Trần
Thị Nguyệt Mai
Đỗ Hồng Ngọc. Tác phẩm
Khi
giúp thực hiện tạp chí Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc phát hành vào
tháng 5-2024, tôi đã được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho hay có nhà xuất bản và cả độc
giả đề nghị ông viết “hồi ký”. Chẳng hạn như anh Nguyễn Hiền Đức, người độc giả
đặc biệt quý mến ông, đã đánh máy và tặng lại bộ sưu tập những bài viết của
ĐHN, có lần tỏ bày: “... tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được
đọc Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến
Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy.
Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là
cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ
rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc
giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.”
Nhưng
cuối cùng, ông đã không viết hồi ký, mà chọn cách viết “Chuyện Hồi Đó” được nói
đến trong Chương 1, “là những chuyện xưa, tích cũ, kể lại bởi một người có tuổi,
già khú, có thể trong một buổi “trà dư tửu hậu” cùng bạn bè... Nó không phải là
một sáng tác, một ghi chép (ký) theo thời gian. Tôi chỉ “nhìn” tôi một chút, rồi
nhờ người khác nhìn tôi…
Tôi
chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp, suy tư, học hỏi.
Tôi
tri ân những con người, những vùng đất…
Tôi
muốn người đọc không vì tò mò.”
Nếu
“Tôi Học Phật” thu tóm con đường Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, “Ngôn Ngữ số đặc biệt
Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc” nghiêng về phần văn chương của ông thì “Chuyện Hồi Đó”
chia sẻ cuộc đời của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc từ lúc cất tiếng khóc chào đời ở nhà bảo
sanh Cô mụ Bé, dưới chân cầu sắt Phan Thiết vào một ngày tháng 8 năm 1940 (Canh
Thìn) cho đến tuổi về chiều.
MỘT
CHÚT VỀ ĐỖ HỒNG NGỌC
Bạn
sẽ được biết về thời thơ ấu hồn nhiên hạnh phúc của ông bên ba má trong rừng
già Hàm Tân, ngày được vui chơi trong khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, và đêm
thì tuyệt diệu với những lúc văn nghệ ngoài trời mà chú bé ĐHN cũng là một
thành viên biết ca hát, diễn kịch. Năm 8 tuổi, chú “được gởi vào học ở một trường
đạo, gần nhà thờ trong rừng sâu. Thỉnh thoảng máy bay tới thì thầy trò chạy xuống
suối trốn”... Học đến lớp ba trong rừng, và cứ học đi học lại lớp ba mãi vì
không có lớp lớn hơn. Đến khi cha mất (1952), mẹ ông đưa 4 con, lớn nhất 12 tuổi
(là ĐHN) nhỏ nhất 6 tháng, về tạm ở nhà Ngoại, rồi về Phan Thiết, ở nhà cô Hai
trong chùa Hải Nam để có dịp chữa bệnh cho các con và cũng để cho chúng ăn học.
Trong thời kỳ rất cơ cực này, ĐHN “bệnh triền miên vì sốt rét, suy dinh dưỡng nặng
(12 tuổi mà chỉ cân nặng 25 kg!), vài ngày lại đi đò qua nhà thương thí chích
thuốc. Nhà báo Nguiễn Ngu Í là em họ của mẹ ông (chị em con cô cậu ruột), từ
Saigon về chùa thăm, thấy cháu thất học, nên dẫn tới gởi cho học ở trường Bạch
Vân của người bạn là cô Hồ Thị Tiểu Sính, con gái ông Hồ Tá Bang, một nhà cải
cách duy tân Việt Nam thời cận đại. Và cũng chính nhờ ở với cô Hai, người thích
đọc sách đã nhờ cháu Ngọc đi mướn về cho đọc đã tạo cho chú bé ĐHN vốn tích lũy
văn chương khi chú lén đọc hết cuốn sách dọc đường đi, thậm chí còn tóm tắt nội
dung, các nhận xét của mình vào một cuốn vở học trò, dù bị cấm “vì con nít đọc
truyện không tốt, mê, bỏ học”.
Năm
1954, ông học lớp Đệ Thất Phan Bội Châu (Phan Thiết) thì qua năm 1955 Lagi trở
thành thủ phủ của tỉnh Bình Tuy mới lập. Lúc đó, gia đình cô Hai và gia đình
ông quyết định dời về Lagi là quê cũ của họ hàng phía nội, khiến ông phải nghỉ
học thêm 3 năm nữa vì Lagi chưa có trường trung học. Nơi đây, mẹ ông có tiệm
bán hàng xén trong chợ Lagi (Chợ Mới) và ông trở thành một phụ tá đắc lực
chuyên đi Sài Gòn bổ hàng về cho mẹ bán để một hôm tình cờ bắt gặp cuốn Kim chỉ
nam của học sinh của Nguyễn Hiến Lê bày bán “xôn” trên vỉa hè. Lật xem vài
trang thấy thích, chú bé ĐHN mua ngay và “cuốn sách nhỏ đó làm thay đổi đời
chú”. Chú viết thư cho tác giả trình bày hoàn cảnh thực tại của mình phải bỏ học
nhiều năm và xin ý kiến về việc có nên học nhảy lớp không? Được ông NHL khuyến
khích, chú ‘thực hành theo hướng dẫn của sách, lập chương trình học ôn, ‘học nhảy
lớp’ để đuổi kịp bạn bè. Thấy con học được
và cũng nhờ bà con khuyến khích, năm 1960, mẹ ông đã đồng ý cho con “du học”
Saigon. Không phụ công và lòng mong đợi của mẹ, cuối năm Đệ Nhất (1962) tại trường
Võ Trường Toản Saigon, họ Đỗ được lãnh phần thưởng Danh dự toàn trường và đậu
Tú Tài II dễ dàng. Một lần nữa, cậu Tú Ngọc lại tìm đến ông NHL để hỏi về lựa
chọn ngành nghề khi băn khoăn đứng trước ngã ba đường: Y khoa, Sư phạm hay Văn
khoa. Học giả họ Nguyễn đã cho lời khuyên thật tuyệt vời: “Cháu nên học Y, sau
này giúp gia đình, giúp bà con cụ thể hơn, và nếu học giỏi có thể dạy học và
khi hành nghề y chừng mươi năm, có kinh nghiệm sống, trải nhiều cảnh đời, nếu có
tâm hồn và năng khiếu thì sẽ viết lách được, vì không thiếu gì những thầy thuốc
là nhà văn như Tchekhov, Somerset Maugham, Cronin, Lỗ Tấn… ĐHN làm đúng như vậy
và ông đã nổi tiếng trên cả ba lãnh vực này.
TUỔI
THANH NIÊN & NGHỀ Y
ĐHN
đứng thứ tám trong số những người đậu khóa thi Dự bị Y khoa đầu tiên (Année
Pré-Médecine APM) (do trước đây chỉ cần đậu bằng PCB hoặc SPCN bên Đại học Khoa
học thì có thể vào học thẳng Y khoa) được tổ chức năm 1962 với cả ngàn người
ghi danh và tỷ lệ đậu chỉ vào khoảng 10%. Sau một năm học để lấy chứng chỉ APM ở
Đại học Khoa học, sinh viên mới chính thức bước vào Y khoa Đại học đường Saigon
học thêm 6 năm nữa. Ra trường, họ trở thành bác sĩ, và sau khi trình luận án sẽ
được cấp bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia. Bên cạnh đó, ĐHN cũng ghi danh học Việt
Hán bên Đại học Văn khoa và sau đó học Xã hội học tại Đại học Vạn Hạnh.
Ấn
tượng nhất khi vào năm thứ nhất Y khoa đối với ông là buổi Giáo sư Khoa trưởng,
Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, gặp gỡ các tân sinh viên đã nhắn nhủ: “Y khoa là một nghề
cao quý nếu ta muốn cao quý, cũng là một nghề thấp hèn nếu ta muốn thấp hèn.
Bác sĩ là một sinh viên Y khoa suốt đời. Trong khi hành nghề khó tránh khỏi đôi
lúc ân hận nhưng đừng bao giờ để phải hối hận.” Lời Thầy dạy đã theo ông suốt
cuộc đời.
Năm
26 tuổi, bị một tai nạn do bể kiếng gây cườm mắt dẫn tới mắt trái nhìn kém đi,
không sao mổ xẻ chính xác được, vả lại ông cũng không thích ngoại khoa, sản
khoa mà chỉ thích nhi khoa (Nội nhi), nên ông tập trung học về nhi khoa ngay từ
đó. Năm 1968-69 ĐHN là “nội trú ủy nhiệm” ở khoa 2B Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn.
Năm 1969, ông ra trường Y và năm 1970 nhận được văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc
gia sau khi trình luận án đề tài Bệnh Sốt rét Cấp tính ở Trẻ em dưới sự hướng dẫn
của GS Phan Đình Tuân cũng là Giám đốc BV Nhi Đồng SG. Năm 1971, ông về làm ở
Dưỡng Đường Nhi khoa Trần Bình Trọng Chợ Lớn, trước nhà thờ Chợ Quán, của Bs Trần
Văn Còn; đến năm 1973 lại trở về BV Nhi Đồng. Tại đây, ông đề nghị với Giám đốc
- GS Phan Đình Tuân - tổ chức ngay một bộ phận Cấp cứu ở Phòng Khám Ngoại chẩn
để cứu chữa kịp thời trẻ con bệnh nặng, khi ổn rồi mới đưa lên trại bệnh, tránh
nguy cơ trẻ tử vong do bị lạc vì BV quá rộng, không được đưa đến đúng nơi khám
kịp lúc. Đề nghị này được chấp thuận và ông được đề cử làm Trưởng Phòng. Theo
thời gian, Phòng Cấp cứu đã chứng tỏ được hiệu quả rất tốt nên ngày càng được
phát triển và về sau đã trở thành một Khoa quan trọng của bệnh viện Nhi. Ngoài
ra ông có 10 năm (1972 – 1982) giảng dạy tại trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia ở
Saigon mang những kiến thức y học lẫn cách ứng xử giao tiếp và cả bầu nhiệt huyết
trao truyền cho những “Cô Mụ” tương lai nên được học trò quý mến.
ĐHN
đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nhờ GS David Morley ở
Anh gởi tặng cuốn See how they grow, năm 1982 ông thực hiện một Biểu đồ tăng
trưởng, giúp trẻ khỏe mạnh, do chính bà mẹ theo dõi và săn sóc con mình, gồm gần
như toàn bộ những kiến thức Nuôi con khỏe, chỉ vào trong một phiếu nhỏ, thực hiện
được toàn bộ GOBIF mà ông đã Việt hóa thành BUSĂC (Biểu đồ tăng trưởng, Uống bù
nước khi tiêu chảy, Sữa mẹ, Ăn dặm, Chủng ngừa) rất tiện dụng. Do nghiên cứu của
UNICEF, “nơi nào có nhiều bà mẹ học lớp 5 thì tử lệ trẻ con tử vong thấp hơn
nhiều nơi bà mẹ ít học, hay mù chữ”, ông nghĩ “quan trọng nhất không phải là cấp
cứu giỏi, điều trị hay trên từng ca bệnh nặng của trẻ con mà phải nâng cao kiến
thức bà mẹ, bởi chính bà mẹ mới gần gũi con, chăm sóc con tốt nhất, tránh mê
tín dị đoan và biết phòng bệnh cho con...” Từ đó, ông viết các cuốn Viết cho
các bà mẹ sanh con đầu lòng, Nuôi Con, Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc, Những
bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em v.v… với lời lẽ đơn giản, hướng dẫn cụ thể với
nhiều hình vẽ…
Sau
khi dự Hội thảo của Thụy Điển tại Hà Nội về Primary Child Care (Chăm sóc Sức khỏe
Ban đầu cho Trẻ em) năm 1983, với phương pháp tiếp cận dựa vào Cộng đồng
(Community-based approach), ông về thực hiện một Chương trình Săn sóc Sức khỏe
Ban đầu (SSSKBĐ) cho trẻ em ở Phường 13, Quận 6, Tp HCM, một phường ven đô, nhiều
khó khăn thời đó, với sự hỗ trợ của BV Nhi Đồng. Sau 2 năm, đã có nhiều thay đổi,
qua hệ thống Nhân viên sức khỏe cộng đồng thực hiện tốt chương trình Giáo dục sức
khỏe, phối hợp với trường Phú Định, Y tế cơ sở… Rồi ông rời BV Nhi đồng về làm
Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông - Giáo dục sức khỏe Sở Y tế (1985-2005), tham
gia trực tiếp làm Trưởng ban Thư ký của Chương trình xây dựng mô hình SSSKBĐ
toàn diện của Sở Y tế với BS Dương Quang Trung chủ trì tại xã cù lao Hiệp Phước
huyện Nhà Bè từ năm 1986. Đây là một chương trình tổng hợp, với sự tham gia cộng
đồng, phối hợp liên ngành, và kỹ thuật học thích hợp, lấy phòng bệnh làm chính,
gắn liền sức khỏe với phát triển kinh tế xã hội của địa phương, ít tốn kém lại
có hiệu quả cao. Chương trình Hiệp Phước cũng góp phần nền móng xây dựng Trung
tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm
Ngọc Thạch nhằm đào tạo người thầy thuốc giỏi vừa Lâm sàng vừa Cộng đồng, gắn Sức
khỏe và Phát triển. Ngoài ra, ông còn là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại
học Y dược TP. HCM (1981-1995), và là Trưởng Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo
dục sức khỏe, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (1995-2008). Chức vụ cuối trước
khi nghỉ hưu là Cố vấn Bộ môn Y Đức – Khoa học hành vi, Đại học Y khoa Phạm Ngọc
Thạch, Tp. HCM (2008-2016).
CHÚT
VĂN CHƯƠNG CHỮ NGHĨA
Vốn
mê văn thơ và từ gene di truyền, ĐHN đã là một thi sĩ trước khi trở thành bác
sĩ. Có thơ đăng báo từ khi còn học trung học và khi học trường Y, ông cũng là một
thành viên của nguyệt san Tình Thương, tờ báo của sinh viên Y khoa Đại học đường
Sài Gòn (1964 – 1966).
Khởi
viết từ 1960, ông đã có bài đi trên các báo và tạp chí: Bách Khoa, Mai, Tình
Thương, Ý Thức, Tuổi Ngọc, Mây Hồng, Tuổi Trẻ, Phụ Nữ, Thanh Niên, Mực Tím, Áo
Trắng, Doanh Nhân Saigon Cuối Tuần, Sài Gòn Tiếp Thị, Kiến Thức Ngày Nay, Văn
Hóa Phật Giáo, Giác Ngộ, Từ Quang, Liễu Quán...
Ngoài
làm thơ, ông còn viết sách một loạt sách y học bằng lời văn chia sẻ, tâm tình,
dễ thấm vào lòng người, lại mang chất thơ, chẳng hạn, “Tới một tuổi nào đó, ta
quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như
chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…”, đã khiến học giả Nguyễn Hiến
Lê nhận xét: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ thì luôn làm cho ta ngạc nhiên một
cách thú vị”. Có thể kể: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò
(1972), Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng (1974), Chăm Sóc Trẻ Từ Sơ Sinh Đến
3 Tuổi (1978), Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Săn Sóc Con Em Nơi Xa
Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn
(1989), ...
Bên
cạnh đó, ĐHN còn có những cuốn tùy bút, tạp văn chia sẻ những tâm tình và trải
nghiệm của mình như Gió Heo May Đã Về (1997), Già Ơi… Chào Bạn! (1999), Thư Gởi
Người Bận Rộn I (2005) & II (2011), Chẳng Cũng Khoái Ru? (2008), Nhớ Đến Một
Người (2011), Ghi Chép Lang Thang (2014), Già Sao Cho Sướng? (2015), Một Hôm Gặp
Lại (2016)...
Ông
kể: “Tôi nhớ mình chưa từng học làm thơ. Lúc 16, 17 tuổi, tôi đã bắt đầu viết
những câu thơ “trời ơi”. “Thơ” nó cứ tự nhiên đến như thế. Như không thôi đi được.
Tôi không nghĩ thơ phải “làm” ra mà tự nhiên thơ tới. Nhiều khi không kịp viết,
không kịp nhớ. Hình như nó được hun đúc nuôi dưỡng tự bao giờ...” Bạn đọc sẽ được
thưởng thức những chia sẻ rất thú vị về thơ văn ĐHN qua các bài viết của Lê
Minh Quốc, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Đỗ Thị Thanh Nga, Phạm
Hiền Mây, Minh Lê, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Đức Tùng, Đỗ Trường, Trịnh Y Thư,
Thảo Nhiên, Phạm Bảo Kim, Trần Vấn Lệ, Phạm Chu Sa, Phan Chính, Ý Nhi đan xen
những tùy bút tâm đắc của ông: Nghĩ trong ngày 30 Tết, Nhớ Tiếng thu giữa
Boston, “Em đi mau kẻo trễ chuyến phà đêm”, Kể thơ trên xe lửa, Những ngày hưu
bận rộn...
NHỮNG
GẦN GŨI THÂN THIẾT
Nơi
đây ông đã ghi lại những thân tình riêng với Học giả Nguyễn Hiến Lê, Nhà báo
Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, Giáo sư Trần Văn Khê, Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, Bác sĩ Họa
sĩ Dương Cẩm Chương, Thầy Thích Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, cùng những chuyến đi
thăm thắng cảnh quê hương cùng bà con bạn bè quen biết ở Lagi, Phan Thiết, hay
Phú Yên, cũng như ngoài quê hương như xứ sở hoa anh đào, hay kangaroo, hoặc đất
Phật Nepal.
PHẬT
HỌC
BS
ĐHN tiết lộ, “Từ gần 30 năm nay, tôi “nghiền ngẫm” kinh sách và “thực hành” những
điều Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu với Bát Nhã Tâm Kinh, tôi lần
theo “đường dây” từ Tâm Kinh đến Kim Cang, đến Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Lăng
Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già, Hoa Nghiêm, Pháp Bảo Đàn Kinh… dĩ nhiên không thể
không học và thực hành con đường căn bản từ Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị
Nhân Duyên để chắt trong đó ra những then chốt cốt lõi và luôn luôn đặt những
nghi vấn, Tại sao? Có gì hay? Làm cách nào?... Ứng dụng thế nào vào chính bản
thân mình trong thời hiện đại, cách xa Phật đến hai ngàn sáu trăm năm...
Khi
về già, tôi học Phật cách khác. Mỗi kinh sách, bài giảng dài dòng, thêm bớt…
tôi chỉ học một câu, một chữ, một bài kệ và tự nghiền ngẫm, đặt câu hỏi, giải
đáp và thực hành trong đời sống hàng ngày. Con đường học Phật phải là con đường
an lạc, con đường “diệt khổ”, chớ nếu học Phật mà “khổ thêm” thì chắc học sai!”
Ông
đã xuất bản một số sách sau đây rất được bạn đọc hoan nghênh vì ông viết bằng
văn phong rất dễ hiểu, nhẹ nhàng và đẹp như thơ: 1/ Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm
Kinh Bát Nhã, 2003); 2/ Gươm Báu Trao Tay (về kinh Kim Cang, 2008) và bản dịch
Anh ngữ “Handing Down Precious Sword” của Diệu Hạnh Giao Trinh (2015); 3/ Thấp
Thoáng Lời Kinh (2012); 4/ Thiền và Sức khỏe (2013); 5/ Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc
(về kinh Pháp Hoa, 2014); 6/ Cõi Phật Đâu Xa (về kinh Duy Ma Cật, 2016); 7/ Thoảng
Hương Sen (2018); 8/ Bông Hồng Cho Mẹ và những cảm nhận học Phật (2022); 9/ Tôi
Học Phật (2023).
Trên đây chỉ là những chia sẻ rất tóm
tắt của “Chuyện Hồi Đó” của tác giả Đỗ Hồng Ngọc do Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt
Nam xuất bản và Phanbook phát hành trong tháng 8/2025 vừa qua. Sách được bán ở
các tiệm sách hoặc qua link:
https://tiki.vn/chuyen-hoi-do-do-hong-ngoc-phanbook-p278445353.html
TRẦN
THỊ NGUYỆT MAI
11.9.2025

No comments:
Post a Comment