Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Nhà văn
Doãn Quốc Sỹ (1923-2025).
Chân dung
nhà văn Doãn Quốc Sỹ, PTH vẽ.
Từ thời say mê đọc sách trong các năm trung học, tôi đã nhìn
thấy chung quanh mình như là một cõi phân đôi: thế giới thần thoại và thế giới
đời thường. Cái nhìn đó vẫn theo tôi không rời, và tôi tin thật rằng các nhân
vật trong truyện về các nàng Mị Nương, truyện Bích Câu Kỳ Ngộ của Việt Nam vẫn
đang đi lại bên các vị thần của cổ tích Hy Lạp bên ngoài hiên nhà của tôi. Hễ
tôi hé cửa nhìn ra là họ biến mất, nhưng khi khép cửa lại, tôi nghe được tiếng
họ thì thầm như thúc giục tôi mở ra các trang sách để đọc về những cõi rất là
thơ mộng.
Nhiều năm về sau, khi đọc nhiều hơn, tôi mới nhận ra rằng các
trang sách của các nhà văn như Doãn Quốc Sỹ, Charles Perrault, Hans Christian
Andersen, và Leo Tolstoy là những cánh cửa để tôi nhìn vào thế giới thần thoại,
nơi rất nhiều nhân vật của họ là hiện thân của thơ mộng, yêu thương, và bất bạo
động.
Các nhân vật của họ như dường không có thật. Nhưng khi nhà văn
Doãn Quốc Sỹ, với nụ cười thơ mộng không bao giờ tắt, bước vào tòa soạn Việt
Báo, thế giới đời thường của cực nhọc, của suy tính, của các bài bình luận nhức
đầu về kinh tế, chính trị, xã hội đều tan biến trước mắt tôi. Thế giới thần
thoại hiện ra, bay lơ lửng quanh tôi, theo chân nhà văn họ Doãn, bất kể rằng
ông đã vào tuổi lãng đãng. Mà nói cho cùng, có nhà văn, nhà thơ chân thực nào
mà không lãng đãng, không cách này thì cách kia.
Thường thì tôi lúng túng khi nói chuyện, vì luôn luôn có người nhà đi theo nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Tôi không giữ được cách xưng hô cho thống
nhất. Tôi lại thân với bạn Doãn Quốc Hưng, người con trai thường dẫn nhà văn họ
Doãn đi nơi này, nơi kia. Tôi hiếm khi nói trực tiếp với nhà văn họ Doãn, vì
không biết nói gì với nụ cười rất mực Niết Bàn của cụ. Khi nói chuyện với mọi
người, có khi tôi gọi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là cụ Sỹ hay là bác Sỹ (khi nhớ rằng
mình là bạn của Hưng), có khi gọi là anh Sỹ (khi nhớ rằng nhà thơ Trần Dạ Từ ở
tù chung với nhà văn Doãn Quốc Sỹ nhiều năm), và gọi trang trọng là nhà văn khi
ngồi viết tin. Và tôi nhận ra, nhà văn Doãn Quốc Sỹ là người của thần thoại, và
là người viết cho nền văn học thần thoại. Chắc chắn, nhiều người cũng sẽ mơ hồ
nhìn thấy như thế. Mỗi dân tộc sẽ có một người độc đáo như thế.
Trường hợp nước Pháp là nhà văn
Charles Perrault (1628–1703), không chỉ kể chuyện cổ tích cho trẻ em, mà
còn gieo vào lòng người lớn những hạt giống yêu thương, đức hạnh. Trong các tác
phẩm như Cô bé Lọ Lem hay Người đẹp ngủ trong rừng, nhà văn đã thần thoại hóa
thế giới đời thường. Perrault không ca ngợi chiến thắng bằng sức mạnh, mà bằng
lòng kiên nhẫn và tình yêu thương.
Trường hợp Đan Mạch là nhà văn Hans Christian Andersen
(1805–1875), nơi nhân vật nào cũng ngây thơ và trong sáng. Ông viết cho những
người bé nhỏ trong xã hội—cô bé bán diêm, chú lính chì, con thiên nga trên hồ
—những nhân vật chịu đau khổ nhưng không đánh mất lòng yêu thương. Truyện của
Andersen thần thoại hóa thế giới chung quanh, biến chiếc que diêm, hay giọt
nước mắt thành biểu tượng tình thương. Văn chương của ông là ánh sáng dịu dàng
soi rọi vào cuộc đời, để chúng ta học cách yêu thương nhau hơn.
Trường hợp nước Nga là nhà văn Leo Tolstoy (1828–1910). Tolstoy
không chỉ là tiểu thuyết gia vĩ đại, mà còn là nhà hiền triết của lòng từ bi và
bất bạo động. Trong những truyện ngắn đạo đức như Ba câu hỏi (The Three
Questions), hay tuyển tập truyện trẻ em "The Lion and the Puppy: And Other
Stories for Children", ông dùng ngôn ngữ giản dị để truyền tải thông điệp
sâu sắc về sự yêu thương, tha thứ và sống vì người khác. Tolstoy tin rằng sự
trong sáng của tâm hồn là con đường duy nhất để nhân loại vượt qua khổ đau. Ông
phản đối chiến tranh, lên án bạo lực. Tolstoy viết không phải để giải trí, mà
để thức tỉnh trái tim con người.
Trường hợp Việt Nam là nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), người
sống giữa rất nhiều môi trường bạo lực, từ chiến tranh cho tới nhà tù, nhưng
ngòi bút vẫn hướng về một thế giới thần thoại trong đời thường, nơi các nhân
vật là hiện thân rất mực trong sáng của tình yêu thương, lòng từ bi, sự hy
sinh. Truyện của Doãn Quốc Sỹ phần lớn mang màu sắc u buồn nhưng thơ mộng, viết
về đời thường mà y hệt truyện cổ tích. Và thực sự là họ Doãn đã kể chuyện thần
thoại với tuyển tập “Thần Thoại: Nhật Bản - Đại Dương Châu - Hy Lạp - Bắc Âu”
(NXB Sáng Tạo), nơi độc giả sẽ đi lạc vào thế giới hầu như ai cũng đi đứng nói
cười với tâm trong sáng.
Có một yếu tố nữa. Khi vào đại học, tôi học ở Văn Khoa, không có
cơ duyên học Vạn Hạnh. Không phải kỳ thị, mà chỉ vì nghe lời rủ của người bạn
thân là nhà thơ Phan Nhật Tân. Nhìn lại, các vị thầy ở Đại Học Văn Khoa mà tôi
học, như GS Nguyễn Văn Trung, GS Lê Tôn Nghiêm, GS Lê Xuân Khoa cho tôi đủ thứ
lý luận phức tạp, bàn đủ thứ chuyện nhức đầu về chủ nghĩa hiện sinh của
Jean-Paul Sartre hay Albert Camus... Đủ thứ “nghiêm và buồn.” Tôi không được học nhà văn Doãn Quốc Sỹ ở Văn
Khoa, cho dù tôi còn nhớ là nơi nữ sinh viên nào cũng rất đẹp, và là nơi nam
sinh viên nào cũng ưa nói về hiện tượng luận và lắm chuyện bí hiểm.
Trong khi đó, Đại Học Vạn Hạnh là một cõi rất thần thoại, rất
thơ mộng, nơi của một cõi trời cao hơn các tầng mây của Thầy Minh Châu, Bùi
Giáng, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Ni sư Trí Hải... nơi của thơ và
thơ. Vạn Hạnh cũng là nơi của công án, nơi tôi vẫn mơ hồ nghĩ rằng, mình bước
vào thăm ngôi trường đó, nói lạc một chút là sẽ bị một thiền sư nào đó đánh cho
30 gậy liền (thực tế, tôi chưa đọc bản tin nào kể chuyện tương tự như thế, chỉ
là lúc đó tôi tưởng như các trang sách Lâm Tế Ngữ Lục là một cõi rất thực trong
sân trường này). Nhà văn Doãn Quốc Sỹ lúc đó cũng là một nhân vật trong cõi
thần thoại Vạn Hạnh, đầy sương khói. Họ là thế giới rất là xa với tôi.
Chỉ tới nhiều thập niên sau, vào nghề báo ở hải ngoại, tôi mới
thấy gần với tất cả các thế giới thần thoại trong cõi này, nơi đó có nhiều cơ
duyên để tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, và nhiều vị khác. Thế rồi tôi đã gặp, đã
nói chuyện, đã phỏng vấn, hay đã thân cận với rất nhiều văn nghệ sĩ, trong đó
có Phạm Duy, Mai Thảo, Kiều Chinh, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác,
Thảo Trường, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Công Thiện, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Quang,
Hoàng Quốc Bảo và nhiều vị khác nữa. Tôi cầm máy ảnh chạy theo họ và tôi viết
tin về thế giới thần thoại của thiên đường văn học lưu vong này. Trong đó, nhà
văn Doãn Quốc Sỹ là một vị thần nổi bật: cụ lãng đãng như sương khói, khuôn mặt
cụ ngây thơ như con nai ven rừng, và nụ cười của cụ làm tịch lặng tất cả mọi trầm
tư của người đối diện.
Sau này đọc nhiều hơn, tôi nhận ra, nhiều nhà văn khác cũng nhìn
về Doãn Quốc Sỹ như một nhân vật của cõi chư thần. Như trong tác phẩm Trái Cây
Đau Khổ, một truyện-kịch của Doãn Quốc Sỹ ấn hành năm 1963, Lời mở đầu của
Thanh Tâm Tuyền ghi rằng, trích:
“...nhân vật của Doãn Quốc Sỹ là con người nắm chặt được hạnh
phúc, bất chấp giao động tráo trở của Định Mệnh. Một nhà văn của cổ tích phương
Đông! Bản chất không chấp nhận sự tàn nhẫn, anh viết kịch với những nhân vật
hạnh phúc của anh. Và kịch trở thành thơ, một cuộc đối thoại triền miên, không
dứt ngụp lặn trong thế giới của Thực và Mộng, quái gở và hồn hậu. Những cái
thực được coi là Mộng và Mộng hóa thành Thực. Kịch rốt cuộc chỉ là cổ tích và
thần thoại. Khi Doãn Quốc Sỹ dùng cặp mắt trong suốt và thơ ngây của mình để
biến cõi Thực – anh đang phải sống, anh không chấp nhận và coi tính chất bi đát
của nó chỉ là phù du trong sự vận chuyển vô cùng khoáng đạt của Vũ Trụ - thành
những biểu tượng, vô tình anh đã vĩnh viễn hóa nó trong nỗi bi đát không cùng...”
(ngưng trích)
Đó, nhân vật của Doãn Quốc Sỹ thơ mộng như thế đấy, chỉ là cổ
tích và thần thoại. Thực tế, ngoài đời thường, cụ Doãn Quốc Sỹ cũng thần thoại
và cổ tích y hệt. Hãy nghe lời kể của nhà thơ Đỗ Quý Toàn (bình luận gia Ngô
Nhân Dụng) trong bài viết nhan đề “Doãn Quốc Sỹ - Thế Đấy!” trích như sau:
“Hồi đầu 1970 một nhóm sinh viên văn nghệ ở Sài Gòn mời nhà văn
Doãn Quốc Sỹ tới nói chuyện. Tiễn ông ra về rồi, mấy phút sau thấy ông quay trở
lại. Ông cười hề hề, hỏi có ai dùng xe gắn máy đưa ông về nhà được không. Tại
sao? Ông cười khà khà: “Mất xe rồi! Ai nó lấy mất rồi!”
Cái xe “nội hóa” La Dalat ông vẫn lái đi giao những tác phẩm của
ông và nhà xuất bản Sáng Tạo cho các tiệm bán sách. Cả một tài sản, và phương
tiện mưu sinh cần thiết. Nó biến mất. Mà hồi đó ở Sài Gòn chắc không ai mua bảo
hiểm để mất xe sẽ được đền! Mất xe, ông vẫn cười khà khà, như thể mới nghe ai
kể một chuyện hài hước!
Cả đời Doãn Quốc Sỹ vẫn cười khà khà, mắt không trợn lên, lông
mày không chau lại. Không để cái được, cái mất, cái may, cái rủi làm động tâm.
Thường ai cũng muốn tu tập công phu để đạt tới trạng thái này. Hình như Doãn
Quốc Sỹ sống tự nhiên như vậy, không hề cố gắng. Ông viết cuốn Vào Thiền, tái
bản nhiều lần. Bị cộng sản bắt bỏ tù, vào trong tù ông ngồi thiền. Quản giáo
bắt đi nghe gì thì đi. Có gì ăn thì ăn, lúc nào được ngủ thì ngủ. Bị bắt lần
thứ hai, vẫn như vậy, lại ngồi thiền. Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay, vững
như núi đá.” (ngưng trích)
Thế là cụ an nhiên y hệt trên mây rồi. Nhân vật trong truyện của
cụ Doãn Quốc Sỹ là cổ tích thì dễ hiểu, nhưng trong khuôn viên đại học và trong
lao tù mà vẫn sống được như chuyện cổ tích thì quả là hy hữu. Một bài viết nhan
đề "Dọn Dẹp Tạp Niệm" của Doãn Tư Liên, con gái cụ Doãn Quốc Sỹ, có
đoạn đối thoại với cụ, trích như sau:
"Có lần con gái hỏi Cụ: - Bố, giữa khuya bố còn ngồi thiền
như thuở trong tù không?
- Không con. Lúc nào bố chẳng hành thiền. Đâu cần phải ngồi đâu!
- À, thì ra thế.
Thôi thì cụ già 100 tuổi mà vẫn đi đứng, nằm ngồi mà không cần
người trợ giúp." (ngưng trích)
Trong tác phẩm “Vào Thiền” của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, tôi đặc
biệt là nhớ tới hình ảnh dòng sông và que diêm, do cụ Doãn viết về đời người,
xin trích:
“Dòng đời như dòng sông, không một sát na nào ngừng trôi chảy.
Nô lệ cho lý trí đơn thuần ham cắt xén thì chỉ thấy được cái ngưng đọng, cái
chết. Những khái niệm con đẻ của lý trí chật hẹp và khô cứng kia làm sao chụp
được dòng thực tại không ngừng triền miên trong thế tương sinh tương lập - đối
tượng của thiền! Mỗi chúng ta là một que diêm sống! Không ai sống hộ ta, ta
phải tự sống lấy, tự chiêm nghiệm lấy Thiền. Que diêm khi tắt đi, chút khói
xanh để lại. Rồi chính chút khói xanh đó cũng tan loãng nốt và biến hẳn-như vết
chân cát xóa! [...] Nói đến Thiền là nói đến không tâm. Nhưng đừng quên phần đi
song hành với không tâm là diệu hữu. Bởi vì nếu chỉ đơn thuần có không tâm
thôi, thì đó là ngoan không cái không trống rỗng, không có gì!” (ngưng trích)
Và nơi đây, xin chép lại hai câu đối của Phan Tấn Hải thành kính
viết mừng cụ Doãn Quốc Sỹ tròn 95 tuổi vào năm 2018:
Mang gươm giới định huệ, đi tới cùng trời
cuối đất
Phá trận tham sân si, viết để Giữ Ngọc Gìn Vàng...
Độc giả có thể tìm đọc thêm ở trang https://www.doanquocsy.com/
nơi đang lưu giữ nhiều bài viết, tác phẩm, hình ảnh của nhà văn Doãn Quốc Sỹ và
nhiều nhận định từ nhiều nhà văn khác. Và đó cũng là nơi bạn sẽ bước vào thế
giới thần thoại của một nhà văn rất độc đáo.
PTH


No comments:
Post a Comment