Lâm Chương
Nhà văn
Lâm Chương
Lộc Tưởng.
Sinh nhật 60 tuổi
Tôi
bây giờ hay quên lắm. Một bữa tôi đến nhà chị Lộc Tưởng, chị tổ chức cookout ở
sân sau, trên bờ hồ nhìn ra một vùng trời nước mênh mông thơ mộng, chờ trời tối
coi pháo bông nhân dịp lễ July 4. Bữa đó được gặp nhiều người thân quen, tôi hừng
chí uống hơi nhiều bia rượu, khi ông Đoàn Đông kể chuyện vui về Con Nhỏ Nhà
Quê làm tôi ngẫm nghĩ cười hoài. Tôi có nói sẽ viết vài cảm nghĩ về quyển
sách chị Lộc Tưởng sắp in. Vậy mà khi về tôi quên mất. Một thời gian sau, chợt
nhớ lại thì thời gian đã qua đi hơn tháng trời. Bởi vậy, tôi sợ mình bị chứng
alzheimer là bệnh mất trí nhớ. Hồi thời tôi còn đi học, alzheimer người ta dịch
là chứng kiện vong. Kiện vong, một chứng bệnh mà dịch ra tiếng Việt cái tên
nghe cũng hay. Bây giờ không ai dùng chữ kiện vong nữa. Người ta bảo là mất trí
nhớ, nghĩa là bao nhiêu sự kiện xảy ra trong đời đều bị xoá sạch, giống như những
dòng chữ được ghi trong tập giấy bỗng dưng bị xoá trắng. Cái lạ là từ đó trở
đi, tập giấy trắng này không còn ghi được bất cứ một dòng chữ nào nữa. Tôi, dù
hay quên nhưng đầu óc vẫn còn loáng thoáng nhớ lại những gì đã nói trong đêm
July 4. Và tôi viết...
Có
người bạn trẻ hỏi, sao các ông hay nhắc chuyện quá khứ, đáng lẽ phải hướng tới
tương lai để cuộc đời còn vươn lên chứ? Đang trong cuộc nhậu, tôi khề khà giải
thích theo kiểu một ông già hết thời rằng, tuổi bạn còn trẻ, phía trước bạn còn
có một khoảng thời gian dài, bạn hướng tới tương lai và vươn lên để tạo kế lập
thân, xây dựng sự nghiệp là đúng rồi. Chúng tôi đã lớn tuổi. Tôi né tiếng “già”
vì nhiều người không thích nghe ai xác định một thực trạng quá date của mình, kể
cả tôi nữa. Nói như nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn: Ta như đứa trẻ ngàn năm tuổi.
Người già là một đứa trẻ nhiều tuổi. Định nghĩa như thế, các cụ yên tâm tiếp tục
sống hùng, sống mạnh nhưng không sống lâu. Bây giờ, người ta hay nói một cách cầu
kỳ là quỹ thời gian. Cái quỹ thời gian của chúng tôi còn lại chẳng bao nhiêu.
Nhìn về phía trước ư? Con đường trước mặt vừa ngắn, vừa xuống dốc. Và chúng tôi
như chiếc xe đứt thắng đang lao dốc, càng lúc càng nhanh. Sức khoẻ hao mòn,
ngày tháng cạn kiệt. Mà đằng kia, cuối đường lại thấp thoáng cái hố huyệt bi thảm
đen ngòm chờ đợi, hoặc một cái lò thiêu xác đang bừng bừng lửa cháy. Thôi rồi,
tấm thân tứ đại bao nhiêu năm gây thù chuốc oán, hoặc tu nhơn tích đức trong
phút chốc bỗng tan thành tro bụi. Như thế đó, nếu nhìn về tương lai, người yếu
bóng vía dễ bị khủng hoảng tinh thần, nhẹ lắm cũng bị trầm cảm. Để yên tâm và
tiếp tục vui vẻ yêu đời, chúng tôi nhìn ngược, nghĩa là ngoái nhìn về quá khứ.
Nếu dĩ vãng không là một thời vàng son ấm áp thì cũng đầy ắp bao nhiêu kỷ niệm
vui buồn thân thiết. Đó là lý do, và cũng là câu trả lời cho người bạn trẻ hỏi
tại sao các ông hay nhắc chuyện cũ.
Sở
dĩ tôi dài dòng về câu hỏi của người bạn trẻ là để chuẩn bị bước vào quê hương
hoài niệm của chị Lộc Tưởng. Một quê hương “hồi đó” đã lùi sâu vào vùng ký ức.
Chị nhìn ngược thời gian để sống lại với thời quá vãng. Địa danh và chốn
cũ vẫn còn, nhưng đã mất rồi những kỷ niệm ngày xưa thơ ấu. Đọc Vàm Kinh Cũ,
tôi bỗng liên tưởng bài Ánh Mắt Quê Hương của Hoàng Phương:
Em tìm về chân đê
Chút hương thầm lá cỏ
Cánh diều bay chấm nhỏ
Chốn xa kia gọi về
Những
người con của quê hương ngày ấy, lớn lên như bầy vịt trời xiêu tán, một hôm bỗng
nghe tiếng vọng từ chốn xa kia gọi về Vàm Kinh Cũ. Và bao nhiêu kỷ niệm
kỷ niệm buồn vui một thuở xa xôi ùn ùn sống lại. Từ xóm Chàm gần bến đò Châu
Giang sáng chiều vẳng lại tiếng cầu kinh, không hiểu nghĩa nhưng cái âm thanh kỳ
lạ ấy mỗi ngày một ít thẩm thấu vào tiềm thức, làm nên một kỷ niệm đặc thù mà
chị không thể nào quên, cũng không thể nào tìm được bất cứ ở đâu. Dù bây giờ có
tìm về thì cũng không còn cái âm thanh ngày xưa ấy. Nó chỉ còn trong tiềm thức
và chị làm tái hiện lại khung trời biệt mù xa khuất ấy bằng những dòng chữ mà
chị gọi là bút ký.
Bút
ký của chị Lộc Tưởng là những chuyện đời thường, không chuyên chở những triết
lý nặng nề, không làm dáng văn chương sáo rỗng. Chị viết một cách tự nhiên,
chuyện nọ xọ chuyện kia, từ xưa tới nay, từ đông sang tây, từ quê hương sang
qua xứ người. Người đọc cảm thấy nhẹ nhàng, thỉnh thoảng mỉm cười với một vài
tình tiết thú vị. Trước ngày đám cưới, bác Hiêm, một người Chàm lớn tuổi ở
xóm, chận tôi lại hỏi "Thằng chồng con nó ở đâu?". Tôi trả lời ở Sài
Gòn. Bác nói với vẻ không vui "Con ơi! Ở đây thiếu gì thằng sao con không
lấy, con lấy thằng Sài Gòn nó gạt con đi bán bar". Tôi phải giải thích với
bác, ở Sài Gòn nhưng gốc Châu Đốc. Chừng đó bác cười nói "Ừa! vậy thì được."
Cũng may cho ông Đoàn Đông, thằng Sài Gòn nhưng gốc Châu Đốc. Nếu gốc ở xứ
nào khác thì đừng hòng rớ tới con gái của quê hương Bảy Núi.
Ông
Hai Trầu có bài Lần theo dấu chân Lộc Tưởng. Lần theo, có nghĩa là từ từ
theo dấu chân người trước. Ông là người thâm trầm điềm đạm, sự đời đối với ông
không có gì vội vã, nên ông từ từ lần theo. Nhưng tôi có cảm nhận khác ông Hai
Trầu. Khi đã vào chuyện của chị Lộc Tưởng thì không từ từ được nữa, mà phải chạy
theo những tình tiết luôn luôn biến chuyển. Chẳng hạn, bước vô Nghề nơi xứ lạ.
Đó là một tiệm Nail. Nghe các bà kháo chuyện với nhau, linh tinh đủ chuyện tầm
phào. Tác giả diễn tả đúng tính chất của những người ngồi lê đôi mách. Tôi đặc
biệt chú ý nhân vật bà Ba. Bả nói chuyện tào lao nghe phát mệt. Ngoài sáu
mươi mà còn nhỏng nha nhỏng nhảnh. Và đây, bà Ba xuất hiện: thình lình tiếng kêu “leng keng” từ cánh cửa tiệm làm tôi giật mình nhìn
lên. Một người đàn bà mặt dầy son phấn có khuôn mặt đúc từ lò của đệ nhất phu
nhân Hạnh Phước đẩy cửa bước vào, hai tay chấp lại theo phim tàu miệng tía lia:
Hé lô, hé lô bà con, năm mới phát tài … Khỏi cần giới thiệu dài dòng, người đọc cũng mường tượng ra một bà Ba mặt
mày dao kéo chỉnh sửa cứng đơ thô rám như tượng bằng sáp, và mồm miệng không để
kéo da non. Để tả một nhân vật, đôi khi không cần phải rườm rà từ ngữ, chỉ cần
phác hoạ vài nét đặc trưng là người đọc hình dung ra ngay. Tác giả cho biết,
khuôn mặt “bà Ba” là tác phẩm được phát hành từ nhà xuất bản Hạnh Phước thẩm mỹ
viện. Vậy là đủ. Một khuôn mặt vô hồn chết duyên. Hồi còn đi học, bọn học trò
chúng tôi gọi những khuôn mặt loại này là điện trở trơ. Nhà văn Nam Cao
(hay Vũ Trọng Phụng, tôi không nhớ chắc) là một trong những tác giả tả chân
hàng đầu của nền văn chương Việt Nam tiền chiến. Ông tả người đàn bà rằng “nàng
có cái nhan sắc của một người đàn ông xấu trai...” Trời ơi, đàn bà mà có
cái nhan sắc của đàn ông thì khó coi rồi, đã vậy lại là của một người đàn ông xấu
trai nữa. Nói theo ngôn ngữ bình dân, nhan sắc này thuộc loại ma chê quỷ hờn.
Nói theo ngôn từ kiếm hiệp thì gọi là Quỷ Kiến Sầu. Quỹ thấy cũng buồn
thì ai mà vui cho nổi? Thêm một trường hợp tả chân khác. Trong truyện Kiều,
Nguyễn Du cũng có một lối diễn tả độc đáo khi giới thiệu mụ Tú Bà: Thoắt
trông nhờn nhợt mà da. Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao. Chỉ với hai câu lục
bát, tác giả cho ta thấy hình ảnh sung mãn của người đàn bà làm chủ thanh lâu,
chuyên nghề kinh doanh thân xác kỹ nữ. Người ta làm “má mì” nuôi em út, sống giữa
chốn làng chơi mà hỏi ăn gì cao lớn đẫy đà thì thật là mỉa mai và ... độc
hơn thịt vịt xiêm. Ai bảo các cụ ngày xưa không thâm?
Trở lại với bút ký của chị Lộc Tưởng. Dù đã lìa xa mấy chục
năm khung trời cũ, nhưng chị vẫn mang theo cả một thời thơ ấu, những kỷ niệm từ
những bước chân đầu đời. Giựt Giàn là một trong những hồi tưởng lao xao
những khuôn mặt một thời tuổi nhỏ đông vui: trẻ con tụ năm tụ bảy ở mấy cây
me tây. Đứa dưới gốc, đứa trên cành, mặt mày hớn hở nói chuyện, cười giỡn, múa
tay, múa chân, trèo lên, nhảy xuống như bầy khỉ con. Cách diễn tả thì náo
nhiệt vui tươi. Sao đọc xong, trong tôi còn đọng lại một chút buồn buồn. Một
chút buồn buồn nhớ những gì bỏ lại đằng sau. Quá khứ đã mịt mù theo ngày tháng
lưu vong. Đời sống tất bật với mưu sinh xứ người đã nhận chìm một quê hương “hồi
đó” vào vùng ký ức.
Để
nói về thế sự biến thiên, người Tàu có câu: thương hải biến vi tang điền. Không
có ngôn từ nào bao hàm hết ý nghĩa và hay hơn khi nói về sự đổi thay nay vầy
mai khác. Một cách thực tế, gần gũi với đời thường, chị Lộc Tưởng nói về Con
Kinh Cũ sau thời kỳ vận nước bể dâu. Con kinh Vĩnh An Hà, nối liền giữa hai
nhánh sông Tiền và sông Hậu. Người ta lấp đầu kinh phía Tân Châu để xây nhà.
Con kinh bị bức tử. Dòng kinh mất dấu. Hình ảnh và cái tên Vĩnh An Hà, từ nay
chỉ còn trong trí nhớ của tác giả. Chị bâng khuâng tiếc nuối, Dẫu biết đời
không có gì vĩnh cữu, sự vật thay đổi theo năm tháng, người thì sinh sôi nầy nở
nhưng đất thì không. Do đó, chỗ ở là nhu cầu của đời sống nhưng lấp một con
kinh đã có hằng trăm năm để xây cất nhà cửa thì quá phí công sức của tiền
nhân... Hàng trăm năm trước, tâm trạng của người đời xưa cũng không khác
người đời nay, khi đứng trước nỗi đời lênh đênh mây chó. Thử đọc bài Sông Lấp
của ông Trần Tế Xương (1870 - 1907):
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Nếu
thay hai chữ Sông Lấp bằng con kinh Vĩnh An Hà thì rõ ràng ông Trần Tế
Xương đang nói về con kinh mất dấu của xã Châu Phong. Vật đổi sao dời. Giờ đây
dòng Kinh Cũ mặt đất đã bằng, chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai. Một
hôm nào đó, khách tha hương quay gót tìm về cố lý, trong đêm sâu thẳm mơ màng,
thấy hình ảnh con kinh vẫn còn nguyên trong ký ức . Cho nên khi nghe tiếng ếch
bên tai, khách bỗng giật minh còn tưởng tiếng ai gọi đò. Bốn câu thơ
đã làm ta lặng người xúc động. Chữ nghĩa thi ca tài tình đã đạt tới mức sơn
cùng thủy tận!
Đọc
bút ký của chị Lộc Tưởng, tôi hay suy nghĩ mông lung, vô tình vượt ra ngoài giới
hạn của một bài viết ngắn. Quay lại với chuyện Giựt Giàn. Có lẽ đây là bài viết
sinh động và vui nhất trong mùa Vu Lan. Ngoài những nét chấm phá về phong tục tập
quán có tính cách địa phương, tác giả nói về bà Ba Đen, một nhân vật điển hình và rõ nét nhất, không chỉ trong bài viết mà cả
trong trí nhớ tác giả nữa : bà có tiệm hàng xén, có người gọi tiệm tạp hóa,
rất hung dữ. Muốn giựt nợ của bà chỉ khi nào nằm xuống lỗ. Nếu không, dù bệnh
liệt giường còn chút hơi thở vẫn nghe giọng chanh chua đòi nợ của bà. Đối với
người sống bà đanh đá bao nhiêu, đối với người khuất mặt, bà hiền lành bấy
nhiêu. Tối nào bà cũng đốt nhang cúng lạy, ngoài đường cúng trời, trong nhà
cúng phật. Qua vài dòng giới thiệu sơ lược, người đọc đã nhìn thấy một bà
Ba Đen rất đáng gờm, vừa đanh đá với người đời, vừa thành kính thờ phượng
thiêng liêng. Bà thể hiện hai mặt rõ rệt trong một đời sống. Nhưng đó chỉ là
khúc mở đầu thôi. Giai đoạn sau, tác giả đem hết tài năng mô tả một người đàn
bà rất ác khẩu. Và nhân vật cũng bộc lộ bản chất ghê gớm của mình: Bà cũng
có cúng "cô hồn" với đầy đủ bánh trái như bao nhiêu nhà khác, nhưng
không bao giờ chúng tôi được phần, dù một khúc mía sâu của bà. Vì sau khi cúng,
bà đem đồ ngon để một bên rồi kêu mấy đứa cháu ra lấy, chỉ còn xôi, cháu trắng,
đường thẻ trong nia cho mấy đứa giựt giàn. Có một lần chúng tôi bàn nhau và quyết
định đến nhà bà làm một chuyện “để đời”, thấy chúng tôi bà ra lệnh: "Tụi
bây phải chờ tao cúng xong chừng nào tao cho mới được giựt biết không?".
Chúng tôi ngoan ngoãn trả lời: "Dạ biết". Nhìn cái nia nhà bà nào
bánh cấp, bánh cúng, mía "thâm diệu" đỏ bầm, có cả mận và quít (ngon
ơi là ngon). Cả bọn nhẫn nại nghe bà khấn vái: "Xin cô hồn các đảng bơ vơ
không nơi nương tựa, hữu sinh vô dưỡng, sinh non chết dại, chết bờ chết bụi, chết
đâm chết chém, đạn lạc tên bay, xe cán cây đè, rắn mổ rít cắn, thần vòng thắt cổ,
một lỗ nhiều thây, hãy về đây. Tôi thật không biết bà Ba Đen học thuộc lòng
câu khấn vái này từ trong dân gian truyền khẩu, hay tác giả đặt ra để “hù” người
đọc. Lời khấn mà như bài thơ có vần điệu, mỗi câu 4 chữ, ý tứ dồi dào, hình ảnh
rùng rợn, toàn là những trường hợp chết dữ. Thử sắp xếp lời khấn dưới hình thức
một bài thơ để thấy cái hay và độc đáo của nền văn chương truyền khẩu dân gian.
Nếu tác giả tự đặt ra rồi gán vào miệng nhân vật thì tôi lại càng bái phục.
cô hồn các đảng
không nơi nương tựa
hữu sinh vô dưỡng
sinh non chết dại
chêt bờ chết bụi
chết đâm chết chém
đạn lạc tên bay
xe cán cây đè
rắn mổ rít cắn
thằng vòng thắt cổ
một lỗ nhiều thây
(thằng
vòng, tiếng Hán là sợi dây thòng lọng)
Đoạn
trên mới nói về bà Ba Đen thôi. Tiếp theo đây là hành động của những người bạn
nhỏ: Ôi! sao bà vái dài quá, tay chân bọn tôi bắt đầu ngứa ngáy. Theo chương
trình, chờ bà dứt lời mới ra tay nhưng vì bà vái quá dài nên thằng Hiệp đầu đàn
nhịn hết nỗi la lên: "Giựt"! Thế là cả bọn nhào vô thích gì lấy đó,
phần còn lại "hất" cho đổ xuống đất. "Đánh nhanh rút lẹ",
tôi “ụt ịt” nhất cũng phải ráng sức chạy thật nhanh. Nếu để bà ta nắm đầu là
mang họa. Bà vừa rượt vừa chưởi: "Đồ cô hồn sống, đồ có cha sanh không có
mẹ dạy, quỷ sứ sao không vặn họng tụi bây chết hết cho rồi, bà nội cha bây, tao
chưa lạy xong. Đây cũng là một bài thơ tự do, phát ra từ miệng bà Ba Đen:
đồ cô hồn sống
có cha sanh không có mẹ dạy
quỷ sứ sao không vặn họng tụi bây
chết hết cho rồi
bà nội cha tụi bây
tao chưa lạy xong
Chị
Lộc Tưởng không cố ý làm văn chương, nhưng qua vài đoạn trích dẫn trên, chị đã
thành công trong loại văn tường thuật, và lối mô tả con người rất ư là sống động.
Đó
là những gì rộn ràng diễn ra trong mùa Vu Lan trước cổng chùa Châu Viên, hay
trước miếu Tiên Sư. Nhưng bước ra phía sau miếu là một bức tranh hoàn toàn
khác. Phía sau miếu Tiên Sư là trường học chỉ có 3 lớp: lớp năm, lớp tư và lớp
ba. Mỗi lớp không hơn 20 chục học sinh. Trai gái học chung, Việt Chàm lẫn lộn. Con
gái Chàm học hết lớp ba là tới tuổi “cấm cung” ở nhà dệt vải, đan lưới, chỉ được
ra khỏi nhà ban đêm, lúc nào cũng phải phủ khăn mỏng che mặt sợ gặp người lạ.
Còn con trai Chàm làm nghề đánh cá, bán chăn xà rông hoặc bán lưới. Học
sinh Việt Nam chỉ cần biết đọc biết viết. Nhất là con gái phải ở nhà giúp gia
đình cơm nước, giữ em, trưa thì đội khoai lang, khoai mì hoặc mía khúc đi bán dạo.
Do đó khi qua chợ học lớp nhì thì chỉ còn vài que. Tác giả cho ta thấy một xã hội nghèo nàn với
cuộc mưu sinh vất vả. Những đứa bé Chàm chưa kịp trưởng thành thì trên vai đã bị
đè nặng bởi việc mưu sinh dệt vải, đan lưới. Và con trai thì làm nghề đánh cá,
bán chăn xà rông, hoặc bán lưới. Trẻ em Việt Nam cũng không khá hơn trẻ em
Chàm. Đời sống cùn mằn nghèo khổ, làm người ta cam phận, không dám nhìn cao hơn
những bữa ăn đạm bạc hàng ngày. Cha mẹ quan niệm con em chỉ cần biết đọc, biết
viết là đủ. Con gái phải ở nhà giúp gia đình cơm nước, giữ em, trưa thì đội
khoai lang, khoai mì hoặc mía khúc đi bán dạo. Tôi nghiệp thì thôi! Thân phận
những đứa bé Chàm, bé Việt qua ngòi bút của chị Lộc Tưởng làm người đọc không
khỏi động lòng trắc ẩn. Viết tới đây, tôi nhớ lại một câu nói “để đời” của ngoại
tôi: “Con gái học nhiều chỉ để viết thư tình cho trai, chứ ích lợi gì!”
Hết đời ngoại, đến đời má tôi cũng chẳng khá hơn. Má nói, sở dĩ cho tôi đi học
là để cầm chân tôi trong lớp, khỏi chạy nhảy phá làng phá xóm. Lạy trời, nhờ má
cầm chân mà hôm nay tôi có được chút chữ nghĩa để viết bài này.
Chị
Lộc Tưởng với lối văn bình dị như người kể chuyện, chuyện cũ chuyện mới đan lẫn
vào nhau như một bức tranh nhiều màu sắc. Chuyện mới là một cái nhìn rất bình
thường của những người Việt xa xứ về một quê hương thứ hai. Mùa thu vùng
Đông Bắc, Xúm nhau mua gạo, Bầu cử tổng thống Mỹ, Nghề nơi xứ lạ ..., (và
những chuyện khác) là những chuyện mà tôi muốn dành cho người đọc, với những nụ
cười nhẹ nhàng ý nhị mà tác giả trang trải qua từng trang bút ký. Trong một bài
viết ngắn, tôi không thể cầm cờ chạy trước tác giả, và chiếm nhiều trang của chị.
Chuyện
cũ thì đã chìm sâu vào quá khứ, bây giờ chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm dù vui hay
buồn, nhưng khi nhắc lại cũng làm ta ngậm ngùi thương nhớ.
Còn tìm đâu tìm đâu mái nhà
Còn tìm đâu ngôi trường cũ mến
yêu
Còn tìm đâu mây buông tóc xoã
Tìm đâu em thơ nho nhỏ
Tìm đâu tuyết sương mẹ già.
Tôi
mượn lời bài nhạc Về Thăm Đất Mẹ của Anh Việt Thu (1939 – 1975) để kết
thúc bài viết này, và cũng để nói lên tâm trạng của tôi khi đọc những bài hoài
niệm quê hương xưa của chị Lộc Tưởng.
Lâm
Chương