Huyền
Chiêu
Hàng cau
Cho đến khi chết bà tôi chưa từng nhìn thấy một
thỏi son môi.
Nhưng
trong ký ức của tôi, bà cũng như các phụ
nữ trong làng đều rất đẹp với làn môi đỏ tươi nhờ họ đều ăn trầu.
Đàn ông nông nổi giếng
khơi
Đàn bà sâu sắc như
cơi đựng trầu
Ngày
nay, các bạn trẻ có lẽ chưa bao giờ nhìn
tháy cái cơi đựng trầu.
Cơi
đựng trầu là đồ vật ưa thích nhất của tôi thuở ấu thơ. Suốt ngày tôi quanh quẩn
bên bà tôi , ngắm nghía không chán những vật dụng lỉnh kỉnh trong chiếc khay
vuông mà bà tôi gọi là cơi trầu.
Trong
cơi luôn có một xấp lá trầu xanh, vài trái cau tươi, một bó giún.
Giún
là một loại vỏ cây rừng phơi khô. Khi được nhai, giún làm miếng trầu thêm dẻo và
tất nhiên không thể thiếu cái bình sành đựng vôi, bên trong có cắm một con dao kỳ lạ . Con dao
ấy có một đầu nhọn để quệt vôi, một lưỡi dao để bổ cau và một cái đinh nhọn để
xoi một lỗ trên miếng trầu têm trước khi cắm cuống trầu, giữ cho miếng trầu
khỏi bung ra.
Cơi
trầu được đật trên bộ ván thấp , nơi bà tôi thường ngồi và dưới chân bộ ván
luôn có cái ống nhổ đựng bã trầu. Nhưng đồ vật mà tôi thích nhất trong cái cơi
trầu là cái ống ngoáy bằng đồng.
Trước
khi quệt một chút vôi lên lá trầu bà tôi ngắt bỏ phần đuôi nhọn của lá trầu. Bà
kể:
“Ngày
xưa có một người con trai và một người
con gái thường hẹn gặp nhau bên một vườn trầu. Hai người thường trò chuyện và
ngắt lá trầu thơm nhai. Một lần sau cuộc hẹn trở về , người con trai ngã ra
chết. Quan bắt cô gái để xét tội. Nhìn thấy cô gái thùy mỵ, đoan trang, quan
không thể bắt tội cô nhưng quyết tìm ra nguyên nhân. Quan cho lính đào hết gốc
trầu nơi hai người thường hò hẹn. Và mọi người kinh hãi khi thấy dưới gốc trầu
là ổ của một con rắn độc. Buổi tối rắn bò lên ngọn trầu và nọc độc của rắn đã
rơi trên vài lá trầu. Từ đó người ăn trầu bao giờ cũng ngắt bỏ phần chót của lá
trầu để tránh chất độc .”
Vừa
kể chuyện bà tôi vừa bỏ một miếng cau , một miếng giún nhỏ vào lá trầu và khéo léo gói miếng trầu lại
tròn trịa, gọn gàng vừa đủ bỏ vào ống ngoáy. Tôi luôn xin bà được lãnh phần
ngoáy trầu. Dùng một cái chìa bằng đồng có đầu nhọn, tôi giả trầu cho bà ,
trong khi bà ngâm nga:
“Thương nhau cau sáu
bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ
ra làm mười?
Bài
toán chia trái cau thương ghét từ đó in vào trí óc non nớt của tôi.
Khi
cối trầu đã nát, tôi sung sướng trao cho bà và ngắm nhìn bà móm mém nhai miếng
trầu từ từ tươm quết trầu đỏ thắm lên viền môi .
Đây
là giờ phút tôi trông chờ nhất. Sau khi
nhổ chút quết trầu vào cái ống nhổ có mùi thơm rất lạ , bà bắt đầu kể chuyện cho tôi nghe.
“Ngày
xưa có hai anh em giống nhau như
đúc. Cha mẹ mất sớm, hai anh em
thương yêu đùm bọc nhau sống chung trong ngôi nhà cha mẹ để lại. Khi lớn lên cả
hai đều thầm yêu một cô gái trong làng. Thương hai anh em con nhà nề nếp ,
tướng mạo đĩnh đạc, cha cô gái đống ý gả nàng cho người anh.
Một
hôm nhìn tháy người em đi làm đồng về sớm, người vợ chạy ra ôm lấy vì tưởng
nhầm là chồng mình. Từ đó người em cảm thấy không thể sống chung trong ngôi nhà
này nữa, chàng âm thầm bỏ nhà ra đi. Đi
mãi không biết về đâu, lòng buồn rầu không ăn không uống, chàng kiệt sức ngã
quỵ biến thành tảng đá vôi bên vệ đường. Người anh chờ hoài không thấy em về lòng buồn vô hạn, chàng quyết ra đi tìm em,
đến bên tảng đá, chàng chết và hóa thành cây cau . Bỏ nhà đi tìm chồng , người vợ đến bên cây cau hóa thành dây trầu quấn quýt
bên thân cau.
Câu
chuyện trầu cau trẻ em cùng thế hệ với tôi ai cũng thuộc lòng nhưng khi bà tôi
đã mất và khi tuổi của tôi đã gân bằng tuổi của bà, nhớ bà, nhớ câu chuyện bà kể tôi mới ngạc nhiên hiểu ra
đây là một câu chuyện nói lên nhân cách
quá đẹp của người Việt thuở xưa.
Thuở
xưa ấy người Việt không có thư viện với hàng đống sách dạy sống đẹp, dạy học làm
người, không có những buổi thuyết giảng về luân lý đạo đức trên TV trên
internet của các tiến sĩ, thạc sĩ nhưng con người sống rất coi trọng luân thường đạo lý. Chuyện anh thương em, vợ
thương chồng là lẽ thường nhưng tôi muốn nói đến lý do người em phải bỏ nhà ra
đi.
Tại
sao chàng phải rời bỏ ngôi nhà êm ấm, rời bỏ mảnh ruộng trăm năm của ông bà, cha mẹ để lại, rời bỏ người anh mà
chàng thương nhất trên đời cùng người
chị dâu mà chàng vừa yêu vừa kính. Theo tôi chàng phải ra đi vì chàng sợ không
thể thắng được lòng mình, chuyện loạn luân có thể xãy ra một cách dễ dàng
vì người chị dâu không phân biệt được
chồng và em chồng.
Câu
chuyện quá đẹp nói lên không chỉ tình nghĩa mà là lễ nghĩa của người Việt xưa.
Và
tôi vô cùng xúc đông khi hiểu ra nỗi lòng của người :
“Ôi ta buồn ta đi
lang thang bởi vì đâu”
Thật
oan nghiệt cho chàng và chàng đáng yêu,
đáng kính xiết bao . Cho nên trời đã cho chất vôi bạc của chàng trở thành
màu đỏ tươi đằm thắm khi đoàn tụ với vong hồn người anh, người chị chàng yêu quý mà không thể sống cùng nhau
trên dương thế bao la sầu.
Bà
tôi không còn trên cõi đời này, cơi trầu không còn hiện diện trong cuộc sống
thường ngày. Đáng thương cho các em bé
ngày nay không còn có bà bên cạnh để kể
chuyện đời xưa, chúng được tập trung trong các nhà trẻ có những bảo mẫu không
biết ăn trầu.
Tiếc
một thế hệ người Việt hàng mấy ngàn năm gắn bó với miếng trầu đã biến mất.
Tháng giêng 2019
HUYỀN
CHIÊU
(*) Trong ca khúc
Trầu Cau- Phan Huỳnh Điểu
No comments:
Post a Comment