Thursday, May 30, 2024

CHIA TAY ‘NGƯỜI KHÂU DI SẢN’

Chân dung Trần Hoài Thư - dinhcuong (2014)
 
Tưởng niệm Trần Hoài Thư vừa mới ra đi
Xin mời đọc sau đây: -thơ Hoàng Xuân Sơn và văn Nguyễn Quang Chơn, Tô Thẩm Huy
 
THƠ HOÀNG XUÂN SƠN
Lúc thực hiện TQBT số 100, tôi gởi bạn Thư 02 bài thơ, trong đó có bài mang tựa Đến ( Sau Cùng ). Trần Hoài Thư chọn đăng bài kia, có lẽ vì mọi chuyện với bạn lúc bấy giờ vẫn còn tiếp tục, chưa phải là sau cùng. Giờ đây xin ghi lại bài thơ còn trống chỗ như một nén tâm nhang tiễn đưa bạn hiền về nơi hội ngộ với chị Yến, người vợ, người tình muôn thuở!
 
ĐẾN (SAU CÙNG )
 
Cuối cùng cũng đến huyền trang
ngôi nhà của gió
đạo tràng của mây
ta như chiếc gậy an bài
lên non chống mỏi
xuống ngày khua mê
gậy
ta, cùng mỗi
đi
về
thênh thang chiếc bóng
não nề chiếc thân
dặm mòn thơm thảo vết chân
ừ . chim bay
bay xa gần cũng lưu
linh vang giữ một tiếng cười
giấc vui cùng bạn
giấc lười lĩnh, đi
giấc trầm kha vô hạn kỳ
chu lưu là nợ của vi vân tình
ai . người, không yêu phương sinh
trăm năm cuộc lữ thơm hình bóng nhau
Cước trắng chiều
giữa sậy.  lau
rồi cũng nghèo nắng
trôi mau về ngàn
giọt lung linh giọt úa
tàn
phương chi biết được nỗi hàn mai sau
lạnh từ đâu
lạnh ngất.          đâu
thân cũng chỉ một chiếc màu nhược ban
theo nhau kỳ trận vô vàn
cảm ân vì chút lầm than ở cùng
từ diệu huyền
tới mông lung
từ neo bến lạ đời lưng lửng còn
gậy cùn
vui bước cỏn con
về chưa tứ diệu vuông tròn tử sinh
huyền trang ngồi lại với mình
là đây.  cổ lũy
lung linh điệu chào
)(
H O À N G  X U Â N  S Ơ N
27 tháng mười, năm hai mươi mốt
 
 
VĂN NGUYỄN QUANG CHƠN
 
Anh TRẦN HOÀI THƯ…
 
Tôi viết tên anh bằng chữ hoa để tỏ lòng kính trọng anh. Kính trọng hay là tôn kính? Có lẽ tôn kính thì đúng hơn, bởi những điều bình dị anh đã làm trong cuộc đời của anh thật đáng được tôn vinh và kính trọng!…
 
Tên thật của anh là Trần Quí Sách, tên cha mẹ đặt vận vào người anh, nên một đại uý thám báo, một nhà văn, nhà thơ ở miền Nam trước 1975, một kỹ sư điện toán tại New Jersey từ sau 1980 luôn là một người vô cùng “Quí Sách”, và quí theo cách của anh khi giữa vận nước nổi trôi, giữa những con người muốn xoá sạch nền văn minh, tiên tiến, một văn hoá khai phóng lừng lẫy của kẻ bại trận bên kia chiến tuyến khiến anh miệt mài, lục lọi, tìm tòi, sưu tập,…cặm cụi ngày đêm sắp xếp những “văn tàn” thời thế, dựng lên một “bảo tàng THƯ QUÁN BẢN THẢO” trên đất Mỹ xa xôi, lưu giữ nền văn học rực rỡ hẩm hiu của miền Nam Việt Nam, một di sản văn học nước nhà…
 
Anh, chứ không ai khác, cùng chị Yến hiền thê, căm cụi lái xe trong sương tuyết, trong giá lạnh miền Đông Bắc Mỹ để đến thư viện đại học Cornell, Yale…, nơi lưu giữ rất nhiều tài liệu văn học quí miền Nam VN, copy, ghi chép, lặng lẽ đêm đêm nơi tầng hầm căn nhà nhỏ với máy in “second hand”, tự sửa chữa phục hồi, để cho ra từng ấn phẩm tặng không cho những người yêu văn nghệ, những nhà nghiên cứu văn học tại hải ngoại, để, họ biết rằng “VIỆT NAM ĐÃ CÓ MỘT NỀN NGHỆ THUẬT, VĂN CHƯƠNG” như thế đó, và, chúng tôi gọi anh là “NGƯỜI KHÂU DI SẢN VĂN HỌC MIỀN NAM”…
Chị bị bệnh nặng trước anh, căn nhà nhỏ vốn vắng vẻ càng thêm hiu quạnh. Ngày ngày anh lái xe mang thức ăn vào bệnh viện, đút cho chị từng đũa cơm, muỗng cháo dẫu mưa hay nắng, dẫu tuyết rơi hay gió lộng, bên chị, anh đọc thơ, hát những bài hát cũ, để nhiều khi tiềm thức chị đang ngủ quên sực tỉnh, nhắc anh đọc lại câu thơ, để anh cười vui mà nước mắt lăn dài trên gò má nhăn nheo…
 
Mười năm chăm vợ. Trí chị chìm sâu vào quên lãng và chị nhắm mắt bay vào hư không tháng tư 2024…Hôm nay, 27 tháng năm 2024, Trần Hoài Thư cũng buông tay bay theo chị, êm đềm bình dị như những lần cùng nhau miệt mài trên chiếc xe cũ đến các trường đại học, bên nhau dưới căn hầm in ấn, bên nhau trong căn phòng nursing home…
 
Bầu trời mênh mông, quê người lạnh lẽo, anh chị Thư Yến trên bầu trời cao đang toả ánh nắng hồng tươi trên văn đàn nước Việt. Những viên trân châu văn học miền Nam còn nguyên kiêu hãnh vì nhờ đã có anh, anh Trần Quí Sách, Trần Hoài Thư, râu tóc bạc phơ, cặm cui từng ngày khâu từng gáy sách!…
 
Yêu anh, tôi đã một lần vẽ anh cầu mong một lần hội ngộ, mà chẳng bao giờ nữa, đã mãi mãi xa vời!….
 
NGUYỄN QUANG CHƠN
28.5.24
 
 
VĂN TÔ THẨM HUY
 
M Ộ T  C Á C H  R A  Đ I
T R Ầ N  H O À I  T H Ư
 
Thường thì cứ là 'Sống Gửi Thác Về'.
Về đâu? Nào ai biết.
'Về' hàm cái nghĩa là đi đến cái nơi ta đã từng ở, cái chỗ ta đã quen thuộc.
Có thực là quen thuộc không? Cái chốn ấy có ai đã từng đến chưa?
𝑇𝑎 ℎ𝑜̉𝑖 ℎ𝑎𝑛 ℎ𝑒̂̀ 𝐻𝑖𝑢 𝑄𝑢𝑎̣𝑛ℎ 𝐿𝑜̛́𝑛. 𝑀𝑎̀ 𝐻𝑖𝑢 𝑄𝑢𝑎̣𝑛ℎ 𝐿𝑜̛́𝑛 𝑣𝑎̂̃𝑛 𝑙𝑎̀𝑚 𝑛𝑔𝑜̛.(𝑇𝑇𝑌)
Có chăng thì là đoàn lữ hành trên cái sa mạc trần gian đang từ đâu đến không ai biết, òa nối đuôi nhau tiến vào cái cõi bể dâu vạn vật chi nghịch lữ, bách đại chi quá khách này, rồi lại lũ lượt theo nhau bước ra khỏi cái cõi ấy mà đi vào cái chỗ vô định không hề biết. Cuộc trăm năm phiên gác bước âm u. Từ cõi mộng mịt mù về cõi mị. ... 𝐿𝑖𝑓𝑒 𝑖𝑠 𝑎 𝑤𝑎𝑡𝑐ℎ 𝑜𝑟 𝑎 𝑣𝑖𝑠𝑖𝑜𝑛 / 𝑏𝑒𝑡𝑤𝑒𝑒𝑛 𝑎 𝑠𝑙𝑒𝑒𝑝 𝑎𝑛𝑑 𝑎 𝑠𝑙𝑒𝑒𝑝. (𝐴𝐶𝑆)
Lại còn hàm cái ý là chấm dứt, là ngừng lại, quy khứ lai hề, 'về' thôi, không đi nữa.
Nhưng không phải thế. Với Kim Mao Trần Hoài Thư thì 'sinh' có thể là ký gửi, nhưng 'tử' không phải là trở về. Mà là đi. Là khởi đầu một cuộc lữ khác. Là ra đi.
Đi đâu?
Tôi ngờ là thám báo Trần Quí Sách đang đi tiền phong thám thính, đang cùng người bạn thiết Nguyễn Ngọc Yến rủ nhau đằng vân khắp sáu cõi trời Đâu Suất, Đao Lợi, sục sạo đi tìm các bí lục, các yến sách đầy giòng hư tự.
Trời gọi Trần Hoài Thư đã lâu. Nhưng anh bảo Trời khoan đã. Chờ anh ít lâu.  Đã nhiều năm gan phổi anh vá chằng vá đụp, lục phủ ngũ tạng đã rã rượi, khí độc không thải ra được, khiến lắm phen hôn mê bất tỉnh.  Thế mà anh lại cứ sinh tồn, cứ vẫn tiếp thủ săn sóc cái chùm tóc đuôi gà bồ kết của anh.  Gan phổi cũng phải cung kính tuân mệnh. Chờ đó, ta chưa chết được. Thật bái phục cái năng lực lạ thường.
Nay chị đã đi. Hẹn nhau một tháng ở lại lo hậu sự. Xong xuôi rồi thì cái nhục thể này chẳng có lý cớ gì nấn ná thêm nữa. Thế là ra đi. Một cách ra đi. 𝑅𝑎 đ𝑖 𝑛ℎ𝑢̛ 𝑚𝑜̣̂𝑡 𝑏𝑖̀𝑛ℎ 𝑚𝑖𝑛ℎ 𝑙𝑎̣. 𝑇𝑟𝑒̂𝑛 𝑘𝑦̀ 𝑛𝑔𝑢𝑦𝑒̂𝑛 𝑐ℎ𝑢̛𝑎 𝑘𝑖̣𝑝 ℎ𝑖𝑒̣̂𝑛 ℎ𝑖̀𝑛ℎ (𝑇𝑇𝑌)
Con người ấy có bao giờ chịu ngồi yên. Lái xe đi đến Cornell ở trên trời thì đã có Ngọc Yến đồng hành. Đã có cái nguồn năng lực phi phàm đang chờ sẵn, thì hẳn là phải hào hứng ra đi.
Anh Thư ơi, tôi đang ngồi đây nhớ đến anh, và nhớ đến chị Yến. Vừa buồn, lại vừa vui.
Chúc anh thượng lộ. Hẹn gặp nhau tuần tới. Thắp cho nhau nén hương.
TÔ THẨM HUY

Monday, May 27, 2024

LỜI GỞI TRẦN HOÀI THƯ

nguyễnxuânthiệp

Hoa poppies
 
Ôi. bạn ta. trần hoài thư
tin cho biết
bạn vừa ra đi. một ngọn lửa vừa tắt
trong căn nhà tối mờ. còn nghe tiếng nói. sách và thơ
mới đây. họp mặt ngày chiến sĩ trận vong.
                                            chúng tôi còn nhắc tới bạn
và chị yến
với con đường chữ nghĩa
la strada. tiếng cười của gã khùng the fool. và cô bé gelsomina
 
từ quê xưa
tới new jersy. thư viện cornell
chập chùng gian khổ
nhưng rực thắm hoa poppy
tôi viết những dòng này
để tiễn đưa
người lính viết văn trần hoài thư
ngủ yên
xin bạn hãy ngủ yên
bên cánh đồng anh túc
trong lòng tưởng nhớ của mọi người
và văn học mai sau
NXT
từ Garland, 27.5.2024
 

Sunday, May 26, 2024

HAIKU. GỞI ÁNH TRĂNG RẰM

Nguyễn Đức Nhân
 
Bóng chùa xưa

1
Ồ. Phật phơ phất bên hàng giậu
hoa râm bụt thắm tươi
nắng thơm hương gió rừng
 
2
Ha ha. Phật đản sanh
hoa lan Bạch Câu đang nở
lừng hương trước túp lều
 
3
Đói bụng
luộc rau rừng
mở nắp vung.  Phật thơm mùi rau chín
 
4
Chiều lên núi
ngồi nghe núi thở
phơi ngực trần. đón gió bốn phương
 
5
Không thể đến Viện Bảo Tàng
vẫn được xem tranh thủy mặc
nơi đỉnh núi sương mù
NĐN
 
Rằm tháng 4 âm lịch. (22/5/2024) 

NGÔN NGỮ. SỐ ĐẶC BIỆT ĐỖ NGHÊ ĐỖ HỒNG NGỌC

 Ngôn Ngữ số tháng 5 năm 2024
 
NHÓM CHỦ TRƯƠNG:
 
Luân Hoán – Song Thao – Nguyễn Vy Khanh – Hồ Đình Nghiêm – Lê Hân
 
CỘNG TÁC TRONG SỐ NÀY:
 
Ban Mai, Du Tử Lê, Duyên, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, Đỗ Thị Thanh Nga, Đỗ Trung Quân, Đỗ Trường, Elena Pucillo Truong, Hồ Đình Nghiêm, Hoàng Quốc Bảo, Huỳnh Như Phương, Huỳnh Ngọc Chiến, Khuất Đẩu, Khúc Dương, Lam Điền, Lê Chiều Giang, Lê Ký Thương, Lê Minh Quốc, Lê Ngọc Trác, Lê Uyển Văn, Luân Hoán, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Lương Thư Trung, Minh Lê, Ngân Hà, Ngô Nguyên Nghiễm, Nguyên Cẩn, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn An Bình, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Hậu, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Chơn, Nguyễn Thánh Ngã, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Thị Phương Trinh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Bảo Kim, Phạm Chu Sa, Phạm Hiền Mây, Phan Chính, Phat’s Blog, Tâm Nhiên, Thu Thủy, Thy Ngọc, Tô Thẩm Huy, Trần Hoài Thư, Trần Thị Nguyệt Mai, Trần Vấn Lệ, Trang Châu, Trịnh Công Sơn, Trịnh Y Thư, Trương Đình Uyên, Trương Trọng Hoàng, Vĩnh Điện, Võ Tá Hân, Ý Nhi.
 
BÌA: Uyên Nguyên Trần Triết
HÌNH BÌA: Nhà thơ – Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc (Ảnh: Tăng Hưng)
ĐỌC BẢN THẢO: Trần Thị Nguyệt Mai
DÀN TRANG: Công Nguyễn
 
LIÊN LẠC:
Thư và bài vở mời gởi về:
-Luân Hoán: lebao_hoang@yahoo.com -Song Thao: tatrungson@hotmail.com
TOÀ SOẠN & TRỊ SỰ:
Lê Hân: (408) 722-5626  han.le3359@gmail.com
 
THƯ ĐẦU SÁCH
 
Cuốn Tác Giả Tác Phẩm Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc này là bước tiếp theo sau các ấn bản về Cung Tích Biền, Ngô Thế Vinh, Phạm Cao Hoàng, cùng một thể loại, do tạp chí Ngôn Ngữ tại Hoa Kỳ chăm sóc, giới thiệu.
 
Tác phẩm này vốn đã được tác giả và nhóm bạn viết của ông thực hiện và phổ biến dưới dạng eBook. Theo nhà văn Nguyên Giác Phan Tấn Hải tổng kết đơn giản, sách có tên gọi “Thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc  Như Không Thôi Đi Được”. Sách tập trung bài viết của chừng 30 tác giả, gồm các nhà văn, nhà thơ và sách chỉ có mục đích để tặng; không thấy ghi năm phát hành.
 
Chúng tôi vốn rất thích thơ và tạp bút của Nhà thơ – Bác sĩ này từ trước 1975, và được biết nhà thơ Trần Thị Nguyệt Mai, một thành viên trong Ngôn Ngữ quen thân với ông, nên đã nhờ chị bắt liên lạc xin phép, nhằm thực hiện một số đặc biệt. Và nhà thơ Đỗ Nghê đã đồng ý.
 
Xin được nhắc lại, một số Ngôn Ngữ đặc biệt gồm hai phần: giới thiệu về một tác giả, và sáng tác thơ văn biên khảo từ nhiều người viết gởi đến. Trong thời gian qua, chúng tôi đã phát hành được các số về họa sĩ Khánh Trường, nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh, nhà văn Trần Hoài Thư, nhà văn Nguyên Minh, nhà văn Song Thao, nhà văn Hồ Đình Nghiêm, nhà thơ Lê Hân. Các số này tư liệu của mỗi người đi phần đầu trong hơn nửa số báo. Với những tác giả vừa kể, phần tư liệu của họ cũng dồi dào, đủ để in riêng, tiếc rằng lúc đó chúng tôi chỉ nghĩ đến việc thực hiện theo khuôn báo cũ, mà cắt bớt, hạn chế số trang. Nhà văn Cung Tích Biền là người đầu tiên yêu cầu đi hết phần tư liệu của ông. Chúng tôi chấp nhận, và tiếp tục chấp nhận hình thức này cho đến nay, với số về nhà thơ Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc. Nhưng lần thứ tư này, cũng là lúc chúng tôi quyết định trả lại tính cách sách cho tác phẩm, dẫu vẫn do tạp chí Ngôn Ngữ trực tiếp chăm sóc để in. Trong khi đó, những số Ngôn Ngữ đặc biệt gồm hai phần cũng sẽ được tiếp tục.
 
Phần I: Tiểu sử tác giả, tác phẩm đã in – chân dung tác giả qua ảnh chụp cùng phác họa của bè bạn hoặc tác giả tự họa.
 
Phần II: Phần thơ, văn tác giả tự chọn, đặc biệt chúng tôi đi trọn tập thơ “Thơ Ngắn Đỗ Nghê”, một thi phẩm chính tác giả và đa số người đọc ưa thích, ưu ái cảm nhận.
 
Phần III: Phần văn xuôi đi tiếp sau thơ. Tác giả Đỗ Hồng Ngọc tự nhận không giỏi hư cấu, nên ông chỉ cho giới thiệu một truyện ngắn duy nhất viết trước 1975; đa phần sáng tác còn lại là tùy bút, tạp ghi, tản mạn… Những bài viết này thường ngắn nhưng cũng xuất sắc như thơ, bởi qua đó những nhận xét tinh tế về cuộc sống, tình người, được ông phơi bày một cách đơn giản, nhưng sâu sắc như những bức ảnh chụp đủ chân tình, giàu dí dỏm. Mỗi tạp ghi là một cảnh sống linh động, chúng ta có cảm tưởng ông thật dồi dào vốn sống đời thường. Ông là một bác sĩ cao tay nghề, một người học Phật uyên thâm lại rất thích truyền đạt hiểu biết của mình theo một cách riêng. Tính ít nói cười nhưng sự nghiêm túc, được tâm hồn phóng khoáng giúp ông chơi thêm một trò vẽ vời nữa, cũng thi vị đậm đà không kém những bộ môn kể trên.
 
Bên cạnh đó, với ưu điểm thơ “hay” (xin gọi ngắn gọn như vậy) lại thường ngắn ngắn nên thơ ông được các nhạc sĩ Miên Đức Thắng, Phạm Trọng Cầu, Trương Thìn, Hoàng Hiệp, Khúc Dương Đặng Ngọc Phú Hòa, Nguyễn Thanh Cảnh, Hoàng Quốc Bảo, Vĩnh Điện, Tôn Thất Lan, Võ Tá Hân, Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh… đồng cảm phổ thành ca khúc. Chuyện phổ thơ ông không nằm phong trào phổ cho có, phổ để in làm phụ bản. Thơ phổ nhạc của ông được đưa đến quần chúng thưởng ngoạn qua nhiều ca sĩ trình bày, trong đó có cả giọng ca rất được giới ưa thích nhạc thính phòng ái mộ, đó là tiếng hát của nữ ca sĩ Thu Vàng.
 
Phần IV: Tập trung những bài giới thiệu, cảm nhận… của rất nhiều cây viết chuyên nghiệp qua nhiều thời kỳ xuất hiện trên văn đàn.
 
Chân thành cảm ơn tác giả Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc cùng tất cả nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ có tên, góp mặt trong cuốn sách này.
LUÂN HOÁN
cùng nhóm chủ trương Ngôn Ngữ
 
 

Thursday, May 23, 2024

RỒI BỮA NỌ

Huỳnh Liễu Ngạn
 

rồi bữa nọ
mây ngàn xa đỉnh núi
sông xa bờ
thuyền xa bến
lênh đênh
mưa với nắng
lại tràn đầy mặt đất
người đi rồi
hư thực vẫn mông mênh.
25.6.2023
HLN

  

Tuesday, May 21, 2024

NHỮNG BÀI THƠ NGẮN. GỞI GIÓ BỤI DỌC ĐƯỜNG

Nguyễn Đức Nhân
 
Adieu à l’Automne. Tranh của Duyên 2022
 
1
những đêm trăng. bao la
có khi nào. em. lặng lẽ
bước vào sâu thẳm hồn hoa
 
2
chiều lang thang. con đường nhỏ
gặp gỡ những đóa hoa dại bên đường
những đóa hoa trĩu nặng. hương mặt trời. đại đương
 
3
em đi rồi
chiếc ghế ấy
lặng lẽ. ánh trăng ngồi
 
4
chiếc lá vàng rơi
chạm vào năm tháng cũ
gió mùa thu ơi
 
6
đứng trên mõm đá cao
gọi những tâm hồn phiêu bạt
gió bụi đường lao xao
 
7
ra đi. không đích đến
tôi. vô dụng giữa thiên nhiên
thở bóng chiều cô tịch
 
8
trên con đường đất ấy
mưa đầu mùa lưu lại
những vũng nước sáng trăng
 
9
những buổi chiều. hết gạo
nằm nghe cỏ thầm thì
nghe gió về gõ cửa. rồi. vội vàng ra đi
 
10
vô tâm. rơi vỡ chiếc bình trà
tiếng vỡ toang. trong khoảnh khắc
âm vang còn vang tận phiến trăng xa
 
11
trở về túp lều xưa. lá rụng đầy
áo khét mồ hôi và cát bụi
một thời để nhớ. mùi hương thoảng kiếp người
 
12
ngồi đối diện. dưới bậc thềm
cùng nhìn cánh hoa rơi rụng
đột ngột. ta quay nhìn mắt em
NĐN
2024
 
 

Saturday, May 18, 2024

CẢM NHẬN NHÂN ĐỌC ‘THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ’

Trịnh Y Thư
 
Thơ Ngắn Đỗ Nghê
 
1.
   Tôi thích đọc “thơ ngắn” của Đỗ Nghê. Những bài thơ “ý tại ngôn ngoại,” đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc đều nhận ra thêm một cái gì mới, khác, mở ra những chiều kích bát ngát hương thơm. Hãy giở trang đầu tiên của tập thơ, bài Trái đất, cả bài thơ chỉ có vẻn vẹn sáu từ:
 
Giữa đêm
Thức giấc
Giữa ngày…
Boston, 1993
 
    Từ chìa khóa để hiểu bài thơ là “Boston,” mặc dù nó chỉ là phụ chú cho bài thơ. Giữa đêm thức giấc, bên kia nửa vòng trái đất là giữa ngày, chợt bàng hoàng tỉnh giấc, thao thức nỗi nhớ nhà, chợt thấy cô đơn, ôm nỗi sầu vạn cổ, thấy cái tôi bé nhỏ không một chút trọng lượng lọt thỏm giữa vũ trụ bao la.
Tứ thơ cô đúc, được nén chặt đến cực độ trong sáu từ, đột ngột phóng ra như một tia chớp lóe, để người đọc mặc tình buông ra từ trí tưởng của mình những cảm xúc bát ngát diệu kỳ.
   Trên bước đường lữ thứ của cuộc hành trình đời người, chúng ta ắt hẳn phải có lúc cảm thấy cùng một tâm trạng với bài thơ. Bài thơ chỉ có sáu từ sao lại có sức mạnh truyền tải cảm xúc mạnh mẽ đến thế!
 
   Ý thức rất rõ về sự hữu hạn của vật thể hữu hình và tính vô thường của kiếp nhân sinh, thơ Đỗ Nghê chuyển hóa bi kịch đời sống thành những cung bậc cảm xúc đẹp buồn, trữ tình. Những dấu vết của đau thương, tan rã, chia lìa gần như được xóa nhòa để cái đẹp – dù là cái đẹp bi ai – thăng hoa thành nghệ thuật, và sau cùng đạt đến cõi như nhiên, tĩnh tại.
 
Từ nỗi đau xót như nhát dao cứa sâu vào da thịt:
 
Mỗi năm
Mỗi người
Thêm một tuổi
Chỉ mình con
Mãi mãi
Tuổi đôi mươi…
(La Ngà 3)
 
   Nỗi đau xót ấy, như được sưởi ấm bằng những đốm lửa yêu thương, biến thành nỗi buồn man mác nhưng dịu ngọt:
 
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…
(Bông hồng cho mẹ)
 
   Những câu thơ đẹp, vì được kết tinh một cách ưu ái và trang trọng từ trái tim, từ trái tim người làm thơ sang thẳng trái tim người đọc, không cần qua một lăng kính hay một bộ phận chắt lọc nào. Nếu những cụm từ như “bông hoa trắng,” “đóa hồng” được dùng như một hoán dụ, thì hoán dụ ấy cũng chẳng thể ngăn cản cảm xúc dạt dào dâng lên như sóng vỗ tràn bờ. Thực chất, thơ Đỗ Nghê ít sử dụng ẩn dụ hoặc hoán dụ, mà phần nhiều là những câu nói (vâng, thơ là tiếng nói, tiếng nói tinh tuyền nhất) rất đơn sơ, rất thật và rất đậm tính người.
 
Có gì “người” hơn những câu thơ này?
 
Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo
Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa
Anh thương nhớ quá làm sao nói
Gọi tên em vang động gốc cây già…
(Quê nhà)
 
   Nó là tiếng kêu của muôn loài sống trên mặt đất, tiếng chim gọi nhau buổi ngày nắng tắt trên đầu non, tiếng kêu trầm thống của loài cá voi dưới mặt nước đại dương sâu thẳm. Nó là chất keo sơn giữ cho cuộc sống này bền chặt. Không có nó, thế giới vỡ tung mất thôi, và có vẻ như nó đang vỡ thật. Một mai nếu để mất nó, chúng ta sẽ rơi vào hố thẳm tuyệt vọng, vô phương cứu vãn, và linh hồn chúng ta sẽ mãi mãi trầm luân trong cõi huyền tẫn mịt mù, không ai có thể chuộc tội cho chúng ta, ngay cả người đóng đinh trên núi Sọ.
 
   Vâng, tôi xin bắt chước nhà thơ, ngày xuân “gọi tên em vang động gốc cây già.”
 
2.
   “Nước”, “sóng”, “sông”, “biển” là những thi ảnh xuất hiện nhiều trong thơ Đỗ Nghê. Trong bài thơ Nước – gồm 20 câu, một trong những bài thơ dài toàn tập thơ – thi sĩ vẽ hành trình của nước len lỏi qua nghìn dặm nẻo đường núi non sông lạch, thậm chí “từ cơn gió thoảng, từ làn mây trôi,” chỉ để bâng khuâng buông ra một suy nghiệm có tính siêu hình:
 
Nước vẫn muôn đời
Không đi chẳng đến
Ai người nỡ hỏi
Nước đến từ đâu?
Ai người nỡ hỏi
Nước trôi về đâu?…
 
   Nước, trong ngữ cảnh bài thơ, là một hoán dụ ám chỉ khái niệm Duyên khởi và tính Không trong Phật giáo. Nước “không đi chẳng đến,” phải chăng ám chỉ khái niệm “vô thỉ vô chung” vốn chủ yếu liên quan đến sự hiểu biết về thời gian, sự tồn tại và quan hệ nhân quả.
   Duyên khởi khẳng định rằng mọi hiện tượng phát sinh đều phụ thuộc vào các hiện tượng khác. Nó mô tả một chuỗi nhân quả, trong đó mỗi mắt xích phụ thuộc vào mắt xích trước đó, dẫn đến sự phát sinh của các hiện tượng tiếp theo. Theo quan điểm này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc biệt lập, độc lập đối với bất cứ điều gì trong chu kỳ tồn tại. Mọi thứ đều có mối liên hệ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau.
    Còn khái niệm tính Không thì nhấn mạnh đến sự thiếu vắng của bản chất nội tại cố hữu của sự vật. Sự vật không có sự tồn tại cố hữu. Sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào các yếu tố khác. Do đó, khởi đầu hay kết thúc của tồn tại trở nên vô nghĩa. Thay vào đó, sự tồn tại trải qua vô tận các chu kỳ lặp đi lặp lại gồm có sáng tạo, hủy diệt và tái sinh (mà ta gọi là luân hồi). Trong những chu kỳ này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc cuối cùng.
    Nó chính là “nước” của Đỗ Nghê: Không đi chẳng đến.
    Theo Tứ Diệu Đế, khổ đau là cố hữu do tham ái và vô minh. Tái sinh được xem là sự tiếp nối của vòng đau khổ này cho đến khi người ta đạt được giải thoát (niết bàn). Theo nghĩa này, tồn tại được xem là không có khởi đầu, với khả năng giải thoát đánh dấu sự kết thúc của vòng tái sinh.
    Hiểu được bản chất của “nước” là hiểu được chu kỳ của tồn tại, là hiểu được con đường dẫn ta đến giải thoát. Tôi đồ nhà thơ Đỗ Nghê chỉ muốn nói có bấy nhiêu. Một điều vô cùng giản dị mà sao chẳng mấy ai thực hiện nổi!
   Khái niệm “Sắc tức thị không, Không tức thị sắc” còn được thi sĩ nhắc lại trong bài thơ Có không:
 
Tràn vào khắp ngả
Đất trời mênh mông
Nhẹ như không có
Có mà như không…
 
    Thơ Đỗ Nghê thấm đẫm mùi Thiền, rất nhiều bài trong tập thơ mang phong vị Thiền học, nhưng nó là cái Thiền giúp ta thong dong đi vào phố chợ, nhập cuộc trần ai, mà lòng an nhiên như đang thảnh thơi dạo bước trên con đường mòn giữa cánh đồng hoa lá:
 
Duyên sinh vô ngã
Ngũ uẩn giai không
Từ đó thong dong
Thõng tay vào chợ…
(Vè thiền tập)
 
   Bởi thi sĩ hiểu rõ chân lý sinh diệt của vũ trụ tuần hoàn, từ cát bụi, ta là ta hôm nay, ta là “đất động” hay “sóng thần,” nhưng rồi một ngày nào đó không xa, ta lại trở về cát bụi:
 
Đất động ta cũng động
Sóng thần ta cũng sóng
Giật mình chợt nhớ ra
Vốn xưa ta là đất…
(Đất)
 
3.
    Một người làm thơ trữ tình như Đỗ Nghê ắt hẳn không thể nào dửng dưng với mảnh đất quê hương mình. Quê hương ông là biển, là sông, là hồ, là cát, là cây, là đá, tất cả hòa quyện trầm mặc trong thơ. Các địa danh xa lạ với nhiều người nhưng thân thương với thi nhân, như hòn Bà, đá Ngãnh, được đem vào thơ, tái hiện hoài hoài trong những giấc mơ, hay một ký ức không thể bào mòn.
 
   Tôi đặc biệt yêu thích bài Hội An sớm:
 
Hội An còn ngái ngủ
Mái chùa ôm vầng trăng
Giật mình nghe tiếng chổi
Gà gáy vàng trong sương…
 
   Như một khúc Đường thi. Thi ảnh, tuy cổ điển, nhưng đẹp não nùng. Và, chao ơi, tiếng chổi. Sao lại tiếng chổi từ trong sân chùa một cách mơ hồ vọng ra? Sao không là tiếng tụng kinh, tiếng chuông, tiếng mõ vào buổi sớm? Chính sự bất ngờ ấy đánh động tâm hồn khiến thi nhân giật mình, đã làm tăng thú vị khi đọc bài thơ. Bất ngờ hơn chuyện ông Trương Kế lúc từ Phong Kiều bước xuống thuyền nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn vọng lại. Bài thơ của Đỗ Nghê là bức tranh hiện thực được vẽ bằng bốn câu thơ năm chữ.
   Và tiếng gà. À, thì ra ngôi chùa chẳng ở đâu xa mà nằm gần kề một thôn xóm quê nghèo. Nó cho ta cảm giác ám áp, gần gũi, thân thương. Cụm từ “vàng trong sương” là một thủ pháp tu từ mỹ học. Ở đây nó là điểm nhấn như điểm nhấn trong hội họa, để từ đó người đọc thơ có thể vin vào, đoạn phóng chiếu ra tổng thể một cảnh tượng lung linh bóng hình thật đẹp, gồm có cả hình ảnh lẫn ảo ảnh. Hình ảnh là ánh tinh quang nhạt nhòa trong sương sớm. Ảo ảnh là một thôn làng xa xôi rơi rớt trong mớ ký ức ngổn ngang buồn nhớ.
    Ngôi chùa ở Hội An của Đỗ Nghê thân quen, gần gũi trong một tâm trạng cảm hoài nhưng một tâm thế u tĩnh, yên bình. Ngôi chùa Hàn Sơn của Trương Kế thì xa lạ, trống vắng trong một cảm giác bất an, mông lung, thậm chí bồn chồn, hoang mang, lạc lõng.
 
4.
   Tình yêu là đề tài muôn thuở trong thơ của gần như mọi thi sĩ đông tây kim cổ. Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là một thứ tình yêu đằm thắm, nhẹ nhàng. Bạn đừng tìm kiếm những tứ thơ nồng cháy nóng bỏng, khốc liệt trong thơ ông. Ngôn ngữ tình yêu là những nét chấm phá thi vị. Và ý nhị, thâm trầm:
 
Cảm ơn em sợi bạc
Cảm ơn em sợi hung
Cảm ơn em năm tháng
Đã theo già cùng anh.
(Theo già)
 
Hay:
 
Lá chín vàng lá rụng về cội
Em chín vàng chắc rụng về anh…
(Lá)
 
   Tôi thích những vần thơ tình nhẹ nhàng của Đỗ Nghê, bởi dù trong xa vắng, tình yêu của thi sĩ vẫn đẹp. Tháng năm trôi qua, đôi khi chạnh lòng nhớ lại kèm theo một chút bùi ngùi thương nhớ:
 
Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng
Tình cũng ngùi phai theo tháng năm…
(Cố nhân)
 
Lòng còn vương vấn dù thời gian dâu biển bao mùa đã qua. Chẳng còn gì để nhớ, để thương… Không, hình như vẫn còn… Và chỉ chừng đó thôi đã đủ cho “ta” bồi hồi sung sướng:
 
Trái thông khô rớt vèo chiều tím
May mà còn ánh mắt dao cau…
(Tím)
 
   Hình ảnh “bạo liệt” nhất trong thơ Đỗ Nghê là bài sau:
 
Anh đọc bài thơ tình
Em ngồi nghe lặng thinh
Anh đọc thêm bài nữa
Em vẫn ngồi lặng thinh
Anh buồn không đọc nữa
Em chồm lên hôn anh
Như đổ dầu vào lửa…
(Thơ tình)
 
    Và, không kém quan trọng, tình yêu trong thơ Đỗ Nghê bao giờ cũng hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước, với biển, cát, sóng, trời. Trái tim của thi nhân có đủ chỗ cho cả em lẫn biển:
 
Anh… ngoằn ngoèo trên cát
Không ngờ mà hóa tên em
Biển xanh nắng vàng sóng bạc
Không ngờ cùng kéo đến xem…
 
   Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là thứ tình yêu phổ quát, đẹp muôn đời, đáng ca tụng mãi mãi, thế hệ nào cũng có thể liên kết cá thể mình vào được. Ngôn ngữ ca ngợi tình yêu của thi sĩ giản dị, chân thành, biểu hiệu một tấm lòng thương quý dành cho món quà quý giá nhất Thượng đế ban cho loài người. Một món quà như thế mà hình như chúng ta đang đánh mất nó, đang để nó vuột khỏi tầm tay. Một mai không còn tình yêu nữa, chúng ta sống vô cảm, vô tính như một robot AI hay một con người văn minh, chỉ biết có khoái lạc nhục dục và soma gây mê, như Aldous Huxley miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Brave New World của ông, thì liệu lúc đó con người có còn là con người nữa không? Đọc thơ tình Đỗ Nghê để giữ gìn, trân quý món quà Trời cho đó, xin bạn đừng bao giờ đánh mất.
 
5.
    Ngôn ngữ thơ của Đỗ Nghê, nói chung, mang phong cách truyền thống, trữ tình. Cấu trúc và thi pháp cổ điển. Bởi thế, nhạc tính và cú điệu trong thơ du dương, trầm lắng. Đêm trên biển Lagi là một bài thơ với niêm luật chỉn chu theo đúng tinh thần Đường thi. Ông không tìm kiếm sự cách tân trong thơ mình. Kỹ thuật được ưa chuộng bởi các nhà thơ cách tân, như thủ pháp đặt cặp phạm trù/ thi ảnh tréo ngoe liền kề, không hề thấy trong suốt thi tập. Chữ nghĩa ông thâm trầm, dung dị. Ông không nệ chữ, không chuộng sử dụng những từ lạ, hoa mỹ, không vắt dòng vô cớ, không tra tấn người đọc bằng những ký hiệu rối rắm, ngớ ngẩn. Nhưng chữ nghĩa của ông là thứ chữ nghĩa có trọng lượng và buộc người đọc thơ phải suy ngẫm, liên tưởng, để trèo từ tầng chữ nghĩa lên tầng cảm xúc của thơ, để khám phá, để đắm chìm vào những khung trời, trong đó tâm hồn mình được vuốt ve, yên ủi.
    Tuy vậy, đó không phải loại thơ “khẩu khí” vốn đè nặng thi ca Việt Nam suốt mấy trăm năm qua và phần nào tiếp diễn cho đến ngày hôm nay. Thơ ông là tiếng nói, tiếng nói thầm thì nhưng trong veo và có sức mạnh chuyển tải cảm xúc, biểu hiệu cho một tâm hồn thơ giàu suy cảm.
    Có thể có kẻ thấy thiếu vắng một ý thức lịch sử, xã hội hay chính trị trong thơ Đỗ Nghê, thiếu cả những thao thức, khao khát nội tâm, do đó, họ biện biệt, thơ thiếu chất sống, không tiếp cận với đời sống con người, thân phận con người, vốn là cơ bản cho tất cả các thao tác văn học nói chung, thơ nói riêng.
    Tôi phản bác lập luận này. Đồng ý, thơ phải có một “đời sống thơ,” nhưng đời sống ấy không phải sinh ra để gồng gánh những trọng trách như minh họa kỷ nguyên lịch sử, miêu tả xã hội, bảo vệ ý thức hệ – dù là một ý thức hệ tốt đẹp – như Milan Kundera từng phát biểu nhiều lần. Mượn lời Kundera, tôi có thể nói là, thay vào đó, thơ tự cho nó một nhiệm vụ nói lên những điều “chỉ thơ mới nói được.” Ngôi nhà chữ nghĩa của thơ vốn ảo diệu, khó vào, thông thường chỉ mở lối cho người đọc thơ đi vào bằng con đường trực cảm hoặc linh cảm, thậm chí thần cảm. Khoác chiếc áo sứ mệnh nặng khôn kham lên thơ chỉ làm thơ thêm tội nghiệp và giết chết thơ.
    Ý thức rất rõ về điều đó, nhà thơ Đỗ Nghê đã không khoác chiếc áo sứ mệnh lên thơ mình.
    Nhưng “đời sống thơ” trong thơ Đỗ Nghê là gì, và ta phải hiểu như thế nào?
 
    Nhờ thấm đẫm Thiền vị, như đã nói bên trên, thơ Đỗ Nghê thắt buộc sự hiện hữu của con người vào thế giới xung quanh, và quan trọng hơn, tìm ra được quan hệ hài hòa giữa sự hiện hữu ấy với thế giới. Con người và thế giới không là chủ thể-khách thể như được hiểu theo ý nghĩa triết học cổ điển, mà là một tương tác giao thoa. Triết học Hiện sinh đặt vấn nạn chúng ta bị ném ra ngoài thế gian này mà không biết tại sao. Chúng ta giống nhân vật thần thoại Hy Lạp Sisyphus, bị kết án vĩnh viễn lăn tảng đá lên đỉnh núi chỉ để nhìn nó lăn xuống lần nữa. Thơ Đỗ Nghê không thắc mắc chuyện đó. Thơ ông cho ta thấy khả năng con người nhận thức được thực tế của hiện tồn, để từ đó biết trực diện với khổ đau và cái chết, đối đầu với những thách đố của đời sống dựa trên sự thông hiểu sâu sắc về bản chất của hiện tồn.
    Nhưng không thể gọi thơ Đỗ Nghê là thơ triết học. Đó là thơ. Thơ với tất cả những tố chất cố hữu của thơ. Bởi thơ ông không đưa ra một suy niệm tiên nghiệm nào, và bởi thơ đi thẳng từ trái tim thi nhân vào trái tim người đọc.
    Đọc “thơ ngắn đỗ nghê” giữa một thế giới đảo điên như hôm nay, giữa một cuộc sống đầy gian truân, trắc trở, với tôi, là một hạnh phúc.
TRỊNH Y THƯ
 
(Nguồn: Tạp chí Ngôn Ngữ, số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)