Lê
Chiều Giang
Tranh Khánh Trường
“…
Soi gương nhìn kỹ mặt mày
Cũng
râu cũng tóc đủ đầy giống… ta!
Thế
nhưng trong cõi ta bà
Nhiều
khi những tưởng mất cha cái mình…”
[Khánh
Trường]
Tôi
bị ám ảnh triền miên bởi những hình tượng ốm đau, kiệt quệ. Những lặng lờ thấp
thỏm, sợ hãi đợi chờ cho một ngày cuối cùng, chấm hết… Nên đã rất ít khi tôi
còn dám thăm hỏi ai thêm về chuyện thở ít, thở nhiều hay đã gần ngưng thở.
Anh
Khánh Trường mỗi khi tôi nhớ đến, phải là hình ảnh của một giang hồ. Một tay
chơi luôn cười cợt, ngạo nghễ với đời, để nếu cần, đang ngồi café cứ quăng đại
chiếc ghế lên trời cho hả cơn giận dữ. Dễ thương và may mắn nhất là anh có được
những tiếng cười xòa thông cảm, những tiếng cười phá chấp từ bè bạn.
Sau
1975, anh Nghiêu Đề và tôi hay ghé phòng dạy vẽ của Khánh Trường bên Phú Nhuận.
Phòng tranh nhỏ với xao xác chỉ vài em và là nơi anh nhận vẽ truyền thần, sao lại
hình Ông Bà… Khi hăng hái chuyện rong chơi, anh cười cười đuổi học trò về, miễn
luôn học phí cho ngày hôm đó. Anh vội vã đóng cửa lớp, phòng tranh cho dễ bề
lang thang café thuốc lá. Những ly café mà khề khà từ sáng đến trưa, với những
nói cười say sưa cùng khói thuốc, những câu chuyện còn đậm đà hơn cả những bình
rượu trắng ngày càng trở nên hiếm hoi.
Anh
Duy Trác, người sống vô cùng ngăn nắp cũng đã có lần trong một ngày giáp tết,
ngồi nhà Khánh Trường cho đến 3 giờ sáng. Chúng tôi ngồi vui với cháo gà của chị
Khánh Trường. Một con gà nhỏ, với rất nhiều loại rau, và 12 người bạn. Nước lã,
tôi xúi chị Khánh Trường đổ thêm và đổ thêm cho nồi cháo càng lúc càng đầy hơn,
chỉ cần thoáng chút hương vị gà thôi chắc là cũng đủ… Chúng tôi và Nguyễn Đình
Toàn, Duy Trác, Trần Quang Lộc, Nga Mi, Nguyễn Trọng Khôi, Nguyễn Tôn Nhan… ngồi
hát hò, thơ phú cho đến hết đêm. Những đêm Saigon không dài. Đêm xao xác. Đêm
hoang mang và đêm rất ngắn.
Đó
là những tháng ngày chúng ta vừa vuột mất quê hương. Nói như anh Nguyễn Đình
Toàn, thời gian đó nếu chúng tôi không có một nhóm để rong chơi, ca hát thì chắc
là đã… chết hết.
Rồi
đã chẳng còn những gặp lại, chúng tôi chợt tan tác muôn phương, kể cả có bạn bè
đôi ba lần cứ phải vào tù ra khám...
oOo
California.
Nơi
có tiếng réo gọi của rất nhiều gương mặt cũ.
Khi
gặp lại anh Nguyễn Trọng Khôi từ Boston qua CA ghé San Diego cùng với Phạm Việt
Cường và Khánh Trường. Chúng tôi ngồi… đếm. Những mất mát gần gũi và xa xôi, những
bạn bè rớt rơi còn hay mất. Ôm đàn hát mải mê, hát miên man mà Nguyễn Trọng
Khôi… khóc.
Nước
mắt, có khi không cần nói gì và hỏi gì thêm. Nước mắt, thông điệp của mọi thứ
và mọi điều có khi hiểu ra hết và đôi khi chẳng ai hiểu gì. Nguyễn Trọng Khôi
hát cho những ngày lê thê, tê tái ở Saigon trước khi anh lên máy bay ra đi…
Rộn
rã nhất chắc là khi Khánh Trường có Hợp Lưu. Văn thơ đủ thứ làm anh bận rộn
thêm với cả tỷ những bạn bè cũ, mới. Cái dễ thương của Khánh Trường là dù cuộc
vui lớn nhỏ thế nào cũng phải hò hét hết bạn bè đến tham dự. Không đủ ly thì
rót rượu đỏ trong ly giấy, không có tiền thì in báo thiếu chứ nhất định phải
là… ca múa với rong chơi.
Chuyện
hay hay là một trong những lần gật gù, bàn bàn tán tán về văn chương, Mai Thảo
lỡ nói vài câu kiểu… Mai Thảo. Cái kiểu rất là Mai Thảo! Lạ là không ai ngạc
nhiên gì khi Khánh Trường tạt nguyên chén nước mắm vào anh. Mọi người chỉ đành
cười ngượng ngập, trong khi Mai Thảo rất bình tĩnh, giọng khề khà như trầm xuống
hẳn: “Ừ, thì ngày mai “nó” sẽ đi tuyên truyền rằng “nó” mới hắt nước mắm vào mặt
Mai Thảo”.
Nhưng
với tôi, sau ngày không vui đó, chính nước mắm đã là một chất keo sơn đầy hương
vị, dán quãng đời còn lại của Mai Thảo với Khánh Trường. Nhất là những tình những
nghĩa, những tận tâm chăm lo, săn sóc của Khánh Trường đối với Mai Thảo, suốt từ
khi Mai Thảo bắt đầu ốm đau cho đến giờ phút phải ra đi.
Đặc
biệt là anh Khánh Trường rất chán và dị ứng với cái phong thái trịnh trọng của
một số vị làm văn chương, chữ nghĩa. Anh cứ nhất định gán cho họ là nhóm “Văn
nghệ sĩ cung đình”.
Trong
tiệc cưới Bé Búp, tôi lúng túng tổ chức một mình vì không còn anh Nghiêu Đề.
Bàn 12 người, chỉ có anh Khánh Trường nói ra lời khiếu nại: “Chị ơi, làm ơn xếp
tôi chỗ khác, tôi mà phải ngồi với những ông “Văn chương cung đình” này thì vui
sao nổi?”. Khánh Trường cứ thế mà tuyên bố khơi khơi, nói ngay tại chỗ, làm 11
người còn lại khó chịu. Tôi vội vàng mời anh ngồi với nhóm bạn của Bé Búp, để
chú Khánh Trường tha hồ cụng ly cùng… các cháu. Tiệc cưới rất đông thiên hạ, mà
tôi vẫn nghe ra tiếng anh hò hét, nói cười bên một đám trẻ, thế hệ chẳng cần biết,
chẳng đoái hoài gì đến văn chương, thi phú… Những thứ mà theo Khánh Trường, nó
chỉ làm cho cuộc đời thêm lôi thôi, lung tung và rắc rối.
Chừng tháng sau, tôi lên Santa Ana tham dự hôn
lễ con trai của anh chị Hồ Thành Đức. Có chuyện bày ra bốc thăm sao đó, chợt
tên tôi được mời lên sân khấu để nhận… tranh tặng. Ngay lập tức thiên hạ nghe
anh Khánh Trường nói vọng lên, rất lớn: “Sao hôm nay chị xui quá vậy, còn phải
mang tranh Bé Ký về tới tận San Diego". Có tiếng cười vui ào ào của tất cả
bạn bè và dễ thương nhất là có cả tiếng cười rất vang của anh Hồ Thành Đức. Đặc
biệt, chính Khánh Trường là người tình nguyện mang tranh Bé Ký ra xe giúp tôi.
oOo
Sau
một thời gian dài bỏ San Diego ra đi. Tôi trở lại CA như một người rất mới.
Những
Văn nhân, Thi sĩ cung đình hay những vị giang hồ Thơ Văn lang bạt. Nhiều người
đã bỏ đời ra đi. Tôi ngồi với các bạn lứa tuổi của mình, những bạn bè rất mới.
Mới
đây, chị Nguyễn Thị Khánh Minh ra mắt thơ “Đêm”, là ngày tôi gặp lại chị Thùy Hạnh.
Một ánh trăng sáng mơ màng trong văn thơ của nhiều Thi sĩ.
Sức
sống mãnh liệt ban cho chúng ta lòng can đảm và có thêm luôn cả sự mạo hiểm
không ngờ. Đã không còn dùng được tay phải, chị lái trên freeway với chỉ một
tay trái, băng qua những dòng xe như thác, chạy bạt mạng và chạy như điên, chỉ
vì: “Cô đơn là điều chúng ta sợ hãi nhất”, chị than thở cùng tôi.
Chị
Thùy Hạnh và tôi nhắc lại chuyện từ những năm xưa. Thời Thùy Hạnh đẹp thơ mộng,
lúng liếng với đôi mắt rất đa tình. Chị hát và ngâm thơ rất hay, có thêm một giọng
nói dịu dàng như lá. Thuở mà chị chưa mang bịnh, chưa ốm đau.
22
năm đã qua đi, chúng tôi còn nhận ra nhau để cùng ngậm ngùi, tiếc nuối nhắc nhớ
về lần gặp cuối cùng. Phòng khách nhà chị, nơi có bóng nắng nhạt mờ xuyên qua
chút ánh chiều sắp tắt. 22 năm về trước, chúng tôi ngồi hát với nhau, những bản
nhạc đẹp ngời của Phạm Duy, Cung Tiến. Cao Xuân Huy, người luôn có nụ cười tươi
vui và ấm áp, đỏ mặt với rượu tràn lan cùng Hoàng Khởi Phong và Khánh Trường.
Hiếm khi nào cả ba cùng trầm lặng như thế. Thùy Hạnh ngâm thơ Quang Dũng, Hoàng
Cầm, tôi hát Sombre Dimanche, dù hôm đó
là chiều thứ bảy.
Chưa
bao giờ tôi thấy anh Khánh Trường hăng hái gì với ca ca hát hát. Duy nhất hôm
nhà chị Thùy Hạnh anh uống rất nhiều, uống đủ để ngất ngưởng với thơ, ngâm thơ
và để say với “Hồ Trường”.
Chí
chưa thành, danh chưa đạt
Trai
trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm
năm thân thế bóng tà dương
Vỗ
gươm mà hát
Nghiêng
bầu mà hỏi
Trời
đất mang mang ai người tri kỷ
Lại
đây cùng ta cạn một hồ trường…
oOo
Đã
rất lâu rồi tôi không gặp lại, cũng chẳng ghé thăm. Vẫn biết anh đã không còn đủ
hơi để lo lắng thêm cho bất cứ một điều gì. Nhất là anh đã chẳng bận tâm chi nữa
đến chuyện hội họa với văn chương… Dù mới đây thôi tôi còn biết rằng, có lúc
Anh đã phải dùng dây và băng keo, bó cây cọ vẽ vào cánh tay phải, rồi dùng bàn
tay trái cũng đã rất yếu, di chuyển và lê lết màu sắc lên những tấm canvas. Vẽ,
phải chăng chỉ là tiếng kêu la thảng thốt, chút níu kéo, chút trì hoãn thảm
thương?
“...
Ta có hai bàn chân
Đi
hoài không tới đích
Ta
có một sợi xích
Trói
hoài đôi bàn tay…”
[Khánh
Trường]
Kèm
theo bài viết này tôi sẽ dùng bức tranh của anh như một minh họa. Bức tranh mà
khi anh xuống San Diego trong ngày giỗ Nghiêu Đề, tôi đã phải nói lời xin lỗi
vì tranh anh vẫn dựa lẻ loi bên tường. Tôi chưa kịp treo tranh anh cùng tranh
bè bạn… Anh liền buông một câu ẩn chứa chút ngạo mạn: “Tranh Khánh Trường, chỗ
đúng nhất phải là… dựng ngay dưới đất”. Và, anh đã cùng tôi cười vang, tiếng cười
bạt mạng, tiếng cười chỉ có ở Khánh Trường.
Tôi
đang viết gửi anh thay cho một lời thăm hỏi.
Đặc
biệt là đã chẳng có một lời hỏi thăm nào dài lê thê bất tận, với rất nhiều thứ
kỷ niệm mà gia đình tôi đã có cùng Anh. Nhất là những ngày của năm 1999, dù rất
bận với Hợp Lưu, anh đã cùng anh Nguyên Khai bỏ nhiều thì giờ đẹp cho sách Tranh của anh Nghiêu Đề. Cuốn
sách mà mỗi khi đọc lại, tôi vẫn đếm xem đã có bao nhiêu bạn bè viết về, nói đến
và góp lời thương tiếc Nghiêu Đề, giờ cũng đã bỏ ra đi…
LÊ
CHIỀU GIANG
No comments:
Post a Comment