Phan
Tấn Hải
GS Nguyễn Văn Sâm &
Tác phẩm ‘Kể Chuyện Tình
Buồn’
LỜI
GIỚI THIỆU: Giáo sư Nguyễn Văn Sâm đã tái bản truyện thơ “Kể Chuyện Tình
Buồn” của cụ Hồ Biểu Chánh (1885-1958) trong những ngày cuối tháng 5/2022. Bản
gốc tác phẩm là “U Tình Lục” được viết với tên khai sanh của tác giả là Hồ Văn
Trung, ấn hành năm 1913. Bản giới thiệu và chú giải do Giáo sư Nguyễn Văn Sâm
thực hiện lần đầu là năm 2013, khi tác phẩm tròn 100 năm tuổi, và bản chú giải
được đặt tên là "Kể Chuyện Tình Buồn" cho phù hợp với độc giả của thế
kỷ 21. Bản in lần thứ nhì là năm 2022 dày 208 trang, cùng với ba bài nhận định
của ba nhà văn Ngự Thuyết, Nguyễn Văn Trang, Phan Tấn Hải. Sách ấn hành với sự bảo trợ của Viện Việt Học
(http://www.viethoc.com/ -- phone: (714)
775-2050). Tác phẩm "Kể Chuyện Tình Buồn" của cụ Hồ Biểu Chánh hay
"U Tình Lục" của Hồ Văn Trung (1913) do GS Nguyễn Văn Sâm giới thiệu
và chú giải là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam. Bài viết của
Phan Tấn Hải trong ấn bản 2022 được in nơi các trang 39-51, sẽ đăng nơi đây hy
vọng giúp độc giả nhìn thấy nỗ lực văn học của cụ Hồ Biểu Chánh --- một nhà
nho, một nhà văn sinh vào cuối thế kỷ 19 --- đã sáng tác bằng một văn phong rất
Nam bộ, và phù hợp với tư tưởng mà bây giờ chúng ta gọi là "nữ
quyền." Bài viết, được hiệu đính năm 2022, như sau.
Sách "U Tình Lục'
Tác
phẩm “Kể Chuyện Tình Buồn” của cụ Hồ Biểu Chánh (HBC), bản do Giáo sư Nguyễn
Văn Sâm giới thiệu và chú giải vừa hoàn tất cuối năm 2013. Và bây giờ tái bản
năm 2022. Tên cũ của sách này có tên là “U Tình Lục,” nghĩa là chuyện tình
buồn.
ch U TìNhư
thế là tròn 100 năm, tính từ năm “U Tình Lục” (UTL) xuất bản là 1913, lúc đó cụ
Hồ Biểu Chánh in với tên thật là Hồ Văn Trung. Trong thời gian một thế kỷ đó,
rất nhiều ý tưởng nhà văn Hồ Biểu Chánh nêu lên trong UTL bây giờ vẫn còn là
cấp tiến, vượt qua vòng rào dư luận xã hội Việt Nam.
nh Lụ
cCâu
hỏi đầu tiên nên là, tại sao tập truyện thơ lục bát hay tuyệt vời như UTL lại
ít được công chúng biết tới như thế? Có
thể thấy tức khắc rằng, cuốn UTL đã đụng vào một số cấm kỵ thời đầu thế kỷ 20.
Thời xưa, ông bà mình ưa nói câu:
Đàn
ông chớ kể Phan Trần
Đàn
bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều...
Trong
khi đó, UTL có vẻ như đã đụng tới nhiều cấm kỵ xã hội hơn cả Phan Trần, hơn cả
Truyện Kiều. Hay là, có chăng một ông phú hộ đạo đức ở Nam Kỳ đã tung tiền ra
mua hết các sách UTL ngoàì tiệm về và lặng lẽ đốt? Tại sao, thơ Lục Vân Tiên
không văn chương bằng UTL, lại được phổ biến hơn?
Nên
nhớ rằng, chỉ mới vài thập niên trước cuốn UTL, cụ Nguyễn Đình Chiểu kể chuyện
Lục Vân Tiên giữa đường, đánh tan băng hung đồ để cứu cô Nguyệt Nga, nhưng khi
cô Nga tính bước ra xe cảm ơn thì chàng họ Lục cản lại:
Khoan
khoan ngồi đó chớ ra
Nàng
là phận gái, ta là phận trai.
Nghĩa
là, bước ra xe để ngó mặt cũng không được. Trong khi đó, UTL đã rất mực lãng
mạn, vượt qua vòng lễ giáo.
Với
vị trí xã hội của cụ HBC, những gì cụ viết lẽ ra đã được đón nhận rộng rãi hơn.
Nhưng có lẽ, trừ cuốn UTL. Theo Tự Điển Bách Khoa Mở Wikipedia, cụ HBC xuất
thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học
quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn, rồi làm các chức vụ
thông ngôn, làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ, từng giữ chức chủ
quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương
người nghèo khổ... Khi về hưu vẫn được mời làm nhiều chức vụ cao cấp khác. Cụ
từng được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông
Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo
tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Nhưng UTL là khác, là văn chương tuyệt
vời về chuyện giường chiếu một đêm, thế là bị kỳ thị...
Hai
nhân vật chính, nữ là cô Lâm Cúc Hương, và nam là chàng Lê Tấn Nhơn đều có học
vấn, đều con nhà gia giáo, đều là người tốt. Thế nhưng, chính cô đã tỏ tình
trước. Tại sao, cụ HBC lại cho cô Hương tỏ tình trước, mà không phải chàng
Nhơn? Thế rồi, khi chàng nhớ quá, nửa đêm leo tường vào, chính cô lại mở cửa
đón chàng vào. Trong khi chàng và nàng đang nói chuyện nửa khuya, đột ngột cô
Hương ôm chàng Nhơn, thế là họ sa ngã... Tại sao cô xông tới ôm trước, mà không
phải là chàng ôm trước?
Rồi
sau đó, khi bị ly gián, chàng ngộ nhận, tưởng cô không chung thủy, mới ra Bắc
theo đường quan chức. Chỉ có một đêm giường chiếu, nhưng cô đã có bầu, và bị
cha đánh đuổi đi... Câu chuyện có đầy đủ những tình tiết lãng mạn để làm các
bậc phụ huynh lo sợ.
Phải
chăng, cụ HBC là người đầu tiên nêu tư tưởng nữ quyền tại Việt Nam, đòi các
quyền xã hội bình đẳng cho phụ nữ, và do vậy tập truyện thơ hay tuyệt vời này
đã bị xã hội bỏ lơ trong khi tập trung đề cao truyện Lục Vân Tiên?
Cuốn
UTL không chỉ mang đặc điểm văn chương Nam Bộ với những chữ đặc chất của vùng
lục tỉnh, mà còn là một mô tả về hoàn cảnh xã hội dưới thời Pháp thuộc và cách
ứng xử của người thời cuối thế kỷ 19 và đầu 20. Thí dụ, học trò học ở huyện
xong, muốn học cao hơn, là phải lên Mỹ Tho học. Hay khi con gái không chồng mà
có bầu, là bị cha đánh roi tới bật máu, và mẹ cho tiền khuyên tìm nơi ẩn náu để
sinh nở. Cô Cúc Hương ôm bụng bầu từ quê lên Mỹ Tho, rồi cô lên Sài Gòn nghĩ là
có thể kiếm việc thợ may nuôi con. Nghe không khác gì thời nay.
Nhân
vật chính trong UTL là cậu Lê Tấn Nhơn, có chị tên là Hạnh Nương. Cậu Nhơn lúc
nhỏ học chữ Nho rồi sau học tiếng Pháp, đều giỏi. Gần nhà họ Lê ở Huyện Tân
Hòa, có gia đình phú hộ họ Lâm, chỉ có duy một cô con gái tên là Cúc Hương. Cậu
Nhơn thường xuyên tới thăm Cúc Hương, cả hai đôi trẻ học lực ngang nhau, tâm
đầu ý hiệp. Ông bà họ Lâm quan sát kỹ, thấy cả cậu Nhơn và cô Hương giữ gìn lễ
giaó, nên rất hài lòng.
Cô
Cúc Hương có cô chị bạn dì là Xuân Lan, tuy kém đức và tài nhưng nhan sắc cũng đẹp
như cô Hương. Cả cô Hương và cô Lan đều thầm yêu thương cậu Nhơn.
Cả
mấy lần, cô Hương đều thăm dò tình cảm trước. Lần đầu là một buổi, cậu Nhơn tới
thăm, gặp cả cô Hương và Lan. Chàng Nhơn đáp, như từ chối tình cảm:
Người
tin ta, ta giữ gìn
Ai
đi lấy nghĩa làm tình cho đang... (UTL, các câu 229-230)
Thế
là:
Hương
nghe ủ mặt châu mày
Biển
sầu càng khắc càng đầy càng sâu (câu 234-235)
Nghĩa
là, cô Hương thất tình rồi.
Thế
rồi, có chàng tên Triệu Luân tới cầu hôn với cô Hạnh Nương. Trong tiệc cưới ở
nhà họ Lê, cô Lâm Cúc Hương sang giúp cỗ bàn, khi bước ra vườn gặp chàng Lê Tấn
Nhơn, hai người mới bộc lộ tình cảm và thề nguyền với nhau. Chàng Nhơn nói:
Mấy
lời xin nhớ mấy lời,
Ví
dầu vật đổi sao dời chớ quên.
Vái
cùng vai vác hai bên,
Ai
mà đen bạc xin biên chép vào. (câu 351-354)
Rồi
chàng Nhơn lên Mỹ Tho học. Giáo sư Nguyên Văn Sâm trong chú giải, ghi rằng:
“Nhập tràng Mỹ Tho: Vào học thi tại trường Mỹ Tho. Nghĩ là trường Nguyễn Đình
Chiểu ngày nay. Hân hạnh cho ngôi trường, đi vào văn học rất là sớm...” (UTL,
trang 33)
Trong
khi chàng Nhơn lên Mỹ Tho du học, con trai của ông quan Huyện Tân Hòa là cậu Tạ
Văn Thiên, vốn người tính ngang, ưa cờ bạc rượu trà, đã nhờ người tới làm mai
với gia đình họ Lâm. Lâm ông có ý muốn con gái mình chờ cậu Lê Tấn Nhơn học
xong rồi về để gả con, nhưng Lâm bà muốn gả cô Hương cho con quan Huyện, vì sẽ
ấm thân nơi nhiều thế lực và tiền bạc.
Cô
Hương nghe ba mẹ nói chuyện lại, mới phản đối:
Sá
chi lên võng xuống dù
Rạng
ngời ư ngoại, tối hù ư trung
Sá
chi con giống cháu dòng,
Tham
quan ô lại, giống dòng mà chi? (câu 513-516)
Thế
là Lâm bà mắng con là “phường gái lanh,” trong khi Lâm ông nói là con hãy suy
nghĩ cho sâu trong nửa tháng rồi tính. Lúc đó, chàng Lê Tấn Nhơn sau khi học
xong, đang về thăm nhà để sẽ còn đi làm xa:
Nghĩ
nay công toại danh thiềng,
Thang
mây nhẹ bước, rước tiêng khó gì... (câu 565-566)
Cậu
Nhơn sang thăm gia đình họ Lâm, được cô Cúc Hương kể hết sự tình bị ép duyên,
mới:
Đau
lòng lỡ khóc lỡ cười,
Giã
ông chàng mới về nơi thảo đường. (câu 593-594)
Đêm
hôm đó, chàng Nhơn không ngủ được, mới tới nhà cô Hương, thấy tường cao cửa
đóng, liền nhảy tường vào sân, rồi bẻ cây tre chốt cửa vào phòng. Nhảy tường?
Chỗ này y hệt chuyện tình Romeo và Juliet.
Tuyệt
vời là cô Hương vừa nghe động, đã biết ngay chàng Nhơn sẽ nhảy rào nên mở “thừa
cơ mở nẻo Thiên Thai cho chàng” (câu 644):
Ngoàì
song sanh mới dỉ hơi,
Phòng
trong nàng đã biết rồi là ai. (câu 641-642)
Thế
rồi, trong khi nói chuyện, nước mắt hai người đầm đìa, cô Hương đột ngột ôm cậu
Nhơn:
Dứt
lời giọt lụy chứa chan
Xót
đau đòi đoạn thở than đòi hồi.
Ôm
chàng nói chẳng ra lời,
Nhìn
rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê. (câu 671-674)
Thế
thì liều quá, con gáí lại nhào vào ôm con trai trước. Các cụ xưa đâu có chịu.
Như thế cũng là cách mạng quá, và cái ôm của cô Hương có thể hiểu là một tuyên
ngôn đòi nữ quyền vào lúc đó.
Trong
khi cô Hương kể rằng bị mẹ cương quyết ép duyên, thì chàng Nhơn khóc thảm
thiết:
Nhơn
nghe rõ hết mọi bề,
Dật
dờ hồn quế, dầm dề giọt châu.
Vật
mình ngã xuống giây lâu,
Hết
mê rồi tỉnh, hết sầu rồi than. (câu 689-692)
Con
trai mà khóc tới té xỉu, hết mê rồi tỉnh, rồi than... thì yếu quá. Các cụ xưa
đâu có chịu.
Thế
rồi cô Hương nói với chàng Nhơn rằng, thôi thì hai đứa trốn nhà đi, rồi lâu về
sau sẽ về thú tội với mẹ cha khi các cụ nguôi giận. Đây cũng là hình ảnh rất là
nữ quyền: vì trong khi chàng còn đang khóc sướt mướt, cô đã rủ chàng trốn nhà
đi xa. Cô nói:
Như
mà tận kế vô phang,
Đem
nhau vạch nẻo tìm đàng mai danh.
Nổi
trôi góc bể đầu gành,
Trời
cao đất rộng tung hoành mặc ta.
Chờ
khi gió thuận mưa hòa,
Bây
chừ ta sẽ về mà thú ngay. (câu 709-714)
Trong
khi cô Hương liều như thế, chàng Nhơn lạnh cẳng. Thương là một chuyện, nhưng rủ
nhau trốn lại là chuyện khác. Chàng nói:
Làm
điều nhục nhã tổ tông,
Người
mà tri lễ đành lòng hay sao? (câu 721-722)
Dù
vậy, khi chàng Nhơn cứ mãi nhắc nhở “tri lễ” như thế, thân xác có tiếng nói
riêng của nó. Thế là, chuyện đi tới chỗ không có bậc ba mẹ nào hài lòng cả, dù
thời đó hay thời này. Cụ HBC kể giây phút cậu Nhơn và cô Hương sa ngã bằng ngôn
ngữ thơ mộng:
Mấy
thu nhạn núi cá gành,
Đêm
thanh gần gũi giữ gìn sao đang.
Tiệc
xuân một giấc mơ màng,
Vườn
xuân ong đã mở đàng vào ra. (câu 727-730)
Tới
sáng, khi tiếng gà kêu, chàng mới leo tường về. Sau đó, cô kể thật hết với ba
mẹ. Lâm bà nghe, nổi giận ầm ầm, la mắng. Cô mới tính kế viết thư cho cậu họ
Tạ, để xin cậu này nên tìm chỗ khác kết hôn, và xin đừng đòi cưới cô vì, theo
cô:
Lại
là người đứng nam nhi,
Mai
tàn cúc rụng lẽ đi lượm về.
Hoa
tiên một bức tay đề,
Đành
rành tâm sự, mọi bề thảo ra. (câu 765-768)
Cô
bỏ vào bao thư, nhờ cô chị bạn dì là Xuân Lan trao giùm thư cho cậu họ Tạ để
xin đừng cưới. Cô Lan vốn đã say mê cậu Nhơn từ lâu, nên nghĩ ra gian kế. Cô
Lan giả nét chữ cô Hương, viết một thư tình đắm đuối cho cậu họ Tạ, để vào bao
thư. Cô Lan tới tìm cậu Nhơn, và trách cậu Nhơn rằng sao lại tin cô Hương:
Chơi
hoa trách chẳng chọn hoa,
Ngỡ
là bạch cúc, ngỡ là huỳnh mai.
Té
ra nhằm giống hoa lài,
Dẫu
quăng thì cũng lỡ tay đã rồi. (câu 827-830)
Cô
Lan đưa bức thư giả cho cậu Nhơn xem, phong bì đúng là của cô Hương; thế là cậu
Nhơn phừng phừng nổi giận, vò xé lá thư mà cậu tưởng là thư tình gửi chàng ho
Tạ.
Thế
là, cậu Nhơn bỏ ra xứ Bắc để theo ông chú để lập công danh. Cô Hương nghe tin
cậu Nhơn bỏ ra xứ Bắc, mới té xỉu, rồi khóc thảm thiết:
Ngã
lăn xuống đất kinh hoàng,
Hồn
lìa vóc ngọc, lụy tràn thâm bâu. (câu 293-294)
Cô
nghĩ là chàng dứt tình:
Như
mà xa chạy cao bay,
Sao
không trước liệu cho đây hay cùng. (câu 597-598)
Vì
áp lực của nhà quan, ông bà họ Lâm chuẩn bị gả cô Hương cho cậu họ Tạ. Thế
nhưng, cô có bầu rồi. Ai nhìn cũng biết, tin này tới tai quan Huyện. Quan Huyện
triệu Lâm ông lên tra vấn, hăm dọa:
Chưa
chồng thai nghén bởi đâu,
Con
hư sao lãnh trầu cau lễ người.
Chuyện
này chẳng phải là chơi,
Chiếu
theo luật cũ họa rơi tới già. (câu 945-948)
Thế
là phạt một ngàn quan tiền. Lâm ông về bán đủ thứ để nộp phạt. Gọi cô Hương ra
sân, lấy gậy đánh con tới bật máu mới ngưng tay gậy, rồi đuổi con đi. Lâm bà
mới cho một nữ tỳ đi theo con gái, cho cô Hương hai trăm bạc, bảo kiếm nơi góc
núi ẩn thân, sinh nở rồi sau sẽ liệu.
Cô
Hương và nữ tỳ hướng về miền Ngưu Giang, tức là Bến Nghé, còn gọi là Sài Gòn.
Chuyện xưa mà cũng nghe như không xưa, vì bây giờ cũng thế, hễ gái lục tỉnh bị
mang tiếng là cứ lên Sài Gòn ẩn thân.
Thế
rồi cô Hương buồn quá, trong khi đi ghe, cô nhảy sông tự tử. Người chèo ghe
thấy nhưng không kịp cứu lên. Cô nữ tỳ khóc than, trở về báo tin cho ông bà họ
Lâm. Linh vị cô để ở bàn thờ, ngày đêm được ông bà khói hương để cho con sớm
siêu thoát.
Cô
Hương may mắn được một lão ngư ông cứu lên, mới đem về nhà nuôi, khuyên giải.
Cô Hương sinh một bé trai, đặt tên là Tuấn Anh. Mỗi lần nhìn con, cô lại nhớ
tới chàng và trách cứ chàng; rồi cô lại thương ba mẹ ở quê. Thơ tả những cảm
xúc này của cô tuyệt vời. Thơ lục bát của cụ HBC chỗ này không thua gì Nguyễn
Du.
Khi
lão ngư ông bệnh chết, cô Hương xây mồ cho cụ ngư ông xong, rồi dắt con đi từ
Mỹ Tho lên Sài Gòn, đường xa ba ngày, tính làm thợ may nuôi con. Những bất trắc
nơi đất Sài Gòn có quá nhiều, nhất là với một phụ nữ nhan sắc như cô. Những
gian nan này, nơi đây chúng ta không cần kể ra, để độc giả đọc từng dòng để tự
thấy lại hoàn cảnh xã hội Sài Gòn lúc đó.
Trong
khi đó, chàng Nhơn đã làm tới chức quan Huyện ở xứ Bắc. Được nhiều người mai mối,
nhưng lòng chàng đã lạnh như băng. Một hôm chàng ra chơi ở Tây kiều. Nhà văn
HBC không nói rõ xứ Bắc là tỉnh nào, nhưng nói Tây kiều, tức cây cầu ở hướng
Tây, hay chúng ta có thể nghi là chiếc cầu ở Hồ Tây hay không? Đột nhiên, chàng
Nhơn gặp Triệu Luân, tức là ông chồng của bà chị. Nhơn mời về Huyện đường hàn
huyện, và Triệu Luân khuyên Nhơ nên về quê cho tròn đaọ hiếu với ba mẹ.
Khi
về quê, chàng Nhơn mới biết rằng cô Hương buồn chuyện mang bầu, đã nhảy sông
hủy mình, và hai ông bà họ Lâm đã vào chùa đi tu.
Chàng
Nhơn gặp lại cô Lan. Cô Lan cho biết đã kết hôn với con trai quan Huyện và mẹ
chồng hung dữ quá. Cô Lan mới tỏ tình với chàng Nhơn, xin bao dung:
Đôi
ta nghĩ cũng là duyên,
Tình
xưa nghĩa cũ ước nguyền nên chăng? (câu 1645-1646)
Chàng
Nhơn bực dọc từ chối. Cô Loan về suy nghĩ, tự thấy ân hận, nên viết thư gửi
chàng Nhơn, kể chuyện năm xưa làm trò ly gián để hại cơ Hương. Rồi cô Lan cầm
dao, tự sát. Chàng Nhơn đọc thơ mới ân hận, năm xưa sao mắc lừa dễ quá.
Lúc
đó, cô Hương dẫn con về thăm quê, tới gặp ngay quan Huyện xứ Bắc mới về quê
Nam. Chàng Nhơn nhìn thấy kinh hoàng, vì không nghĩ nàng còn sống. Cô Hương mới
bật khóc, trách chàng bạc tình. Chàng mới nói, bây giờ nên kết hiệp lại. Cô
Hương nói, thôi để chàng nuôi con, còn cô sẽ vào chùa tu. Bất ngờ, lúc đó có
tin ông bà họ Lâm về thăm. Nghe chàng khuyên nhủ, cô Hương đồng ý làm đám cưới
với chàng Nhơn... Câu chuyện tới đây là hết.
Tác
giả HBC kết thúc bằng đoạn kết rất có hậu. Chú ý, hai dòng đầu truyện, HBC đã
nêu thuyết tiền định:
Xưa
nay muôn việc ở đời,
Nên
hư cũng bởi ý trời định phân. (câu 1-2)
Và
hai câu kết là bày tỏ rằng chuyện này để đọc chơi thôi, đừng bắt chước:
Quê
mùa lượm lặt ít lời,
Canh
khuya giải muộn giúp người đồng văn. (câu 1787-1788)
Trong
khi khởi đầu, cụ HBC nói triết lý, rằng ý trời thế này, thế kia... nhưng tới
cuối truyện, cụ ngừa trước sự phê bình bằng cách nói rằng sách này chỉ để đọc
cho vui, không phải giảng đạo lý gì, cũng không khuyến khích các cô, các cậu
chuyện gì. Phải chăng, cụ HBC đoán là sách này sẽ bị búa rìu?
Về
văn chương, cụ HBC không chỉ xuất sắc khi mô tả các nhân vật chính diện, cụ
cũng nói rất tinh vi khi kể về nhân vật phản diện. Thí dụ, về cậu con quan
Huyện Tân Hòa:
Tên
chàng là Tạ Văn Thiên,
Dọc
ngang cậy thế, mượn quyền mẹ cha.
Ngày
cờ bạc, tối rượu trà,
Nét
ngang chưa biết chữ a chưa từng. (câu 435-438)
Ngày
đêm hư hỏng như thế, tất nhiên cậu Thiên không học gì được, không học tới nét
ngang là chữ nhất trong chữ Nho, không học tới chữ a trong vần abc. Thơ lục bát
như thế, thật tuyệt vời.
Hay
là khi Lâm bà, xiêu lòng, muốn gả con gái cho nhà quan, mới cãi Lâm ông, nên
không muốn để con mình chờ cậu học trò:
Tin
quân hay chữ mà nhờ,
Ở
không, nói phách, ngâm thơ, phá tiền. (câu 461-462)
Dùng
thơ lục bát chê các chàng thư sinh như thế là cực kỳ xuất sắc. Đúng giọng các
bà già Nam Bộ. Không biết chỗ này, cụ HBC có ám chỉ gì tới cụ Tú Xương hay
không?
Nói tóm lại, UTL là một truyện thơ xuất sắc,
cốt truyện ly kỳ gay cấn, ngôn ngữ điển hình Nam Bộ, và đã mang nhiều tư tưởng
cấp tiến, đặc biệt là đã gỡ rào cho phụ nữ -- tới mức độ, ngay bây giờ, cũng sẽ
có nhiều bậc ba mẹ không hài lòng.
Không đọc cuốn này, là một thiếu sót lớn đối
với những người nghiên cứu văn học VN nói chung, và văn học Nam Bộ nói riêng.
Và riêng bản này, với giới thiệu và chú giải của Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, tất cả
những chữ lạ của Miền Nam đều được giải thích tận tường, công phu.
Và dòng cuối nơi đây, xin phép nói lên lời
trân trọng cảm ơn về cơ duyên được đọc bản thảo này trước khi in, tới Giáo sư
Nguyễn Văn Sâm, một người thầy của người viết và là thầy của rất nhiều người
muốn tìm hiểu về văn học Nam Bộ. Xin trân trọng cảm ơn Thầy Sâm.
PHAN
TẤN HẢI
(Westminster,
CA - 2013-2022)
GHI
CHÚ:
Sơ
lược tiểu sử Giáo sư Nguyễn Văn Sâm.
Sanh
tại Sài gòn, 1940. Từng dạy ở trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, Pétrus Ký, Đại
Học Văn Khoa (Sài gòn) và các trường Đại Học Vạn Hạnh, Cao Đài, Hoà Hảo, Cần
Thơ. Sang Mỹ từ năm 1979, vẫn sống bằng nghề dạy học. Viết cho Văn, Văn Học và các
tạp chí Việt ngữ của người Việt. Trước 1975 chuyên viết về biên khảo văn học.
Qua Mỹ viết truyện ngắn vì những thôi thúc phải nói lên sự suy nghĩ của mình về
quê hương và thân phận người Việt, ngay trên quê hương, hay lạc loài tha hương.
Gần đây, trở về gia tài cổ của dân tộc bằng cách phiên âm các tuồng hát bội,
truyện thơ viết bằng chữ Nôm chưa từng được phiên âm mà nguyên bản hiện còn
đang nằm trong các thư viện lớn ở Âu Châu. Thành viên Ban Biên Tập Tự Điển Chữ
Nôm Trích Dẫn. Trưởng ban Văn chương, Viện Việt-Học. Hiện cư ngụ tại
California, Hoa Kỳ.
GS Nguyễn Văn Sâm và phu
nhân, nhà văn Trần Ngọc Ánh,
hôm 29/5/2022 tại Little
Saigon, Quận Cam, CA.
BIÊN
KHẢO:
1.
Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam. Kỷ Nguyên, Sàigòn, 1969.
2.
Văn Học Nam Hà. Lửa Thiêng, Sàigòn, 1971, 1973.
3.
Văn Chương Nam Bộ và Cuộc Kháng Pháp. Lửa Thiêng, Sàigòn, 1972.
4.
Trương Ngáo hay Người Đi Đòi Nợ Phật (Phiên âm và giới thiệu một tuồng hát bội
Nôm xưa), Viện Việt Học, CA, 2008.
5.
Tội Vợ Vợ Chịu (Phiên âm và giới thiệu một truyện thơ Nôm xưa), Viện Việt Học,
CA, 2010 (GS Trần Ngọc Ninh viết tựa).
6.
Người Hùng Bình Định Nổi Loạn Truông Mây (Phiên âm và giới thiệu thơ tuồng
Chàng Lía), Viện Việt Học, CA, 2012.
7.
Mà Lòng Tôi Thương (Phiên âm và giới thiệu thơ tuồng Nam Kinh Bắc Kinh), CA
2013.
8.
Kể Chuyện Tình Buồn (U Tình Lục) của Hồ Biểu Chánh (Giới thiệu và nhận định),
Viện Việt Học CA, 2014.
SÁNG
TÁC, TẬP TRUYỆN:
1.
Miền Thượng Uyển Xưa, Bách Việt, CA, 1981. (Chung với Đặng Phùng Quân)
2.
Câu Hò Vân Tiên, Gió Việt, TX, 1984.
3.
Ngày Tháng Bồng Bềnh, Gió Việt, TX, 1987.
4.
Khói Sóng Trên Sông, Văn, CA, 2000.
5.
Quê Hương Vụn Vỡ, Viện Việt Học, CA, 2012.
6.
Giọt Nước Nghiêng Mình, tập truyện, Viện Việt Học, CA, 2021.
7.
Ước Vọng Bay Tan, kịch thơ, Tiếng Quê Hương, Virginia, 2016.
BIÊN
SOẠN:
Tự
Điển Chữ Nôm Trích Dẫn (Chung với một nhóm học giả), Viện Việt Học, CA, 2009.
(Những
tác phẩm điện tử xin xem www.namkyluctinh.org )
No comments:
Post a Comment