thư của anh:
"Chị Yến bị stroke hôm nay.
Anh phải lo cho chị. Nên tạm ngưng một thời gian. Mong em cảm phiền."
Tôi đã rất buồn...
Sau đó chị Cam Li
và tôi nhận được thư anh:
“Cám ơn em và NM về những chia sẻ.
Lần đầu tiên anh mới hiểu được nỗi
buồn. Cái buồn của một người trong một căn nhà không có bóng một người thân yêu
của mình.
Em cũng biết stroke là bệnh thế nào
rồi.
Mong mọi điều trôi qua, bình thường
trở lại với chị Yến.
Khi anh nói với chị Yến sẽ không làm
TQBT nữa, chị Y. nói: Sao lại bỏ nó?
Thuốc men, chụp hình liên miên là
những hình phạt.
Chỉ mong những hình phạt này mang
lại kết quả tốt.
Anh rất yếu đuối, thấy cảnh chị ấy
nằm trên giường bệnh, nước mắt anh lại chảy.
Một lần nữa, cám ơn hai em.”
Tôi đã báo tin cho những người bạn của anh, xin các anh chị góp lời cầu
nguyện cho chị Yến mau hồi phục.
Để rồi sau đó nhận được điện thư của anh:
“Chị Yến có lẽ còn lâu
mới hồi phục. Cả nửa thân thể không còn chủ động.
Em đừng bận tâm về TQBT. Anh ngưng.
Em có thể trả bài lại cho các người viết có bài đăng số này.
Với anh giờ là Y.”
Biết được tình trạng của chị như vậy, tôi
đã khóc.
Tôi xin anh cho lên thăm chị vào cuối tuần
và nhờ nhà văn Nguyễn thị Hải Hà giúp đưa đón và ăn ở.
Đến thăm chị, lần đầu tiên gặp, trên giường
bệnh, chị vẫn tươi cười không làm cho người đối diện cảm thấy bất an và buồn. Thương
lắm. Nửa người bên trái của chị không cử động và không có cảm giác gì cả. Tuy
thế, chị không hề nghĩ đến chị mà cứ lo cho tôi từ xa đến thăm. Nói anh Thư chở
tôi đi chơi cho biết thành phố New Jersey (trong khi chúng tôi đâu có lòng nào
hoặc vui gì mà đi chơi…) Rồi khi anh Thư ra ngoài nói chuyện điện thoại, chị bảo
tôi và Hải Hà ráng giúp anh lo cho TQBT số 55... Khi tôi kể lại việc này, các bạn
của anh ai cũng xúc động...
Anh Khuất Đẩu đã viết cho tôi:
“Bạn nhỏ thân,
Sáng nay, trời mưa, lạnh. Chị Chiêu đi Sông Cầu ăn cưới con trai
của một cô học trò cũ ở Mỹ về cưới vợ VN. Tôi không đi xe đường dài được. Nằm
nhà một mình. Đọc mail của Thư và NMai, xúc động đến muốn khóc.
Vì NM đã bay (…) sang
chỗ anh Thư nghe nói xa lắm. Đến thăm chị Yến, rồi về nhà giúp anh Thư in TQBT.
Lại quay về để hôm sau đi làm.
Xúc động vì chị Yến vẫn muốn
TQBT được in tiếp dù chị nửa người bị liệt!
Và xúc động vì anh Thư
đã lấy lại tinh thần…”
Và khi bạn đọc những dòng chữ này, chị Yến
vẫn còn đang nằm trong bệnh viện. Sẽ phải mất một thời gian tập vật lý trị liệu
để chị có thể hồi phục lại. Nhưng tôi luôn tin rằng với tình yêu và sự săn sóc
của anh cũng như ý chí mạnh mẽ của chị, chị sẽ mau chóng hồi phục. Để anh sẽ nở
một nụ cười thật tươi và mắt không còn lệ ướt. Để chị lại cùng anh tiếp bước
trên mọi nẻo đường đời…
Trần thị Nguyệt Mai
13-1-2013
No comments:
Post a Comment