Friday, July 18, 2025

CÕI VIẾT

Đặng Mai Lan
 
Đặng Mai Lan. Photo by Đình Đại

   Vài tháng thì có là bao, nếu nói về những cánh bay vùn vụt của thời gian. Vậy mà sáng nay nhìn lại nó, tôi tưởng chừng như mình đã rời xa nó, rời xa khung cửa này từ lâu lắm.
   Chỉ là một đốm sáng lung linh trong bốn khung kiếng đục. Những miếng thủy tinh mờ được ghép lại bằng những thanh sắt, kín bưng, không một khe hở, nên nhìn nó như bị cầm tù. Phần đáy thấp và mở rộng trên cao như một búp hoa. Nó đứng giữa trời, cũng chẳng khác gì một chiếc lồng chim được treo lơ lửng bởi những vòng sắt cong cong, uốn éo như những hoa văn họa tiết. Trong những ngày có mưa sương, cái ẩm ướt mù mịt đã khoác lên nó một vẻ đơn độc, hiu hiu một nỗi buồn. Nhưng với tôi, trong bất cứ thời tiết nào, cái đốm sáng có vẻ gì nhẫn nhục, an phận ngoài hiên đêm luôn mang đến cho tôi sự ấm áp, vỗ về. Tôi ngắm nó như một đứa trẻ ngắm chiếc lồng đèn đêm trung thu và tưởng tượng bao điều thú vị.
   Chỉ là một ngọn đèn, như những ngọn đèn tôi nhìn thấy khắp cùng. Những ngọn đèn in dấu qua bao nền kinh đô xưa cũ. Nó đã bắt đầu cháy lên và chìm tắt tự khi nào? Không bao giờ tôi biết rõ thời khắc đến và đi của nó. Tôi thấy nó mỗi tinh sương và nó đã âm thầm biến mất sau khi dẫn dắt tôi vào những suy tưởng miên man, một nơi chốn xa vời nào đó.
   Ánh sáng nhỏ nhoi nhưng bao trùm cả một ký ức mênh mông. Nó đã thắp sáng biết bao kỷ niệm trong tôi. Và cũng là nơi đã cất hộ tôi những con chữ. Những con chữ như tiếng nói có thể vang lên với tôi bất cứ lúc nào trong ngày, nhưng chỉ được viết thành lời vào buổi tinh sương, khi tôi nhìn thấy cái đốm sáng vàng vọt ấy. Nó nhắc tôi nhớ những ánh đèn leo lét nơi những quán hàng ở một khu chợ sớm, một sân ga vắng, hay một cổng trường cửa đóng mà tôi đã đi qua những ngày thơ ấu. Ánh sáng giăng giăng qua ngọn đèn khuya đêm xóm nhỏ, hay vàng ấm dịu dàng trong những quán cà phê một thời thanh xuân tươi đẹp.
   Nhưng có khi chính tôi là người kể chuyện với nó.
 
   Đọc và viết, những nhịp thở trong trái tim, những dấy động âm thầm trong não bộ. Tất cả những chìm khuất mơ hồ ấy lại hình thành một đời sống khác. Tôi đã sống với những khoảnh khắc sinh động, ảo diệu, xa rời thực tế. Tôi bay theo thời gian khi chậm khi nhanh, bay theo những cảm xúc. Nhưng trong cỗ máy thời gian, những nhịp đời đáng yêu ấy chỉ ưu đãi chiều chuộng phần hồn. Trong phần xác nó có những giới hạn hẳn hoi. Khắc nghiệt và lạnh lùng. Nó thay đổi cơ thể của một con người, ngay cả những phần nhỏ nhoi, mong manh, nằm sâu trong từng tế bào da thịt. Những thứ nhỏ nhoi có thể sai khiến, làm trì trệ hết ý chí nghị lực hoặc cắt đứt mọi thứ. Thứ thời gian thật đáng ghét! Nhưng quả tình tôi cũng may mắn, hình như nó có vẻ nương tay với tôi. Nó chỉ muốn tôi phải nghỉ ngơi, phải tạm quên những sinh hoạt thường nhật. Quên, không chỉ là những con chữ, câu văn trên máy điện toán cho những sớm mai thức dậy. Mà tôi cũng phải quên đi cả những dòng chữ trong những trang sách hàng đêm.
    Trước khi bác sĩ tìm thấy những thay đổi từ lớp võng mạc và đề nghị phẩu thuật. Những tiến bộ của y học sẽ giúp tôi phục hồi khả năng của thị giác mà thời gian đã làm suy yếu. Đây là một trường hợp rất bình thường, thường xuất hiện ở một số tuổi nào đó. Việc giải phẩu cũng dễ dàng nhanh chóng. Nhưng tôi ngờ cái màng nhỏ bé mỏng manh trong vùng mắt có một sức mạnh vô biên. Có phải từ nguyên nhân này, mà khoảng thời gian trước đó tôi cảm thấy mệt mỏi, buồn chán, chẳng còn tha thiết chuyện viết lách, đăng đàn. Tôi muốn ngừng nghỉ. Tôi chán những gì tôi viết. Tôi đã cất đi những cuốn sách đã xuất bản vào tủ sách thay vì để ở bàn đêm trong phòng ngủ, thỉnh thoảng cầm lên ngắm bìa, ngắm chữ. Tệ hơn nữa, tôi không còn tha thiết gửi email thăm hỏi bạn phương xa dù những vui vầy cùng bạn vẫn thỉnh thoảng trở về trong trí nhớ. Tôi trốn tôi, tôi chán tôi. Tôi chán những gì đã viết. Hay, sau khi hoàn tất một truyện dài mà tôi đã vắt cạn thanh xuân, truyền sức sống vào nhân vật, tôi đã kiệt quệ, khánh tận chữ nghĩa. Tôi không còn gì để viết?
 
    Tôi nhìn suốt dãy phố, bên kia đường cũng có những ngọn đèn lặng lẽ trong bóng tối dưới những tàn cây cao, rậm lá. Có những con mắt nào đó chờ bình minh từ những khung cửa nhìn ra? Tôi bỗng thấy buồn, bùi ngùi. Ánh sáng ấy thì muôn đời, dẫu nó có hư hao tàn lụi cũng được thay bằng một bóng đèn khác. Còn tôi sẽ tiếp tục nhìn ngắm nó được bao lâu?
   Tôi chợt nhớ tới một con chim bồ câu thỉnh thoảng vẫn bay đến đậu trên cái cần sắt. Cái bóng đen nhỏ bé, bất động. Nhìn nó có vẻ như đang ngủ. Lũ bồ câu thường kéo đàn về đậu trên những nóc nhà hay những vòm cây rộng. Cái cần dùng để treo ngọn đèn thẳng đuột như chiếc cần câu, bề dài vừa đủ cho hai ba con chim đến đậu. Vậy mà tôi chỉ thấy một, nên tôi tin con bồ câu tôi nhìn thấy ngày này, ngày nọ là nó. Một con chim lẻ bạn cũng biết tìm một nơi của riêng mình.
   Ngọn đèn vàng! Lúc này tôi chẳng để nó dẫn dắt tôi về một miền quá khứ nào đó. Tôi phải kể với nó về những nghĩ tưởng chiều qua, khi tôi lang thang nơi cánh rừng sau nhà. Bao lâu rồi tôi không đến cánh rừng này, dù chỉ cách nhà năm bảy phút theo từng bước nhanh - bước chậm.
   Với một câu chuyện kể, hay bài tùy bút đang viết, khi bế tắc trong việc tìm một câu chữ, một hình ảnh nào đó dàn trải tâm tư, tôi thường tắt máy và đi dạo trong khu rừng nhỏ này. Tôi luôn mặc chiếc áo khoác túi rộng, có thể để vào đó một chiếc máy thu thanh nhỏ xíu, cùng với dây nghe. Chiếc máy nhỏ như hai ngón tay được thâu vào những bài hát tôi thích. Đa số là nhạc xưa. Đi với nhạc, đi quanh co cho đủ năm ngàn bước chân hoặc hơn thế nữa, như vị bác sĩ đã khuyên nhủ tôi. Đi vì sức khỏe, đi tìm ánh nắng mặt trời. Đi cho đầu óc thoải mái, không phải đi tìm chữ. Tôi nghĩ như thế, bởi cái công viên rộng như rừng đầy những bức tượng vua-chúa-danh nhân từ bao thế kỷ chẳng liên quan gì đến những chuyện tôi muốn kể. Nắng gió, cây cỏ nơi này cũng xa lạ. Nhưng sau những cuộc đi dạo trở về, hình như âm thanh của những ô chữ trên bàn phiếm của tôi xao động hẳn lên. Có lẽ nó âm thầm đến trong trí não tôi bằng những lời nhạc, bằng thứ âm thanh, ngôn ngữ biết gõ cửa những tâm tình. Phải chăng nơi chốn này cũng là nơi cất giấu chữ nghĩa của tôi.
   Chiếc áo tôi khoác lần cuối đến đây là áo của mùa hè. Áo đã được giặt giũ sạch sẽ, được cất vào tủ từ những ngày tôi nằm dưỡng bệnh. Tôi đang khoác áo mùa thu. Tôi cũng không nhớ mình đã cất chỗ nào cái máy nhỏ xíu ấy. Mà tôi cũng đâu cần nó. Quanh tôi, nhạc gió đang réo rắt giữa thinh không.
Giữa mùa thu, vàng vẫn chỉ là những mảng màu dang dở. Vẫn còn những chiếc lá xanh nhưng rời rạc âu sầu rách bươm vì nắng gió. Lá bay theo gió, cỏ cây xao động. "Lá thốt lên lời cây"(1) và "Gió bay từ muôn phía." (2)
    Như một người bằn bặt lâu năm quay về chốn cũ. Tôi ngồi trên băng ghế và thấy mình cô đơn lạc loài hơn bao giờ hết. Thấy mình xa lạ giữa bao tiếng cười nói của lũ trẻ cùng cha mẹ dạo chơi. Ngồi một mình nghe từng âm gió rụng rơi, cho đến khi những ngón tay tê lạnh. Cho đến khi không còn ai, vì những cánh cửa sắt màu xanh lục cao ngất ngưỡng ngoài kia sẽ khép lại trước khi chiều chuyển màu đêm. Tôi cũng phải mau chóng rời khỏi nơi đây.
    Tôi về cùng gió, hai bàn tay lạnh. Những ngón tay mang theo cái lạnh lẽo sướt mướt khi trở về nhà của những chiều muộn, mưa xưa. Những ngón tay hơ trên ánh lửa bếp hồng, xuýt xoa reo vui cùng thứ cảm giác ấm áp thịt da. Nhà cũ, bếp xưa, những tiếng nổ tí tách của củi than hãy còn vang trong trí nhớ.
 
    Có lẽ gió đã thổi suốt đêm. Gió mang lá gom lại từng đống nhỏ trên khoảng sân vắng trước nhà. Tưởng như có người phu quét đường nào đó, âm thầm thu góp lại giữa đêm khuya. Lá chồng chất kèn cựa bên nhau, yên ngủ dưới ánh sáng ấm vàng của những ngọn đèn…
Và tôi nhớ chữ, tôi thèm viết một điều gì đó. Tôi có những bản thảo còn dang dở. Nhưng tôi không nhớ mình đã viết gì?
    Lá bay, lá thốt lên lời cây, hình ảnh nơi công viên chiều qua trở về cùng với tấm ảnh của một người mà tôi đã giữ lại trong máy điện toán.  Một người đàn ông đứng ngẩng mặt nhìn trời. Trên cao là cây, là lá, là những tầng mây xám mênh mông. Ảnh trắng-đen, mây không màu. Những màu sắc chỉ được thẩm định qua tâm tưởng của người ngắm ảnh. Tất cả hẩm hiu buồn rầu như khuôn mặt, thần sắc được nắm bắt, giữ lại từ một nhiếp ảnh gia. Người chụp ảnh không chỉ yêu ánh sáng, cảnh trí, con người, mà còn đi tìm những ẩn khuất trong tâm hồn người mẫu. Tất cả được thể hiện qua ống kính.
    Tôi bùi ngùi khi nhớ đến người ảnh ấy. Một nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ. Đã hai lần tôi viết về ông. Một lời chào vừa được cất lên, âm thanh còn vọng chưa tan, nhưng đã phải vang lên lời vĩnh biệt. Đã biết bao nhiêu lần tôi đọc đi đọc lại những gì ông đã viết ra. Đọc, và trong tôi luôn mong muốn viết một điều gì…
    Vĩnh biệt! Phải rồi cũng còn một lời vĩnh biệt dở dang đã được tôi gõ gần ba trang giấy, là bài thứ hai tôi viết riêng cho một người. Một người tóc trắng như mây, cái bóng đìu hiu bên những cuốn sách. Những cuốn sách, những câu chữ dẫn tôi theo ông qua các nẻo đường quê hương thời triền miên khói lửa. Ông dẫn tôi về cái quá khứ bi tráng, dù cái quá khứ chỉ của riêng ông, tôi nhỏ nhoi đứng bên ngoài, xa lơ xa lắc. Nếu có, chính là những hoài niệm. Là niềm đau chung từ những đứt đoạn chia lìa.
Hai người bạn vong niên đã lần lượt ra khỏi cuộc đời trong một khoảng thời gian rất ngắn, và trong tôi lòng tưởng tiếc chưa nguôi.
    Nhưng tôi có nên tiếp tục với trang thứ ba, tiếp tục những điều dở dang, những thương tiếc muộn màng? Đã bao nhiêu câu chữ tôi nói về tình cảm của tôi dành cho ông. Có cần phải góp thêm một lần nữa giữa những tiếng than van? Không, tôi không muốn nói hoài nói mãi những điều đã cũ. Tôi đã nghĩ như thế, trong lúc ấy.
     Văn chương là một tấm màn quá khứ mênh mông, dày dặn, choàng kín tâm tư. Xoay bên này, trở bên kia, tôi vẫn không cách nào thoát ra được.
     Viết gì thì viết, những con chữ dẫn tôi đi loanh quanh. Nhưng đi đâu rồi tôi cũng quay về nơi chốn ấy. "Quê Nhà".
 
ĐẶNG MAI LAN
(tháng 11/2024)
 
1/ Tình khúc thứ nhất – Nguyễn Đình Toàn &Vũ Thành An
2/ Tà áo xanh – Đoàn Chuẩn & Từ Linh

  

No comments:

Post a Comment