Thursday, September 20, 2012

Nguyễn Anh Khiêm


KÝ ỨC SƠ SÀI





                                                       Phố cổ Hội An


1. 
      Làng Non Tiên, quê tôi, nằm ven con sông con chảy ra sông Vu Gia tạo thành ngã ba sông, có đò ba bến nơi làng Hà Tân -  quê hương của nhạc gia cụ Phan Khôi, Cử Nhơn Lương Thúc Cần. Toàn vùng nằm trong một thung lũng phía tây huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng  Nam (Nơi diễn ra hai trận đánh đẫm máu, trận Thường Đức và trận Đồi 1062 vào những năm cuối cuộc nội chiến.). Dòng sông trong veo trườn ngoằn ngoèo dưới chân núi, ngồi trên đò ngang có thể nhìn thấy con tôm bơi lững lờ trong lòng cát trắng. Con sông nhỏ tới nỗi không có tên riêng, chỉ gọi bằng danh từ chung, Sông Con. Hằng năm, sau mùa mưa lụt, nước cạn trong mà chảy xiết, muốn qua làng bên chỉ cần xắn quần lội, nước chỉ quá đầu gối. Đây cũng là mùa câu cá bống vô cùng hào hứng. Lũ cá bống cát mập tròn, thân trắng trong, kho tiêu ăn với cơm gạo mới thơm lừng trong nhà tới ngoài vườn. Giao thông dễ dàng chẳng được bao lâu thì người ta bắt đầu dựng xe gió, đóng cừ ngăn dòng chảy khiến nước đổ về một phía tăng cường sức nước cho guồng xe quay nhanh, múc được nhiều nước hơn đổ vào ruộng lúa. Nước bắt đầu dâng lên, qua sông phải chờ đò lâu lắc. Cho tới trước mùa lụt năm sau người ta lại giở xe vì sợ nước cuốn trôi, sông lại cạn xuống. Loại xe đó không hiểu sao lại gọi xe gió trong khi nó vận hành hoàn toàn bằng sức nước. Tương truyền kiểu xe thủy lợi này do cụ Phạm Phú Thứ chỉ vẽ. Nhân chuyến đi sứ bên Tây, cụ nhìn thấy đâu đó liền vẽ đúng kiểu đem về dạy lại giúp dân.
       Cho đến đầu thế kỷ trước, làng tôi hình như vẫn là làng giàu nhất xứ, nhờ thiên nhiên ưu đãi: Một con suối nhỏ chảy hiền hòa quanh năm ngang qua cánh đồng đủ cung cấp nước cho cư dân gieo cấy hai mùa trong khi các làng khác phải đợi mưa cho một mùa lúa duy nhất trong năm (những ngày chưa có xe gió). Cách nay ngót thế kỷ mà dân cư đã dựng được chục ngôi nhà rường lợp ngói, vách tường. Trước năm 40, ông tôi đã sắm được xe đạp, súng săn hai nòng. Muông thú bấy giờ dồi dào, ra ngõ đã thấy chồn đèn ăn chuối chín bói. Đi ngang Bùng Đình thấy cả bầy gà nước lấp ló trong đám lá sen. Chỉ cần nổ súng là có bữa chiều thịnh soạn. Thịt rừng gần như không ngớt, không thịt con này thì con kia, kể cả cọp, gấu… Chúng tôi đã sống trên chốn địa đàng mà bấy giờ đâu nhận biết.
      Từ xa xưa, tổ tiên tôi đã “qui hoạch” một ngọn đồi trồng gỗ sao để dựng đình chùa, một triền núi trồng mít lấy gỗ tạc tượng Phật, miền Trung vẫn chuộng loại mít ướt múi mềm, ngọt cay. Không thể nào quên những trưa nắng với gió Lào khô cháy, bọn nhỏ chúng tôi vẫn bất kể, cởi áo đội đầu rủ nhau tắm sông. Chúng tôi không quên ghé Gò Chùa tìm mít chín sút cùi rụng dưới gốc. Không phải lúc nào cũng có nhưng nếu may mắn  được thì châu đầu xúm xít dưới bóng cây làm một ruột đầy sảng khoái trước khi dầm mình vùng vẫy dưới sông trốn nóng. Còn mấy gò hoang rộng rãi dọc theo cánh đồng thì ông bà chúng tôi cho trồng xoài hầu con cháu chia nhau ăn. Hằng năm, mỗi nhà đấu giá một cây lúc trái còn xanh, sở hữu cây đó cho đến hết mùa. Đó là giống xoài cơm nhỏ quả, chín cây, thơm nức và ngọt lịm. Những đồi xoài chín vàng đung đưa trong mưa giông tháng ba vẫn chập chờn theo tôi vào giấc ngủ mãi đến tuổi già và con suối róc rách ven bờ tre vẫn chảy mãi trong hồn tôi tận những ngày xế bóng. (Giống xoài đó, ngạc nhiên thay, khi vào Sài Gòn, tôi thấy người Pháp trồng xen kẽ với me trên hè phố để lấy bóng mát, nhiều nhất trên đường Tự Do, tôi bồi hồi như gặp lại cố nhân, nay bị chặt bỏ hết nhường chỗ cho nhà lầu xi-măng cốt thép). Tất cả đình chùa đồ sộ và đẹp thần tiên ven sườn núi đã bị Việt  Minh đốt phá trong tháng tám 1945, có lẽ cốt xóa dấu tích phong kiến hơn là tiêu thổ kháng chiến như họ vẫn thường bảo. Rồi  lần cuối, một buổi chiều 1965, máy bay Mỹ hủy diệt ngôi làng bằng 50 quả bom. Cũng chẳng rõ của Mỹ hay không quân VN nhưng với lượng bom hào sảng dành cho xóm quê bé xíu thì chắc của Mỹ thôi. Cửa nhà tan nát, vườn cam chỉ là những hố bom sâu hoắm nhưng lạ một điều, dân cư nấp trong những chiếc hầm tạm bợ vậy mà không một người bị thương. Mọi người kháo nhau vì là làng Non Tiên! Sau bom, thuốc khai quang cũng quét sạch mấy đồi xoài, không một cây sống sót.
        Nay thỉnh thoảng tôi vẫn về lại thăm mồ mả tổ tiên. Về lại để thấy rong chìm, thấy đá nổi và không thể tin làng quê như một chốn địa đàng ấy đã từng có tại đây chỉ mấy mươi năm trước. Ngày đó, tôi học Tiểu học cách nhà chừng ba cây số, đi bộ trên bờ ruộng, vượt mấy cây cầu khỉ, ngang qua gò gỗ sao vắng tanh rờn rợn, nghe con công “tố hộ” trong lũng xa. Mấy học trò lớn chuyên dọa cọp, nhác ma, chiều đi học về chạy rớt dép, mực đổ tèm lem khắp mình mẫy. Kỷ niệm “sâu sắc” nhất, năm lớp ba, tôi bị ông thầy, vốn  người trong xã, xô mạnh, trán  va vào bảng đen đau điếng chỉ vì tôi viết THÌ MÀ LÀ  hơi nhiều trong bài văn miêu tả. (ông thầy, nếu còn sống đến nay, chắc ông đề nghị xử bắn hầu hết các biên tập viên đài truyền hình Vờ Tờ Vờ, họ nói một câu với hàng chục tiếng THÌ MÀ LÀ, nghe “bức xúc” tệ).
        Về mấy nhân vật trong làng, tôi không quên được ông bác họ. Mọi người cứ nhắc mấy chuyện về ông sau 1975. Hồi đó công an thôn, cũng là con cháu trong làng, phát cho mỗi nhà mấy câu khẩu hiệu để dán lên vách. Bác tôi chừa lại, không treo lên câu “Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, bị hạch hỏi lý do, bác nói bác đã nghĩ kỹ, bác thấy sự nghiệp của bác tệ quá, chỉ có mỗi tấm phên rách, Bác Hồ sống ở đây chi cho cực khổ, Bác nên đi chỗ nhà giàu “sống mãi” khỏe hơn. Môt lần ra thăm đồng, lúa vừa trổ bông, gió bấc bỗng nhuộm tím núi rừng, thổi lao xao trong buổi chiều u ám, nhìn bông lúa xác xơ cúi rạp trong giá lạnh, bác lẩm bẩm:
       - Gió kiểu này thì rồi ra chỉ còn Bác Hồ sống mãi thôi, ai cũng chết tiệt hết.
        Coi bộ bác tôi “tâm đắc” câu  sống mãi… đó dữ. Lại một đêm hội họp, học tập gì đó tại trụ sở thôn, về khuya ai cũng mỏi mệt, ngủ gà ngủ gật mà viên cán bộ xã  lại cao hứng chỉ ra nguồn gốc tổ tiên loài người là  khỉ, bác giơ tay xin phát biểu ý kiến:
       - Dạ, tôi thấy tổ tiên loài người là con khỉ hay con chi cũng được, xin cho chúng tôi về ngủ, mai còn đi mần sớm.
         Nghe nói, nhưng không chắc, ông là tác giả câu nhận xét về “lưu thông phân phối”:  Có cứt chi mà phân, có phân cũng như…cứt.
         Năm 1956, vào học tại trường Trần Quí Cáp, chúng tôi phải lội bộ rục giò 25 cây số từ quê nhà tới Ái Nghĩa mới có xe đò đi Hội An để qua một kỳ thi concours tương đối khó vào lớp Đệ thất. Từ đây bắt đầu bảy năm trung học ăn cơm tháng ở nhà trọ buồn bã triền miên. Nghề nông không còn khá nữa, tiền khó kiếm, má tôi vất vả lắm mới chu cấp đủ cho tôi ăn học. Càng điêu đứng hơn khi mùa đông năm đó ba tôi qua đời vì bạo bệnh, sau khi ra tù dưới chế độ Ngô Đình Diệm được gần sáu tháng. Ông chỉ mới 37 tuổi. Tháng ngày tiếp sau, tôi chẳng thiết học hành, không nguôi đau đớn tiếc thương ba. Ba tôi  đang làm công chức cho Pháp, chef gare Trà Kiệu, Kỳ Lam, năm 1945 bỏ về theo kháng chiến. Phải chi ông bớt yêu nước một chút hẳn cuộc đời chúng tôi đã khác.
       Thị xã Hội An ngày ấy trong trí nhớ tôi với những cống nước thải lộ thiên bốc mùi tanh nồng dưới nắng hè gay gắt, những ngày mùa đông mưa dầm áo quần phong phanh đi học ngang qua ruộng rau muống gió thổi lồng lộng lạnh thấu xương, mặt mày tái mét. Hội An với những ngôi chùa Tàu diêm dúa, cửa nhà cũ kỹ mái ngói rêu phong, thấp lè tè, rệu rã như muốn đổ nhào trong cơn lụt sóng vỗ bập bềnh, nước ngập  gần tới nóc phố dọc sông Hoài. Hội An với mì bà Đợi xã Cẩm Châu loe hoe vài con tôm sông giã giập phảng phất mùi cua biển cùng vài lát thịt heo ba chỉ với nước lèo cô đặc ăn kèm rau húng lủi và cải con, không bao giờ thấy đâu ngon bằng.(Nay cũng đã tuyệt tích, tôm sông không còn, cải con cũng tẩm thuốc tăng trưởng) .Hội An với cách phát âm rặt địa phương, “mắm” thành  “múm”, “xuân” thành “xưng”, “cá lác” là “cá lóc”, lạ nhất là “phim” thành “phin”  (Tối  nay rạp Hòa bình chiếu phin(!) “Cầu sông Kwai”). Hội an với món Cao Lầu đặc trưng nấu bằng thịt heo xa-xíu, ăn với cọng bánh giòn giòn cán từ bột mì ngâm nước tro nước vôi gì đó. Nghe nói phải dùng nước giếng Bá Lễ mới được. (chắc là huyền thoại  dành cho một món ăn đơn giản). Các bạn tôi, nhất là Mạc Phi Hoàng, con trai nhà buôn Phi Yến nổi tiếng, hễ có tiền là đi ăn Cao Lầu, ăn hai ba bát. Như Lâm Ngữ Đường có nói văn hóa là những món ăn mẹ ta cho ta ăn từ ngày bé dại. Hội An ngày đó  thu mình trong chiến tranh, buôn bán sơ sài, dân cư nghèo khó, hầu hết không có tiền sửa nhà. Đó là một bất hạnh đầy may mắn, nhờ thế nên tới thời CS cai trị, thị xã trở thành khu du lịch phố cổ nổi tiếng khắp thế giới. Đúng là Thánh cho ăn lộc. Nếu không còn mấy ngôi nhà cổ và giả cổ, thành phố sẽ sống bằng gì?
      Những năm đầu trung học, hễ có dịp là tôi đạp xe về quê, được nghỉ lễ vài ngày, tôi tự cho phép mình nghỉ thêm vài bữa nữa. Tôi hay bị phạt cấm túc vì trốn học. Mặc kệ, miễn được về quê tắm sông câu cá, lên đồi Sơn Điều hái sim (Ôi, “Ngọn  Sơn Điều đen nhánh một mùa sim” -thơ của ông Nguyễn Anh, chú tôi), vào suối nằm trên tảng đá dưới vòm cây râm mát nức hương hoa dại nghe chim hót vang lừng trong hẻm núi là tôi quên hết mấy giờ cấm túc. Gần như lần nào trên đường về tôi cũng ghé vào quán chỗ Cầu Chìm ăn bát mỳ Quảng nhưn thịt gà. Ngôi quán nhỏ lợp tranh dựa lưng vào núi, phía trước che rợp một giàn thiên lý thơm lừng.  Mỗi lần nhớ tới, không hiểu sao tôi liên tưởng tới câu lục bát xót xa của Tô Thùy Yên:
      Xót thay hoa đợi trên giàn
      Quán xanh còn mở cho chàng về qua.
      Đã nửa thế kỷ trôi qua, nay tôi đi  ngang đó, quán xưa đâu còn dấu tích.
(còn tiếp)

NGUYỄN ANH KHIÊM

No comments:

Post a Comment