Sunday, October 26, 2025

DOÃN QUỐC SỸ. NHÀ VĂN THẦN THOẠI

Nguyên Giác Phan Tấn Hải
 
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025).


Chân dung nhà văn Doãn Quốc Sỹ, PTH vẽ.
 
Từ thời say mê đọc sách trong các năm trung học, tôi đã nhìn thấy chung quanh mình như là một cõi phân đôi: thế giới thần thoại và thế giới đời thường. Cái nhìn đó vẫn theo tôi không rời, và tôi tin thật rằng các nhân vật trong truyện về các nàng Mị Nương, truyện Bích Câu Kỳ Ngộ của Việt Nam vẫn đang đi lại bên các vị thần của cổ tích Hy Lạp bên ngoài hiên nhà của tôi. Hễ tôi hé cửa nhìn ra là họ biến mất, nhưng khi khép cửa lại, tôi nghe được tiếng họ thì thầm như thúc giục tôi mở ra các trang sách để đọc về những cõi rất là thơ mộng.
Nhiều năm về sau, khi đọc nhiều hơn, tôi mới nhận ra rằng các trang sách của các nhà văn như Doãn Quốc Sỹ, Charles Perrault, Hans Christian Andersen, và Leo Tolstoy là những cánh cửa để tôi nhìn vào thế giới thần thoại, nơi rất nhiều nhân vật của họ là hiện thân của thơ mộng, yêu thương, và bất bạo động.
Các nhân vật của họ như dường không có thật. Nhưng khi nhà văn Doãn Quốc Sỹ, với nụ cười thơ mộng không bao giờ tắt, bước vào tòa soạn Việt Báo, thế giới đời thường của cực nhọc, của suy tính, của các bài bình luận nhức đầu về kinh tế, chính trị, xã hội đều tan biến trước mắt tôi. Thế giới thần thoại hiện ra, bay lơ lửng quanh tôi, theo chân nhà văn họ Doãn, bất kể rằng ông đã vào tuổi lãng đãng. Mà nói cho cùng, có nhà văn, nhà thơ chân thực nào mà không lãng đãng, không cách này thì cách kia.
Thường thì tôi lúng túng khi nói chuyện, vì luôn luôn có người nhà đi theo nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Tôi không giữ được cách xưng hô cho thống nhất. Tôi lại thân với bạn Doãn Quốc Hưng, người con trai thường dẫn nhà văn họ Doãn đi nơi này, nơi kia. Tôi hiếm khi nói trực tiếp với nhà văn họ Doãn, vì không biết nói gì với nụ cười rất mực Niết Bàn của cụ. Khi nói chuyện với mọi người, có khi tôi gọi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là cụ Sỹ hay là bác Sỹ (khi nhớ rằng mình là bạn của Hưng), có khi gọi là anh Sỹ (khi nhớ rằng nhà thơ Trần Dạ Từ ở tù chung với nhà văn Doãn Quốc Sỹ nhiều năm), và gọi trang trọng là nhà văn khi ngồi viết tin. Và tôi nhận ra, nhà văn Doãn Quốc Sỹ là người của thần thoại, và là người viết cho nền văn học thần thoại. Chắc chắn, nhiều người cũng sẽ mơ hồ nhìn thấy như thế. Mỗi dân tộc sẽ có một người độc đáo như thế.
Trường hợp nước Pháp là nhà văn  Charles Perrault (1628–1703), không chỉ kể chuyện cổ tích cho trẻ em, mà còn gieo vào lòng người lớn những hạt giống yêu thương, đức hạnh. Trong các tác phẩm như Cô bé Lọ Lem hay Người đẹp ngủ trong rừng, nhà văn đã thần thoại hóa thế giới đời thường. Perrault không ca ngợi chiến thắng bằng sức mạnh, mà bằng lòng kiên nhẫn và tình yêu thương.
Trường hợp Đan Mạch là nhà văn Hans Christian Andersen (1805–1875), nơi nhân vật nào cũng ngây thơ và trong sáng. Ông viết cho những người bé nhỏ trong xã hội—cô bé bán diêm, chú lính chì, con thiên nga trên hồ —những nhân vật chịu đau khổ nhưng không đánh mất lòng yêu thương. Truyện của Andersen thần thoại hóa thế giới chung quanh, biến chiếc que diêm, hay giọt nước mắt thành biểu tượng tình thương. Văn chương của ông là ánh sáng dịu dàng soi rọi vào cuộc đời, để chúng ta học cách yêu thương nhau hơn.
Trường hợp nước Nga là nhà văn Leo Tolstoy (1828–1910). Tolstoy không chỉ là tiểu thuyết gia vĩ đại, mà còn là nhà hiền triết của lòng từ bi và bất bạo động. Trong những truyện ngắn đạo đức như Ba câu hỏi (The Three Questions), hay tuyển tập truyện trẻ em "The Lion and the Puppy: And Other Stories for Children", ông dùng ngôn ngữ giản dị để truyền tải thông điệp sâu sắc về sự yêu thương, tha thứ và sống vì người khác. Tolstoy tin rằng sự trong sáng của tâm hồn là con đường duy nhất để nhân loại vượt qua khổ đau. Ông phản đối chiến tranh, lên án bạo lực. Tolstoy viết không phải để giải trí, mà để thức tỉnh trái tim con người.
Trường hợp Việt Nam là nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), người sống giữa rất nhiều môi trường bạo lực, từ chiến tranh cho tới nhà tù, nhưng ngòi bút vẫn hướng về một thế giới thần thoại trong đời thường, nơi các nhân vật là hiện thân rất mực trong sáng của tình yêu thương, lòng từ bi, sự hy sinh. Truyện của Doãn Quốc Sỹ phần lớn mang màu sắc u buồn nhưng thơ mộng, viết về đời thường mà y hệt truyện cổ tích. Và thực sự là họ Doãn đã kể chuyện thần thoại với tuyển tập “Thần Thoại: Nhật Bản - Đại Dương Châu - Hy Lạp - Bắc Âu” (NXB Sáng Tạo), nơi độc giả sẽ đi lạc vào thế giới hầu như ai cũng đi đứng nói cười với tâm trong sáng.
Có một yếu tố nữa. Khi vào đại học, tôi học ở Văn Khoa, không có cơ duyên học Vạn Hạnh. Không phải kỳ thị, mà chỉ vì nghe lời rủ của người bạn thân là nhà thơ Phan Nhật Tân. Nhìn lại, các vị thầy ở Đại Học Văn Khoa mà tôi học, như GS Nguyễn Văn Trung, GS Lê Tôn Nghiêm, GS Lê Xuân Khoa cho tôi đủ thứ lý luận phức tạp, bàn đủ thứ chuyện nhức đầu về chủ nghĩa hiện sinh của Jean-Paul Sartre hay Albert Camus... Đủ thứ “nghiêm và buồn.”  Tôi không được học nhà văn Doãn Quốc Sỹ ở Văn Khoa, cho dù tôi còn nhớ là nơi nữ sinh viên nào cũng rất đẹp, và là nơi nam sinh viên nào cũng ưa nói về hiện tượng luận và lắm chuyện bí hiểm.
Trong khi đó, Đại Học Vạn Hạnh là một cõi rất thần thoại, rất thơ mộng, nơi của một cõi trời cao hơn các tầng mây của Thầy Minh Châu, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Ni sư Trí Hải... nơi của thơ và thơ. Vạn Hạnh cũng là nơi của công án, nơi tôi vẫn mơ hồ nghĩ rằng, mình bước vào thăm ngôi trường đó, nói lạc một chút là sẽ bị một thiền sư nào đó đánh cho 30 gậy liền (thực tế, tôi chưa đọc bản tin nào kể chuyện tương tự như thế, chỉ là lúc đó tôi tưởng như các trang sách Lâm Tế Ngữ Lục là một cõi rất thực trong sân trường này). Nhà văn Doãn Quốc Sỹ lúc đó cũng là một nhân vật trong cõi thần thoại Vạn Hạnh, đầy sương khói. Họ là thế giới rất là xa với tôi.
Chỉ tới nhiều thập niên sau, vào nghề báo ở hải ngoại, tôi mới thấy gần với tất cả các thế giới thần thoại trong cõi này, nơi đó có nhiều cơ duyên để tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, và nhiều vị khác. Thế rồi tôi đã gặp, đã nói chuyện, đã phỏng vấn, hay đã thân cận với rất nhiều văn nghệ sĩ, trong đó có Phạm Duy, Mai Thảo, Kiều Chinh, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Công Thiện, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Quang, Hoàng Quốc Bảo và nhiều vị khác nữa. Tôi cầm máy ảnh chạy theo họ và tôi viết tin về thế giới thần thoại của thiên đường văn học lưu vong này. Trong đó, nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một vị thần nổi bật: cụ lãng đãng như sương khói, khuôn mặt cụ ngây thơ như con nai ven rừng, và nụ cười của cụ làm tịch lặng tất cả mọi trầm tư của người đối diện.
Sau này đọc nhiều hơn, tôi nhận ra, nhiều nhà văn khác cũng nhìn về Doãn Quốc Sỹ như một nhân vật của cõi chư thần. Như trong tác phẩm Trái Cây Đau Khổ, một truyện-kịch của Doãn Quốc Sỹ ấn hành năm 1963, Lời mở đầu của Thanh Tâm Tuyền ghi rằng, trích:
“...nhân vật của Doãn Quốc Sỹ là con người nắm chặt được hạnh phúc, bất chấp giao động tráo trở của Định Mệnh. Một nhà văn của cổ tích phương Đông! Bản chất không chấp nhận sự tàn nhẫn, anh viết kịch với những nhân vật hạnh phúc của anh. Và kịch trở thành thơ, một cuộc đối thoại triền miên, không dứt ngụp lặn trong thế giới của Thực và Mộng, quái gở và hồn hậu. Những cái thực được coi là Mộng và Mộng hóa thành Thực. Kịch rốt cuộc chỉ là cổ tích và thần thoại. Khi Doãn Quốc Sỹ dùng cặp mắt trong suốt và thơ ngây của mình để biến cõi Thực – anh đang phải sống, anh không chấp nhận và coi tính chất bi đát của nó chỉ là phù du trong sự vận chuyển vô cùng khoáng đạt của Vũ Trụ - thành những biểu tượng, vô tình anh đã vĩnh viễn hóa nó trong nỗi bi đát không cùng...” (ngưng trích)
Đó, nhân vật của Doãn Quốc Sỹ thơ mộng như thế đấy, chỉ là cổ tích và thần thoại. Thực tế, ngoài đời thường, cụ Doãn Quốc Sỹ cũng thần thoại và cổ tích y hệt. Hãy nghe lời kể của nhà thơ Đỗ Quý Toàn (bình luận gia Ngô Nhân Dụng) trong bài viết nhan đề “Doãn Quốc Sỹ - Thế Đấy!” trích như sau:
“Hồi đầu 1970 một nhóm sinh viên văn nghệ ở Sài Gòn mời nhà văn Doãn Quốc Sỹ tới nói chuyện. Tiễn ông ra về rồi, mấy phút sau thấy ông quay trở lại. Ông cười hề hề, hỏi có ai dùng xe gắn máy đưa ông về nhà được không. Tại sao? Ông cười khà khà: “Mất xe rồi! Ai nó lấy mất rồi!”
Cái xe “nội hóa” La Dalat ông vẫn lái đi giao những tác phẩm của ông và nhà xuất bản Sáng Tạo cho các tiệm bán sách. Cả một tài sản, và phương tiện mưu sinh cần thiết. Nó biến mất. Mà hồi đó ở Sài Gòn chắc không ai mua bảo hiểm để mất xe sẽ được đền! Mất xe, ông vẫn cười khà khà, như thể mới nghe ai kể một chuyện hài hước!
Cả đời Doãn Quốc Sỹ vẫn cười khà khà, mắt không trợn lên, lông mày không chau lại. Không để cái được, cái mất, cái may, cái rủi làm động tâm. Thường ai cũng muốn tu tập công phu để đạt tới trạng thái này. Hình như Doãn Quốc Sỹ sống tự nhiên như vậy, không hề cố gắng. Ông viết cuốn Vào Thiền, tái bản nhiều lần. Bị cộng sản bắt bỏ tù, vào trong tù ông ngồi thiền. Quản giáo bắt đi nghe gì thì đi. Có gì ăn thì ăn, lúc nào được ngủ thì ngủ. Bị bắt lần thứ hai, vẫn như vậy, lại ngồi thiền. Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay, vững như núi đá.” (ngưng trích)
Thế là cụ an nhiên y hệt trên mây rồi. Nhân vật trong truyện của cụ Doãn Quốc Sỹ là cổ tích thì dễ hiểu, nhưng trong khuôn viên đại học và trong lao tù mà vẫn sống được như chuyện cổ tích thì quả là hy hữu. Một bài viết nhan đề "Dọn Dẹp Tạp Niệm" của Doãn Tư Liên, con gái cụ Doãn Quốc Sỹ, có đoạn đối thoại với cụ, trích như sau:
"Có lần con gái hỏi Cụ: - Bố, giữa khuya bố còn ngồi thiền như thuở trong tù không?
- Không con. Lúc nào bố chẳng hành thiền. Đâu cần phải ngồi đâu!
- À, thì ra thế.
Thôi thì cụ già 100 tuổi mà vẫn đi đứng, nằm ngồi mà không cần người trợ giúp." (ngưng trích)
Trong tác phẩm “Vào Thiền” của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, tôi đặc biệt là nhớ tới hình ảnh dòng sông và que diêm, do cụ Doãn viết về đời người, xin trích:
“Dòng đời như dòng sông, không một sát na nào ngừng trôi chảy. Nô lệ cho lý trí đơn thuần ham cắt xén thì chỉ thấy được cái ngưng đọng, cái chết. Những khái niệm con đẻ của lý trí chật hẹp và khô cứng kia làm sao chụp được dòng thực tại không ngừng triền miên trong thế tương sinh tương lập - đối tượng của thiền! Mỗi chúng ta là một que diêm sống! Không ai sống hộ ta, ta phải tự sống lấy, tự chiêm nghiệm lấy Thiền. Que diêm khi tắt đi, chút khói xanh để lại. Rồi chính chút khói xanh đó cũng tan loãng nốt và biến hẳn-như vết chân cát xóa! [...] Nói đến Thiền là nói đến không tâm. Nhưng đừng quên phần đi song hành với không tâm là diệu hữu. Bởi vì nếu chỉ đơn thuần có không tâm thôi, thì đó là ngoan không cái không trống rỗng, không có gì!” (ngưng trích)
Và nơi đây, xin chép lại hai câu đối của Phan Tấn Hải thành kính viết mừng cụ Doãn Quốc Sỹ tròn 95 tuổi vào năm 2018:
Mang gươm giới định huệ, đi tới cùng trời cuối đất
Phá trận tham sân si, viết để Giữ Ngọc Gìn Vàng...
Độc giả có thể tìm đọc thêm ở trang https://www.doanquocsy.com/ nơi đang lưu giữ nhiều bài viết, tác phẩm, hình ảnh của nhà văn Doãn Quốc Sỹ và nhiều nhận định từ nhiều nhà văn khác. Và đó cũng là nơi bạn sẽ bước vào thế giới thần thoại của một nhà văn rất độc đáo.
PTH
 

Saturday, October 25, 2025

THƠ BÙI GIÁNG

Mắt buồn
 
Nhà thơ Bùi Giáng. Đinh Cường vẽ
 
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Âm trang sử lịch thu triền miên trôi
 
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
BG 

Sunday, October 19, 2025

MÙA THU. ĐỌC THƠ NGUYỄN XUÂN THIỆP

Nguyễn Thị Khánh Minh giới thiệu
 
 

 
             Gió thổi. chiều xanh trôi với nắng…
 
            Ánh trăng. chảy vàng trăm cửa sông…
 
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”.
 
Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
 
Hiện nay, nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, ở vào tuổi trên tám mươi, đang sống và viết tại thành phố Dallas, Texas. Ông phụ trách trang blog Phố Văn, và vẫn là một trụ cột trong ban biên tập báo Trẻ ở Texas.
 
Xin giới thiệu một số nhận xét về ông:
 
Nhà văn Tô Thẩm Huy:
“Thảo Nguyên là một trong các bài thơ in trong tập Tôi Cùng Gió Mùa.  Tôi đã gặp và yêu mến hồn thơ Nguyễn Xuân Thiệp qua tập thơ ấy, cách nay dễ đã hơn hai mươi năm.  Tôi không nhớ đã nói những gì trong dịp ra mắt tập thơ ấy ở Houston năm 1999.  Nhưng ý tưởng xích tử chi tâm, tấm lòng son đỏ tinh khôi, cùng với hình ảnh con chim cardinal màu đỏ oai vệ từ buổi ấy đã tô đậm trong đầu tôi bóng dáng ông như một kẻ sĩ trong những kẻ sĩ cuối cùng đang sống ở thời đại chúng ta, bóng dáng một hồn thơ thiên cổ giữa trời thơ hôm nay.”
http://www.gio-o.com/NguyenXuanThiep/ToThamHuyToiCungGioMua2.htm
 
 Nhà văn Nguyễn Mạnh Trinh:
“Thơ của ông trầm lắng, không phải là những suy tư xốc nổi mà là những giọt nước thuần khiết nhỏ xuống từ những mạch ngầm tưởng như thinh lặng mà ngầm chứa những xao động như sóng cuộn ở tâm tư. Đọc thơ về thời kỳ tù ngục lưu đầy đã qua của Nguyễn Xuân Thiệp hay đọc thơ Thanh Tâm Tuyền tôi đã hiểu được sự nâng niu nghệ thuật và thái độ sống thực viết thực của kẻ sĩ Việt Nam trong cơn biến động của lịch sử… https://sangtao.org/2018/05/29/tu-toi-cung-gio-mua-den-tan-man-ben-tach-ca-phe/
 
Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ:
Thi tập “Tôi Cùng Gió Mùa,” một chặng đường khá dài của đời thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Khi tôi ngồi gõ phím những giòng chữ nầy, bài thơ “Nhịp Bước Mùa Thu” của thi sĩ đã vừa tròn 60 năm tuổi, nhưng bài thơ dường như vừa mới ráo mực ngày hôm qua, vẫn tươi rói âm vang và sắc màu, vẫn dội vào tâm thức tôi niềm rung động khôn tả. 43 bài thơ, trải dài trên 44 năm nước chảy qua cầu (tính từ bài thơ đầu tiên, viết năm 1954 đến bài thơ cuối cùng viết năm 1998, trong thi tập,) cho thấy, thi tập, với số lượng thơ rất chắt lọc, cẩn trọng, nhưng vẫn cho người đọc cảm nhận được một nội lực thơ có sức hàm dưỡng sung mãn, thâm hậu. Bản giao hưởng thơ “Tôi Cùng Gió Mùa” chắc chắn sẽ còn vang vọng sâu xa trong tâm hồn người đọc, trong dặm dài năm tháng mai sau… Một giọng thơ rất riêng. Một phẩm cách thi sĩ rất riêng. (http://www.trietvan.com/thanhuu/giaohuonggiomua.htm)
 
Nhà thơ Vũ Hoàng Thư:
Tháng tư đọc lại thơ Nguyễn Xuân Thiệp để thấy cơn ngiệt ngã là tố chất nuôi dưỡng nhà thơ đứng dậy, càng lúc càng lớn, vượt trội những nhỏ nhoi rừng rú của cái ác ngự trị trên quê hương sau 1975. Tập thơ “Tôi Cùng Gió Mùa” ra đời đã hơn 19 năm, vẽ lại hành trình của kẻ sĩ miền Nam đi vào nơi gió cát. Có dập vùi và thống khổ để cuối cùng hiện ra ở cuối đường hầm như một một kiếm sĩ bất khuất.
Và gió mùa. Gió mùa với quê hương mình như là một. Những ai sinh ra trên dải đất hình chữ S ấy mà không lớn lên với từng cơn gió mùa? Gió mùa như lẽ sống, như định mệnh của nước. Tôi cùng gió mùa hiển nhiên xác định tôi theo cùng với vận nước nổi trôi nếu ta mượn lời của Phạm Duy. Đã bao gió mùa thổi qua quê hương nhỉ. Trong cách thế nào đó, gió mùa trong hồn thơ Nguyễn Xuân Thiệp làm hai nhiệm vụ, một ước vọng bão cuồng để dập tắt ngọn lửa hỗn mang của lịch sử mà đồng thời cũng để hất tung những chật hẹp của lòng. https://sangtao.org/2017/05/25/nguyen-xuan-thiep-gio-mua-da-quy-va-nhung-dau-cham/#more-96072
 
Nhà thơ Trần thị Nguyệt Mai:
Tâm hồn thi nhân lồng lộng. Không một lời oán than, trách móc. Bởi ông vẫn tin rằng: “chiếc roi bạo lực chẳng thể vung hoài trong gió” (giả sử. mai ta về). Chỉ mong sau cơn mưa khổ nạn, một ngày được trở về nơi căn nhà gỗ bên đồi để: đọc lại cổ thi và cựu ước/ hát khúc kinh vui/ gởi loài người khắp nơi trong cõi gió… hết rồi. thời quỷ mị
đời hân hoan. gió gọi ta (Mưa ở đây như mưa ở quê nhà- Tôi Cùng Gió Mùa)
https://sangtao.org/2020/09/23/mua-trong-tho-nguyen-xuan-thiep/#more-127645
 
Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh:
Chúng ta quá cần thiết văn chương nghệ thuật trữ tình để phục sinh Chân Thiện Mỹ, để chói lọi cái đẹp của nhân tính xua tan đi bóng tối quỷ ma. … Với cảm ứng riêng của tôi, thơ văn của Nguyễn Xuân Thiệp đã toát ra xán lạn một trong ba mỹ đức trên: Tình. Có Tình và, có Trí mới biện biệt được thiện ác của nhân sinh để sống chan hòa Tình, có Dũng thì mới can đảm bảo vệ, rao giảng Tình, và được sống có Tình. Phải hội đủ Tình Trí Dũng mới có thể làm thơ, được, như thế, trong cõi đời nhiễu nhương vô cảm này…
https://sangtao.org/2013/07/21/bat-chot-tho-nguyen-xuan-thiep/
 
Mời bạn đọc đọc bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu và hai bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Tôi Cùng Gió Mùa. Nguyễn Xuân Thiệp viết khi đi qua Nghệ Tĩnh sau 5 năm trong tù tập trung. Hai bài thơ ngoài giá trị văn chương còn mang dấu ấn lịch sử một thời biến động của miền Nam Việt Nam. Một tiếng thơ đẹp, bi hùng, rất trữ tình, và hiếm quý trong dòng thơ Việt Nam, kể từ 1954. Theo thiển ý tôi, tập thơ này xứng đáng làm một đề tài để trình luận án nghiên cứu về văn chương và văn học Việt Nam.
 
 
NHP BƯỚC MÙA THU
 
sáng nay. tôi lắng bước mùa xưa
chim nhỏ. năm nao. rộn khóm dừa
sông chớm đôi bờ thu quạnh quẽ
đường dài. son đỏ. quán lau thưa

nhà ai. phơi áo. ngoài hiên gió
nắng tắt trưa qua. lạnh bến chờ
cây ố. sắc tường. vương phủ ấy
trẻ nghèo. nhặt lá. ngói rơi. hư

nghìn mùa. sương khói. dậy âm vang
lộp bộp. hiên sau. trái rụng vàng
bóng sậu. kêu qua bờ mía dại
xa nhau. mùa thu. mưa trong trăng

em đi. nhịp bước dạo đôi mùa
áo biếc. chìm trong dáng núi xa
trống lẻ. trường bên. hờ hững điểm
hoàng thành vừa chợp giấc mơ trưa

thời đại xây trên lòng quá khứ
tiếng mùa. hốt gió. rắc ly tan
này em. nhìn lại nương cày cũ
mặt đất. âm u. bặt tiếng đàn
1954
 
 
Ánh Trăng
 
1.
chiều xanh. rơi một câu thơ cổ
màu ráng trời thoảng nét hoàng hoa
bông sậy lao xao lời trẻ dại
gọi ai còn lãng đãng bờ xa
 
trăng lên. ồ. một vầng hư tưởng
tuổi nhỏ cười nhô mặt nước xanh
đâu đó sông lam chừng trở giấc
rào rào muôn lượn sóng xô nhanh
gió. như chim ngủ trong tầng lá
phút chốc xôn xao dậy khắp cành
trăng sáng. bạn đường ai đó thức
nhìn trăng có nhớ một mùa xuân
 
trăng đã lên. ơi bầy thỏ nhỏ
khắp nơi ra đứng đón chào trăng
những em côi cút trong đời tối
những bé gầy teo không miếng ăn
những trẻ lang thang cùng cát bụi
ấu thơ ơi. tuổi sáng lên đèn
chạy qua đồng cỏ mừng trăng mới
soi xuống ao hồ vạt nước loang
tất cả đưa tay lên trời vẫy
vầng trăng. nối tiếp chuyện thần tiên
 
trăng lên. quả bóng xanh lồng lộng
lơ lửng treo trên mấy xóm nhà
ta đứng bồi hồi sau song cửa
nhìn trăng. ai thức hãy cùng ta
cùng ta uống cạn ly trà đậm
dẫu đắng còn thơm vị mật hoa
dẫu đắng như đời qua khổ nạn
còn đây đêm ủ mộng sơn ca
chút hương trời đất ngây ngây dại
quyện bước trăng đi rộng hải hà
 
trăng sáng. kìa ai nơi xóm cỏ
hong khô ngấn lệ thời gian chưa
dẫu cho thi sử đau vàng đá
thì cũng qua rồi theo gió đưa
trăng chiếu. những ai sầu goá bụa
khăn sô cắn giấu vành môi tươi
những ai trót sẩy đàn tan nghé
hãy đứng trông trăng sáng lại đời
những kẻ mù sâu đôi mắt tối
những hồn mê sảng lạc đôi nơi
trông trăng thấy bóng đèn hoa nở
soi áng gương xưa mặt rạng ngời
 
trăng đã về đây đêm xá tội
cõi vàng. cây tạ. nét bia phai
kía trông tận cuối trời thu xám
đêm tạnh. hồn nương bãi sậy dài
lều vắng. vệt trăng tìm lửa ấm
chồn hoang lang thang qua mồ gai
bằng hữu đem thân vùi cát bụi
tiếng tù và động giấc bi ai
này nghe nếp áo sông thu vỗ
hồn ơi hồn. nhập khúc trăng trôi
 
2.
vầng trăng từ dạo rời châu thổ
cuộc lãng du qua biết mấy trời
biển bắc con cá côn quẫy sóng
thiên thu còn dội tiếng bồi hồi
cửa sông thủy triều lên xuống gọi
người cưỡi trâu xanh đi biệt khơi
xây trên đá đền xưa vượn hú
ánh trăng soi di cảo của người
sa mạc xa tượng nhân sư rống
bão cát xô thế kỷ đổi dời
 
đời rộng. ta nằm nghe hiu quạnh
tiếng tắc kè gõ xuống ngói hư
tù trở giấc. đèn chong ngọn đỏ
thuở trăng qua trên nóc nhà mồ
về đâu. chuyến lữ hành rất vội
sân ga đã tắt tiếng còi chưa
vầng trăng đứng cuối đường ray. gió
những toa tàu. qua. khuất. lau thưa
thức trong cây. trái tim sầu úa
như trăng. người của thuở không nhà
 
trăng chiếu. thành không. hào lũy sụp
còn nghe sắt thép rền cỏ khâu
tỳ bà đá dựng. hồn u khốc
uổng ngọn cờ treo ải địa đầu
 
a kẻ sĩ cuồng nơi ảo phố
nằm đây lảm nhảm dưới đêm thâu
cửa đời bỗng gõ âm thanh lạ
trăng. bóng thiền sư về cổ lâu
nam ai. tưởng khúc sầu trăng lặn
lắng tiếng đàn tranh. dậy gió lùa
hỡi ơi. giữa cánh rừng săn bắt
ta chỉ nghe rền giọng sói tru
 
giữa cuộc bạo hành. cơn sốt dữ
nỗi đau này cháy vỡ thịt da
thử ngẩng nhìn trăng đêm phán xét
ai công. ai tội. dưới trời khuya
ai xô trăm họ vào gai gốc
ai hái dâng đời một đóa hoa
hãy xét trong cơn đau lịch sử
nỗi đau nào đau của riêng ta
áo quan chưa đóng. thời chưa hết
có kẻ cùng ta thức đợi chờ
nay dẫu đường đi đôi dặm khuất
trăng treo đầu ngõ. thấy quê nhà
 
nở cho ta. cánh đồng hoa cúc
vàng phới ánh trăng thu mùa sau
về hái đóa vô thường sót lại
nghe nghìn mùa vỗ cánh qua mau
 
3.
trăng đã lên cao. trời tĩnh lặng
không gian xanh màu nam hoa kinh
những cụm mây trôi từ hư huyễn
chờ ta đi hết cuộc lữ hành
đời ta biết mấy mùa xiêu lạc
biết mấy vầng trăng qua cỏ tranh
ôi những vầng trăng thời biệt xứ
trôi trong tâm thức. một dòng khuya
ta nghe nước khỏa bờ lau dại
có một vầng trăng đi trong mưa
có một vầng trăng hư mọc muộn
tóc ai còn vướng cánh đồng mua
khi trăng theo con đường đất đỏ
bước cheo leo. khúc khủy. ngựa thồ
ta thấy trăng soi đầm nước rộng
mùa thu. múa thu. im cành trơ
đêm tù. bạn đọc thơ đầu núi
tưởng chim rừng động ánh trăng xưa
gió mùa thổi lộng trên miền bắc
trăng rét căm căm vệt sáng mờ
ta thấy vầng trăng quầng khóe mắt
chiêm khê. mùa thối. cánh đồng thưa
trăng nghiêng xuống xóm làng dịch tể
qua gò trâu. giọng gió ru hờ
vầng trăng nào đứng trên đầu dốc
dậy tiếng tù đóng ván giữa khuya
một thuở trăng qua miền động đất
ngời ngời muôn sợi thủy ngân sa
nhìn qua đất rạn ta còn thấy
mảnh trăng trên đồi golgotha
 
4.
trăng đã khuya. và đêm huyễn tượng
bắt đầu từ một ánh chớp xa
dường như ở tầng sâu mê tưởng
hiển hiện rồi lời sấm ký xưa
những vạt mây từ trong cổ tích
rào rào theo trận gió nguồn mùa
như chim của một thời không sử
cánh rộng che hằng thế kỷ qua
như lũ thú hoang trên đồng cỏ
rộn ràng thức dậy dưới trăng khuya
ôi mây từ những cơn hồng thủy
biến hiện hoài lớp sóng ảo hư
trong biển. tuần du. trăng sáng mãi
cho rộng thêm đời nhân loại đi
 
ta nghe cuộc chuyển dời im lặng
những thời phủ rêu trong sử thi
bỗng dậy. bàng hoàng cơn sốt biếc
ta nghe gió rỉ siết qua mùa
ta nghe sấm dậy rền trong đất
những cuộc tương tranh máu lệ nhòa
thấy động ngựa xe. tầng khói phủ
những đoàn quân hạ trại trong mưa
những đốm lửa khuya nhòe nhoẹt nước
ôi mùi cháo ấm tỏa trên môi
đèn giăng trăm nến. biên thùy rộng
lầm lũi qua mau những kiếp người
 
5.
trăng cẩm thạch biển trời chợt hiện
mây lìa đàn. bay đi. mây trôi
hạo ca. biển rạng ngời tan hợp
trăng bỏ neo thôi. hải phận người
 
ta thấy giữa triều mây xao động
lệ ngân hà. tóc rũ sô gai
chia ly màu xám. sương và khói
lửa. thép. tro. than. những tiếng còi
ta thấy tàu đi. những đóm tía
chiếc hôn nồng. và lệ đọng môi
ngày vui sum họp. như hoa. nến
chia cách dài hơn gió chiến thời
cái chết im như niềm vắng mặt
trước sân con trẻ vẫn đùa chơi
ngày reo trong khóm tường vi nở
nghe thoảng đêm về. cánh nhẹ rơi
 
ta thấy. ôi. mây trời ảo biến
dưới trăng lấp lánh bãi hằng sa
đất ơi. nỗi lầm than muôn kiếp
nhân loại đi như những bóng mờ
nhân loại yêu đời trong cõi chết
vượt biên thùy. sa mù. và mưa
từng nơi đi dưới triền hoe nắng
gùi nặng. mang theo cả lợn gà
riêng lão già điên còn ở lại
đêm đêm. ra nhìn dòng sông. ca
 
6.
trăng khuya vằng vặc soi tâm thức
đêm tịnh. trời trong. gió lắng sâu
mây từng cụm nhỏ. trôi. trôi khuất
lũ vịt trời. ô. trăm ánh sao
 
trăng khuya như một loài chim quý
bay suốt nghìn năm hót một lần
dưới mái chùa tây vang tiếng kệ
vị sư già đã thức. chuông ngân
 
âm thanh như một làn hương sữa
chảy xuống hồn ta đã lặng dần
hạt lệ muốn rơi. giờ đọng lại
trăng nguyệt cầm ơi. ngọc mới đông
 
những cuộc chiến tranh dần dịu lửa
người về nghe câu chuyện dòng sông
reo vui ấm nước bên đồng cỏ
uống chén trà thơm. thức đợi trăng
 
giữa cuộc vui này ta có mặt
sao tâm xao xuyến những trời xưa
đếm sao. nào biết sao mờ tắt
trận bão mùa qua đã dứt chưa
 
về ghé lại cây đa quán dốc
thấy cọn trăng nằm phủ cỏ khô
trăng đợi chờ ai trên bến nước
hành nhân ơi. đã lỡ chuyến đò
 
trở về. những bảng nhà phai số
cánh cổng đong đưa. gió lọt rào
chợt tiếng người reo bên giếng nước
ai cười. như vỡ giấc chiêm bao
 
trở về vườn cũ khi mùa tới
trái ngọt trên cành má chín au
hỏi thăm. em đã yên ngoài nội
tấm ván mòn vẫn cạnh bờ ao
 
về lượm trái thông khô rớt vãi
nhặt cành cây mục. lá thu. phơi
đốt lên đống lửa. đêm ngồi sưởi
lúc ngó quanh. nào thấy có ai
 
người về bên gốc thông già cỗi
thuở nhỏ thuờng ra đứng ngắm trăng
cúi nhặt dưới chân viên ngói vỡ
thấy đời còn những tấm gương tan
 
nhưng thôi. nhân loại vui vầy cả
yêu cuộc đời trong lẽ bất toàn
chút nghiã thủy chung ta giữ vẹn
lòng ơi. trải rộng gió nhân gian
 
trong khuya. nghe một bông quỳnh nở
phiến lá ngời vàng óng búp trăng
hương biếc chạm vào trang sách quý
mở ra thôi. ước cũ hàng hàng
 
dưới trăng. những mảnh đời han rỉ
sáng lại. ô hoa đã rộ cành
nhựa ứa thân cây rào rạt chuyển
vườn xưa. chợt một tiếng ve ran
qua đêm. lớp trái cây dần chín
chín đỏ lòng ai giấc mộng thường
mai sau. ôi những mùa đang tới
khép mi. trong một chút hương trà
lòng ta. một ánh trăng trong suốt
trên những nẻo đường nhân loại qua
bên bữa ăn xanh người đạo sĩ
những buồn vui của khắp mọi nhà
 
trăng khuất. nhưng mùa sau lại mọc
loài người ơi. nghe tiếng võng đưa
lên cao. thấy một vầng trăng ngọc
xuống thấp. còn trong giấc ngủ mơ
soi bóng thời gian. hồ nước tịnh
đông phương này. đêm ủ mật hoa.
1980
 
 
THO NGUYÊN
 
mùa hạ. ta qua vùng thảo nguyên
gió thổi. chiều xanh trôi với nắng
khoảnh khắc. vầng trăng bạc nhú lên
cánh chim theo trăng vào trời rộng
nhà ai. đèn lồng soi trước hiên
nhủ thầm. nhà ta sau hàng phượng
ta đi năm năm qua thảo nguyên
cảm ơn phút giây đời giao hưởng
 
mùa hạ, ta qua vùng thảo nguyên
bước nhẹ tênh. quên thời khổ hạnh
mê con chuồn chuồn đỏ bay ngang
thương bầy dê con trên đồi vắng
gặp trẻ chăn bò đi hát rong
gặp ấu thơ ta. mùa hạ sáng
đời trôi đi. tưởng đời lặng câm
bỗng tiếng đàn ai trong gió thoảng
 
hỡi bé lang thang vùng thảo nguyên
như ta ngày xưa. thời thơ dại
áo vắt vai. đi qua rừng sim
lội trong cỏ may ngập đầu gối
biển cỏ mênh mông. sóng dập dờn
hò ơi. dong thuyền về bến đợi
cho ta theo nhé. về đêm nay
đêm trong nhà xưa. đêm mát rợi
xin bát canh rau. ăn rất hiền
chong ngọn ngọn dầu. mẹ dệt vải
đọc chuyện thạch sanh. lòng hân hoan
có khi mơ được làm thằng cuội
trong giấc ngủ mơ không thấy tiên
chỉ thấy vườn xưa. cây chĩu trái
tan mơ. mở cửa ra nhìn sao
muôn ánh sao mờ. dòng lệ chảy
đêm khuya. rì rào trong cây xanh
nghe bên láng giềng gà tre gáy
sáng mai. ta bước ra ngoài sân
nhìn quanh hiên. rụng đầy hoa bưởi
 
năm năm. ta qua miền thảo nguyên
đến nay. vang vang mùa hạ gọi
mùa hạ cùng ta phơi áo biếc
bên hàng dâu rũ lá mong manh
 
mùa hạ cùng ta đi hài đỏ
qua cầu tơ liễu. nắng vàng trong
mùa hạ cùng ta che nón rộng
xuống đầm nước lục bơi thuyền sen
mùa hạ cùng ta thổi sáo trúc
diều ai lơ lửng mấy tuần trăng
mùa hạ theo ta vào nương bãi
chặt cụm mây vàng. hái mật ong
mùa hạ theo ta ra đầu núi
nhìn quanh. từng vạt khói bềnh bồng
 
năm năm. ta qua vùng thảo nguyên
nghe mơ hồ ngôi sao biếc gọi
 
cha đã đi qua vùng thảo nguyên
gió mùa xưa chuyển cơn giông lớn
vang thiên thu chớp bể mưa nguồn
nước vượt bờ. trùng khơi nước rộng
hồn cựu kinh. thấp thoáng ngọn rừng
đám lưu dân qua vùng châu thổ
chẳng tìm đâu thấy một xóm làng
thảo nguyên. tàn khuya không ánh lửa
trời mịt mùng. muông thú kêu hoang
cha đã đi qua vùng thảo nguyên
những năm ấy trời làm đói khổ
kẻ sống. người chết. đều trơ xương
lại thêm khắp bốn bề giặc giã
muôn oan hồn không chốn nương thân
phất phơ nơi đầu sông cuối bến
ngày gầy xơ. lất phất mưa phùn
đường bạch dương. chiều. không quán trọ
hành nhân. hành nhân. đêm thu phân
 
cha trở về trong căn nhà gỗ
trao cho ta chiếc gậy tìm đường
đêm uống trà khan. đọc thơ cổ
xót đời. qua một tiếng độc huyền
 
ta đi năm năm qua thảo nguyên
gậy trúc mòn khua kêu đá sỏi
nắng vẫn xanh trên ngọn bạch đàn
mùa hạ đi. nhưng thu chưa vội
ta. con chim hạc. trong thời gian
một đêm. cánh sa trên đồng nội
từ đó chung quanh đời bặt tin
chuông chùa tây phương không vọng lại
 
mai mốt. mẹ qua vùng thảo nguyên
me. ánh trăng vàng trong truyện cổ
lặng soi bên mặt nước hồ gương
đi lang thang qua hàng bia mộ
khi cúi nhìn một cụm hoa lan
thương ôi. mắt nhung xưa còn mở
 
mai mốt chị qua vùng thảo nguyên
như xưa. một lần về quê ngoại
ngày reo vui. vườn chim bay chim
long reo vui. reo tà áo lụa
chị gội đầu bằng nước hoa chanh
hương tóc bay sang. chiều vời vợi
chị ơi. mai qua vùng thảo nguyên
mang cho em một chùm nhãn chín
ôi. tình xưa. như nhãn và sen
dẫu tình phai khi chưa kịp hẹn
thì khuya sau. xin trăng hạ huyền
tiếp truyền đi những lời non biển
 
mai mốt em qua vùng thảo nguyên
tìm nhau. trăng đã về động cổ
tìm nhau. tìm nhặt chiếc khăn rơi
tìm nhau. khi qua đình ngả nón
tìm nhau. khi qua cầu áo bay
tìm nhau. đến phai hương tàn lửa
vị quế nồng. nghĩa nặng tình sâu
thì em nhé vào ngàn thăm hỏi
lão tiều phu. đốt bãi cháy bờ
gã chăn ngan. kêu ngoài lau sậy
hỏi thăm từ con hươu con nai
hỏi thăm giọt mưa và ngọn lá
bởi có ta. trong mỗi hạt sương
có ta. trong từng tia nắng dọi
lời ta trong câu hát dân gian
kể lể chuyện buồn vui sớm tối
em gom về trao lại cho con
mai sau sông nối xa đời suối
chuyện của người là chuyện dòng sông
bình minh đến mở tung cửa biển
 
ta đi năm năm qua thảo nguyên
NXT
Nghệ Tĩnh, 1980

  

GIỚI THIỆU SÁCH

Văn Hc Press
22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978
email: vanhocpress@gmail.com • Facebook: Van Hoc Press
 
Trân trọng giới thiệu


THEO DẤU THƯ HƯƠNG II
Tạp luận
TRỊNH • Y • THƯ
 
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2025
 
Lời ngỏ:
Căn cứ vào nhan đề cuốn sách đang cầm trên tay, bạn đọc có thể đoán biết cuốn sách này là tiếp nối cuốn tạp luận Theo dấu thư hương xuất bản năm 2022 của tôi.
 
Quả đúng vậy, bởi nội dung cuốn sách vẫn là sự tiếp nối việc đọc sách trong ba năm qua của tôi, một hành trình, đúng hơn, một thói quen tôi gìn giữ được qua bao năm tháng. Trong Lời ngỏ của cuốn sách trước, tôi có sử dụng một trích ngôn của văn hào Gustave Flaubert: “Hãy đọc sách để mà sống!” Nhưng tại thời điểm này, tôi muốn thay vào đó bằng câu nói: “Hãy đọc để biết mình chưa chết”, để quên đi tất cả những điều nhiếu nháo ngoài kia và cả trong lòng, để yêu quý sự cô đơn.
 
Thi hào Octavio Paz của xứ Mexico từng nói, “Chỉ con người mới biết cô đơn.” Đọc sách, như một thái độ đối với cô đơn, không hẳn chỉ đơn thuần là thú vui hay hoạt động trí tuệ, mà còn là sự định hướng nội tâm có chủ đích, một phương cách khẳng định bản thân, chứ không phải trốn tránh thực tại hay tự cô lập. Đọc sách cho tôi cái thú được cô đơn nhưng tôi không cảm thấy cô độc, như văn hào Hemingway từng nói, “Không có người bạn nào chung thủy như một cuốn sách.” Cuốn sách luôn là người bạn đồng hành thân thiết. Tiếng nói của tác giả, người kể chuyện và các nhân vật trở thành những người bạn đồng hành xuyên thời gian và không gian với tôi. Marcel Proust cũng từng nói rằng đọc sách là “phép màu hữu ích của sự giao tiếp giữa cô đơn.” Vì vậy, cô đơn không hề trống rỗng, nó được lấp đầy bởi sự hiện diện của những người khác thông qua sách.
 
Đọc sách đích thực – đọc chậm rãi, suy ngẫm, đắm chìm, và sau đó viết xuống những ý tưởng của mình về cuốn sách – thường đòi hỏi sự cô đơn. Chính trong sự cô đơn, tâm trí có thể nán lại, đặt câu hỏi và tìm ra ý nghĩa. Hình thức cô đơn này không phải sự rút lui tự cô lập, càng không phải sự tự hủy bản ngã, mà là sự gắn kết sâu sắc giữa bản thân với thế giới. Trong một thế giới phi lý luôn bị khuấy động bởi vô vàn điều vô nghĩa, đọc sách trở thành một hành động tĩnh lặng, kháng cự. Nó thể hiện một thái độ phản kháng đối với không-thời-gian; ý nghĩa của nó đằng sau là “Tôi chọn sự tĩnh lặng, tôi chọn không bị cuốn đi.”
 
Đọc sách còn là cuộc đối thoại với chính mình. Trong cô đơn, đọc sách có nghĩa là tự phản chiếu. Những con chữ trên trang giấy khơi dậy những suy nghĩ, ký ức và cảm xúc, mời gọi người đọc bước vào một cuộc đối thoại nội tâm. Đây là lý do tại sao tôi luôn tìm sách để đọc trong những thời điểm khó khăn như hiện đang vướng phải ở buổi hoàng hôn đời người; nó giúp tôi hiểu rõ hơn trải nghiệm nội tâm.
 
Sự cô đơn của việc đọc sách trở thành chất xúc tác cho việc định hình và tái định hình đời sống nội tâm. Đọc sách cũng khiến bật lên những khía cạnh triết học, đặc biệt là sách văn học và triết học, bởi nó giúp chúng ta tiếp cận với những câu hỏi hiện sinh như cái chết, ý nghĩa cuộc sống, tình yêu, sự vong thân. Tính cách đối đầu này chỉ có thể xảy ra trong một tâm trạng quán chiếu cô đơn; nhưng nó giúp ta đối mặt không phải trong tuyệt vọng, mà trong sự thấu hiểu lẫn nhau. Tóm lại, như một thái độ đối với cô đơn, không phải đối đầu lại mà hòa nhập vào, đọc sách không chỉ là hành động đơn độc mà là cách sống trong cô đơn một cách có ý nghĩa. Nó biến cô đơn thành kết nối, dửng dưng thành suy ngẫm, và im lặng thành đối thoại.
 
Như đã thưa trong Lời ngỏ của tập sách trước, tôi không phải con mọt sách, cái đọc của tôi giới hạn lắm, vì tôi chỉ đọc những gì tôi thích, và thích nhất là đọc sách của bằng hữu văn chương. Hai người tôi luôn quý mến và quý trọng trong suốt nhiều năm qua là nhà văn Ngô Thế Vinh và nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Cả hai đều có chỗ đứng rất riêng trong cõi văn, cõi thơ của mình, và giữa họ với tôi có mối giao tình rất quý. Bởi thế chẳng có gì ngạc nhiên tôi dành khá nhiều câu chữ ưu ái trong tập sách cho hai vị ấy.
 
Ngoài ra, tôi cũng dành nhiều tình cảm tốt đẹp cho các nhà văn, nhà thơ khác như Đỗ Hồng Ngọc (tức Đỗ Nghê), duyên, Lê Chiều Giang, Vũ Thư Hiên, Khuất Đẩu, Nguyễn Đức Tùng. Các tác phẩm của họ đã để lại dấu ấn rất lớn trong trái tim tôi.
 
Riêng trường hợp nhà văn Khuất Đẩu thì là cái duyên, bởi tuy nghe danh tiếng ông từ lâu nhưng tôi chưa bao giờ có duyên đọc trọn vẹn một tác phẩm nào của ông, và cũng chưa từng một lần gặp gỡ. Thế rồi tình cờ tôi được một người bạn cho mượn tập truyện của ông, và tôi đã nghiền ngẫm đọc để có bài viết trong cuốn sách. Khi bài viết xuất hiện, ông đã biên cho tôi một lá thư viết tay chí tình. Điều đó khiến tôi ấm lòng, vì biết tuy xa cách cả một đại dương nhưng vẫn có thể có những tâm hồn cùng chia sẻ với nhau về những điều gì đó trong cuộc nhân sinh.
 
Tôi cũng thích đọc sách lịch sử, nhưng chính những chuyện xảy ra bên lề lịch sử hay bị chính sử gạt sang một bên, bôi xóa, bóp méo, khiến tôi cảm thấy thôi thúc muốn nói lên cảm nghĩ của mình. Kết quả là những bài viết như Sự lãng quên, Tiếng nói như là kết nối giữa hiện tại với quá khứ.
 
Đặc biệt trong tập sách này, ngoài những bài viết về văn học nghệ thuật, tôi có hai bài viết về khoa học kỹ thuật. Điều này không lạ, bởi thời sinh viên, tôi theo học ban Khoa học, và sau khi ra trường, tôi lăn lộn gần như suốt cuộc đời đi làm kiếm cơm trong các tập đoàn công ty công nghệ điện tử cho đến khi về hưu gần đây. Khoa học, nhất là Vũ trụ học, vẫn là đề tài cho tôi tìm đọc hằng ngày.
 
Từ năm 2021, tôi cộng tác với Việt Báo Daily News, một cơ sở báo chí của cộng đồng người Việt hải ngoại tại Miền Nam California, với bút danh Trịnh Khải Nguyên-Chương. Trong số những bài báo có tính cách thông tin, tôi chọn ra được vài ba bài đắc ý để in chung vào tập sách.
 
Nói chung, tập sách không có một chủ đề nhất quán, thậm chí, nó là khá lan man, từ chủ đề này nhảy sang chủ đề khác một cách tùy tiện, tùy hứng. Nhưng nhờ vậy, theo tôi, nó đỡ nhàm chán, vốn là một trong những lý do chính khiến người đọc ngày càng ít đi.
 
Với cuốn sách, tôi hy vọng tạo được nhịp cầu thông cảm giữa tôi và bạn đọc. Một lần nữa, tôi xin bày tỏ lòng tri ân đến tất cả những tác giả có trong tập sách, đã cho tôi nguồn cảm hứng viết những dòng chữ này.
 
TRỊNH Y THƯ
(2025)
 
Sách có bán trên BARNES & NOBLE
294 trang, bìa mềm, 5.5” x 8.5”, giá bán: US$20.00
Xin bấm vào đường dẫn sau:
https://www.barnesandnoble.com/w/theo-dau-thu-huong-ii-trinh-y-thu/1148217340?ean=9798319699602
Từ tìm kiếm: theo dau thu huong II, trinh y thu
Hoặc liên lạc với tác giả / NXB qua địa chỉ email sau
để mua sách có chữ ký của tác giả:
trinhythu@gmail.com
vanhocpress@gmail.com

 

 

 

 

  

Saturday, October 18, 2025

UKRAINE TO PEACE

Duyên thực hiện

Ukraine, 2021
acrylic on canvas, duyên
 
Ukraine to Peace, 2022
 acrylic on canvas, duyên