Cái
chết của Chị Hằng
Autumn moon. Artist: Mitchell
“Ánh trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ
Ôm một mối mơ...”
Hồi
nhỏ, hằng năm vào độ Rằm Tháng Tám, mỗi khi nghe lũ trẻ nghêu ngao ngoài đầu
ngõ là thể nào tôi cũng hỏi.
“Mẹ
ơi, tại sao người ta lại gọi Cuội già là “thằng” hở mẹ?”
“Tại
Cuội nói dối.”
“Mẹ
ơi, Chị Hằng lên trăng hay chú Cuội lên trước hở mẹ?”
“Chắc...
Chị Hằng.”
“Sao
mẹ biết?”
Mẹ
tôi ngần ngừ, “Vì mẹ nghe chuyện Hằng Nga Hậu Nghệ trước.”
“Chuyện
như thế nào hở mẹ?”
Mặc
tôi hỏi nhây, cứ mỗi độ Trung Thu, thể nào mẹ cũng dỗ tôi ngủ bằng cái câu chuyện
mà tôi đã thuộc nằm lòng.
“Ngày xửa, ngày xưa, thuở quỷ thần còn hỗn
mang, có chín con quạ tu luyện thành tinh biến thành chín mặt trời. Chín mặt trời
ngày đêm tỏa ánh sáng hừng hực như muốn thiêu đốt thế gian. Sông ngòi khô cạn,
đất đai nứt nẻ, đồng ruộng xác xơ. Thiên hạ chết khát, chết đói la liệt khắp nơi.
Dân tình than oán như đã đến ngày tận thế.
Ở kinh thành, nhà vua rao truyền trong dân
gian, ai làm tắt được chín mặt trời, ngài sẽ gả con và nhường ngôi cho. Những bậc
hiền tài khắp nơi đều mong giúp nước, nhưng không ai đủ sức giương cung bắn tới
mặt trời.
Có một hôm, giữa lúc nhà vua đang tuyệt vọng
nhất thì có một người tự xưng là Hậu Nghệ vác một cây cung thật to, xin vào yết
kiến. Thấy chàng khôi ngô, lực lưỡng, vua rất thuận lòng. Hậu Nghệ xin lên núi
cao, vận hết thần lực giương cây cung chín thước. Khi chàng buông cung, tên lao
vun vút rồi mất dạng giữa bóng mặt trời.
Trong chín ngày, chàng bắn chín phát, mỗi phát trúng một mặt trời. Tới
ngày thứ chín, bầu trời chỉ còn lại một mặt trời nguyên thủy. Nắng lửa không
còn. Không gian trở nên mát mẻ.Thiên hạ khắp nơi vui mừng nhảy múa, nhà vua
cũng đẹp dạ truyền gả Hằng Nga và nhường ngôi cho. Trên thiên đình, Bà Tây Vương
Mẫu cũng cảm kích tặng Hậu Nghệ một viên
linh đơn trường sinh bất tử. Hậu Nghệ giấu kín linh đơn, cái bí mật này chàng
chỉ tiết lộ với Hằng Nga, người vợ xinh đẹp nhất đời của mình.
Từ khi lên ngôi, Hậu Nghệ thường ỷ công bắn hạ
mặt trời nên đâm ra kiêu ngạo. Một hôm nhân lúc chàng mải mê săn bắn, Hằng Nga
tò mò lấy thuốc ra xem. Đúng lúc đó, Hậu Nghệ trở về. Sợ chồng bắt được quả
tang, Hằng Nga túng thế nuốt vội viên thuốc. Thuốc thần hiệu nghiệm, thân thể Hằng
Nga trở nên nhẹ hẫng, từ từ bay bổng
lên cao. Hậu Nghệ đành bất lực, trơ mắt mà nhìn Hằng Nga mất dấu trên trời.
Từ đó, đời đời tương truyền, Hằng Nga bay lên
cung trăng và sống cô độc một mình giữa chốn khôn cùng.
Mấy ngàn năm trôi qua.
Nhân loại già rồi chết.
Chỉ có một người cứ sống. Sống mãi... Sống
mãi.
Tôi nhìn lên trăng, lòng đầy thương cảm. Ai
hoài cho một người bị giam cầm trong cõi mịt mùng.
Dân gian kể, mỗi năm vào độ Trung Thu, đúng
vào lúc trăng sáng nhất, Chị Hằng sẽ bước ra ngoài cung trăng để vũ khúc Nghê
Thường. trong cổ thi
Hồi
nhỏ, tôi tin là thật, nhiều đêm cứ đăm đăm nhìn lên trời để mong rình gặp Chị Hằng.
Ôi!
Tuổi thơ tôi. Và những mùa trăng đếm được.
Ngày 21 tháng 7 năm 1969. Thế giới
chấn động. Phi thuyền Apollo 11 đưa con người đặt bàn chân đầu tiên lên tới mặt
trăng.
“That’s
one small step for a man, one giant leap for mankind.”
“Đó
là bước nhỏ của một con người, nhưng là một bước nhẩy vọt vĩ đại cho nhân loại.”
Cả
thế giới đứng tim theo dõi bước đi của Neil Amstrong.
Còn
tôi, tôi cũng đứng tim theo dõi bước chân của... một người khác.
“Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.”
Tôi
thấp thỏm. Tôi lo âu. Cứ nghĩ đến nỗi mong nhớ trần gian của Chị Hằng thì biết.
Khó mà tưởng tượng! Mấy ngàn năm trôi qua! Bao nhiêu lần hình dung ra cảnh Chị
Hằng chạy như bay tới chỗ Neil Amstrong. Là trái tim tôi nức nở. Chị không thể
nào bỏ qua. Chị không thể nào không biết. Cơ hội mấy ngàn năm có một như vầy.
Nhưng
Neil Amstrong đã không gặp Chị Hằng. Một dấu vết nhỏ cũng không. Mặt trăng chưa
từng có sự sống.
Thế
thì Hằng Nga đi đâu?
Nếu Hậu Nghệ là một nhân vật lịch
sử thì Hằng Nga không phải là một nhân vật chỉ có trong huyền thoại.
Chính
sử Trung Quốc viết, Hậu Nghệ là vua nước Hữu Cùng. Hữu Cùng là một nước chư hầu
tí hon thời Nhà Hạ. Ông nổi tiếng thần xạ, bách phát bách trúng. Năm 2188 TCN,
vua Nhà hạ là Khải mất, con là Thái Khang lên nối ngôi. Nhưng Thái Khang là kẻ
ham chơi, thích săn bắn, không quan tâm đến triều chính và tin dùng Hậu Nghệ. Mỗi
lần săn bắn thường mời Hậu Nghệ đi cùng. Thấy Thái Khang bỏ bê chính, hậu Nghệ
nảy sinh ý định cướp ngôi.
Một
hôm, nhân dịp Thái khang rời kinh đi săn ở đất Lạc, Hậu Nghệ một mặt bí mật sai
quân ở nước Hữu Cùng bất ngờ tấn công kinh đô Nhà Hạ, một mặt đem quân phong tỏa
lối về của Thái Khang.
Nghe
tin có biến, Thái Khang vội vàng mang quân trở về, nhưng không phá nỗi vòng
vây, đành dẫn quân sang các nước chư hầu.
Thái
Khang định liên kết với chư hầu đánh Hậu Nghệ, nhưng vì chư hầu không phục,
đành lưu vong rồi mất ở nước ngoài.
Hậu
Nghệ sau khi cướp được Nhà Hạ lại tỏ ra kiêu ngạo, lại bắt chước như Thái Khang
đắm mình trong tửu sắc, mê săn bắn và bỏ bê việc nước. Nhiều trung thần can
ngăn nhưng Hậu Nghệ lại đâm oán ghét rồi điều họ đi nơi khác. Một người bề tôi
tên là Hàn Trác thấy thế cũng nảy sinh ý định cướp ngôi.
Hàn
Trác là kẻ giảo hoạt, dùng lời xu nịnh, tán tụng Hậu Nghệ lên tận mây xanh. Hậu
Nghệ hết lòng tin tưởng, trao hết triều chính cho Hàn Trác để hưởng lạc. Hàn
Trác thường xuyên ra vào cung cấm, lộng quyền, lại còn cả gan tư thông với Hằng
Nga là vợ Hậu Nghệ.
Về
sau, có kẻ mật báo, Hậu Nghệ tức giận cầm gươm vào cung tra vấn. Trong cơn ghen
tột độ đã giết chết Hằng Nga. Sau đó phao lên, Hằng Nga lén uống linh đơn nên
bay về trời. Tin từ miệng vua truyền, không ai dám tra vấn hay nghi ngờ chi cả.
Câu chuyện truyền từ đời này sang đời khác, mỗi người thêm thắt, riết thành huyền
thoại.
Mà
huyền thoại bao giờ cũng sáng rực trong thi ca.
Xưa
nay, có thi sĩ nào mà lại không yêu trăng?
Giả
sử, trời không có trăng, đêm sẽ buồn biết mấy! Thi ca sẽ là những dòng chữ tối
tăm, mờ mịt.
Trong
bài Điểu Minh Giản, Vương Duy viết
“Người nhàn hoa quế rụng.
Đêm Xuân núi đìu hiu.
Trăng lên chim thảng thốt
Khe Xuân vọng tiếng kêu”
Đêm
trong núi, bất chợt có ánh trăng nhô lên, lồng lộng sáng trên đầu ngọn rừng,
làm con chim phải bàng hoàng, giật mình mà thảng thốt. Hóa ra, vạn vật đều say
trăng, không cứ chỉ con người.
Trăng chỉ có một nhưng mỗi người yêu mỗi cách.
Nhà
thơ Lý Bạch Trung Hoa đôi lúc cũng hỏi trời, hỏi trăng.
“Trời xanh, trăng có tự bao giờ?
Nâng chén, đêm nay hỏi một câu.
Người với lên trăng, vin chẳng được.
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.”
Trăng
tự ngàn xưa mà trăng vẫn mới.
Thơ
của người xưa sao ý vẫn mới?
Trăng
chỉ có một, mà người mỗi nước yêu mỗi khác.
Trong
thơ Việt, nhà thơ kéo trăng xuống đời.
“Gió theo lối gió, mây đường mây.
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó.
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Mà
hình như chỉ ở Việt Nam, trăng mới đầy huyền thoại. Chị Hằng trong trăng, trăng
hóa Chị Hằng.
“Trăng nằm
sóng soãi trên cành liễu.
Đợi gió Đông về để lả lơi.
Hoa lá ngây tình không muốn động.
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi!”
Hay
trăng của Vũ Hoàng Chương,
“Sao đọng
kim cương sáng ngập bờ
Lúa thì con gái mượt như tơ
Gốc đa cổ thụ duyên còn đượm
Và cái trăng vàng quá lẳng lơ”
Trăng
chỉ có một, sao trăng Việt Nam lại lẳng lơ hơn? Chị Hằng cũng có một, sao Chị Hằng
trong mắt Việt lại gợi tình hơn? Hay chỉ tại nhà thơ Việt quá đa tình? Đến nỗi
“thi cuồng” Bùi Giáng cũng lên tiếng trêu,
“Trăm năm tắm gội dưới trời
Ngày thì tắm nắng, tối rồi tắm trăng.
Nhớ em tắm với chị Hằng
Tận cùng tắm với ngọn đèn cô đơn.”
Nhưng
yêu trăng nhất có lẽ chính là Tô Thùy Yên, nhà thơ lớn của Việt Nam, một tâm hồn
lớn mở hết với trăng.
“Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ
Ta thức đêm nay chơi với trăng
Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi.
Quanh mồ ta, trăng phải lang thang.”
Trăng
tít tận trời, mà trăng gần gũi như người bạn. Thức trắng đêm để chơi với trăng.
Yêu trăng hằng đêm, yêu trăng tới nỗi khi nghĩ đến cái chết mai sau, mình mất rồi
thì sẽ trăng quạnh quẽ mà chạnh lòng. Yêu đến vậy thì tột cùng. Thì mới là yêu
nhất.
Năm
1983, tôi đi vượt biên. Ngồi trên chiếc ghe nhỏ chòng chành giữa trùng khơi mịt
mùng. Sinh mạng mong manh, mỏng tựa sợi tơ, chỉ chực đứt đời khi trời gió nổi.
Mấy đêm liền trời tối đen như mực, chúng tôi 62 người như những người mù ngồi
im trong bóng tối. Tôi giơ bàn tay, bàn tay cũng chìm trong cái mầu đen kịt.
Tôi nghĩ đến cái chết của một con người. Của tôi. Giống như một dấu chấm nhỏ
nhoi đột nhiên biến mất. Không hề gây ra một xao động nào. Một sự tĩnh lặng tuyệt
nhiên trong trời đất.
Vậy mà hôm sau trời lại có trăng. Một lần trong
đời ngắm trăng trên biển. Tôi như con chim trong thơ Vương Duy bỗng giật mình
thảng thốt kêu. Những thi sĩ không yêu trăng quá đà. Thơ không hề cường điệu.
Không có nơi nào đẹp bằng trăng trên biển. Trên núi non, trên sông ngòi, mặt đất
hẹp quá nên trăng không giải hết. Chỉ có biển, biển mới đủ rộng cho thỏa tình trăng
tỏa. Đêm đó tôi ngồi giữa biển trăng mà chảy nước mắt. Những giọt nước mắt cảm
động tạ ơn Thượng Đế. Cảm ơn Ngài đã cho tôi một ân phước lớn trong đời. Trước
khi chết còn thấy được một kỳ công của tạo hóa. Biển trăng.
Bây giờ, cũng đang là mùa trăng.
Đã
lâu, tôi không ai nghe ai hát bài “Ánh trăng trắng ngà...”
“Mẹ
ơi, không có ai ở trên cung trăng đâu mẹ.”
“Mẹ
ơi, thằng Cuội không phải là kẻ nói dối
nhất đâu mẹ?”
Trăng
trên đất lạ xa cách và lạnh. Cũng là mầu vàng trăng nhưng trăng xưa đã khác.
Huyền thoại về trăng cũng không còn. Mà huyền thoại là những câu chuyện đầy mầu
sắc, nó phát ra một thứ ánh sáng huyễn hoặc dẫn dắt con người ta đi hết thuở
thiếu thời.
Không
có huyền thoại, thế thì con tôi có lẽ đang đi qua tuổi thơ bằng những con đường
khác.
Có
ai làm ơn chỉ giùm tôi lối đi của chúng?n
ntta
Sept.
21/2012