Trịnh
Y Thư
Milan Kundera
và Tập sách Cái cười
& Sự lãng quên”
Trong
bài tựa cuốn tiểu thuyết Chuyện đùa, Milan Kundera thuật lại giai thoại
sau: Năm 1980 (lúc này ông đã cùng gia đình sang Pháp định cư), có buổi hội thảo
trên kênh truyền hình nào đó nói về sự nghiệp văn học của ông. Một nhân vật
trong thành phần tham dự đứng lên phát biểu, gọi cuốn Chuyện đùa là bản cáo trạng
hùng hồn tố cáo tội ác của chủ nghĩa Stalin. Kundera nghe vậy vội vàng ngắt lời,
“Ông làm ơn đừng gán ghép chủ nghĩa Stalin của ông vào tôi. Chuyện đùa chỉ là một
câu chuyện tình.”
Quả
vậy, mặc dù tiểu thuyết Kundera không thiếu những mạch đoạn viết về chính trị –
đúng hơn lịch sử chính trị – và ông không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần
như thù hận, với nước Nga, bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai
họa và thống khổ cho quê hương, dân tộc ông, thậm chí cho chính cá nhân ông,
nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc giữa những dòng chữ ông viết để tìm kiếm
một thông điệp hay luận đề chính trị nào. Ông có vẻ dị ứng với tất cả những điều
đó. Với ông, Lịch sử chỉ là tấm phông trừu tượng mà ông ví tiểu thuyết gia như
nhà thiết kế sân khấu kịch sử dụng để kiến dựng một tiết kịch. Câu nói “Tiểu
thuyết gia không phải là kẻ hầu của sử gia” thường được ông nhắc đi nhắc lại
trong những bài tiểu luận (ngoài vai trò một tiểu thuyết gia hàng đầu trên thế
giới vào nửa sau thế kỷ XX, Kundera còn là một ngòi bút viết tiểu luận văn học
xuất sắc) như trong những đoạn viết sau:
Bởi
Lịch sử, với tất cả những động thái của nó, chiến tranh, cách mạng, phản cách mạng,
quốc nhục, không được chen vào can dự ngòi bút của nhà văn – không thể để nó trở
thành đề tài cho nhà văn minh họa, lên án hoặc biện giải. Tiểu thuyết gia không
phải là kẻ hầu của sử gia; nhà văn có thể bị mê hoặc bởi Lịch sử, nhưng bởi nó
là thứ đèn giọi xoay vòng chạy xung quanh hiện hữu con người, chiếu luồng sáng
lên nó, lên những khả thể bất ngờ, mà ở những lúc bình ổn, khi Lịch sử đứng
yên, không ló mặt ra phía trước, chúng nằm yên phía sau, không ai thấy, không
ai nhận biết.
Lịch
sử nhẹ như đời sống cá nhân con người, nhẹ khôn kham, nhẹ như lông hồng, nhẹ
như hạt bụi cuốn lên không trung, như bất cứ cái gì ngày mai không tồn tại.
Nếu
vậy, đối với Kundera, chủ đề trong tiểu thuyết có hàm chứa một ý nghĩa gì đáng
kể không? Hiển nhiên, như hầu hết các tiểu thuyết gia tầm vóc khác của thế giới,
Kundera cương quyết chống lại mọi chủ thuyết luận đề trong văn chương. Đối với
ông, chẳng có gì đáng khinh bỉ hơn một tác phẩm tiểu thuyết mà đọc không khác một
văn bản tuyên truyền chính trị. Tuy vậy, bàng bạc trong những tác phẩm của ông,
người ta nhận thấy những chủ đề sau hiển lộ rõ ràng: cuộc sống lưu vong; căn
tính, đời sống vượt qua lằn ranh biên thùy (bên kia tình yêu, bên kia nghệ thuật,
bên kia sự nghiêm túc); lịch sử như cái gì liên tục trở lại; và lạc thú của một
đời sống ít có những điều “quan trọng.”
Và,
cũng như phần lớn chúng ta, Kundera chẳng thể nào đứng ngoài những biến động lịch
sử khốc liệt của thế hệ ông. Thế kỷ XX, châu Âu của ông chứng kiến sự đổ nát
kinh hoàng chưa từng thấy trước đó bao giờ. Hai cuộc Thế chiến, Lò thiêu, Quốc
xã, Quân phiệt, Cộng sản, như những bóng ma, cho đến tận bây giờ vẫn ám ảnh tâm
tư người dân lục địa đó. Bohemia của ông – miền đất tuy nhỏ bé nép mình giữa
hai cường quốc Đức và Nga nhưng lại là giao điểm chính trị và văn hóa quan trọng
– luôn luôn là mảnh đất chịu thiệt thòi và bị giẫm nát trong bất kỳ cuộc tương
tranh lớn nhỏ nào. Ở châu Âu, ngoài Ireland, Bohemia có lẽ là quốc gia duy nhất
mà nền văn học bao giờ cũng trĩu nặng tính thời đại và lịch sử. Dù sao chăng nữa,
Kundera khó lòng hoàn toàn đi chệch ra khỏi quy luật đó.
Nhưng
nếu lịch sử chính trị chỉ là bối cảnh, chỉ là cái phông của tiết kịch, thì cái
gì chiếm cứ phần trọng đại nhất trong tiểu thuyết Kundera? Câu trả lời giản dị
lắm: Đó chính là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên luồng
sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. Đưa ra một định nghĩa
cho tiểu thuyết, ông nói: “Ngay khi bạn tạo dựng một hiện hữu tưởng tượng, một
nhân vật, tự động bạn đối đầu câu hỏi: Bản ngã là gì? Làm cách nào thấu triệt
được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết.”
Kundera cả quyết rằng sự nảy sinh của nhân vật tiểu thuyết không giống sự ra đời
của con người nơi cuộc sống bên ngoài; “họ có mặt do một tình huống, một câu
văn hay một ẩn dụ bên trong cái vỏ bọc hàm chứa những khả thể cơ bản liên quan
đến con người mà tác giả nghĩ rằng chưa ai khám phá hay đề cập điều gì trọng yếu
về nó.” Xem thế, tính sáng tạo trong tiểu thuyết Kundera chủ yếu nằm ở điểm
này. Và qua tác phẩm chúng ta thấy ông truy xét cái bản ngã đó đến tận cùng. Bản
ngã bị ông lật trái lật phải, lật ngang lật dọc đến chóng mặt. Nhưng không phải
vì thế ông nắm bắt được điều muốn tìm kiếm; bản ngã vẫn vuột khỏi tầm tay, và
ông thú nhận cuộc truy tìm bao giờ cũng chấm dứt trong nghịch lý.
Đọc
Kundera, chúng ta cũng dễ dàng mắc phải ngộ nhận cho là tiểu thuyết ông chịu ảnh
hưởng triết học Hiện sinh. Ý tưởng phê phán nghệ thuật tiểu thuyết chẳng qua chỉ
là cái gì rút ra từ các trào lưu triết học và lý thuyết bị ông đem ra phản bác
gay gắt. Dẫn chứng tác phẩm văn học của các nhà văn cận/hiện-đại, ông bảo tiểu
thuyết đã va chạm đến vô thức trước khi có Freud, đã luận về đấu tranh giai cấp
trước khi có Marx; và trước khi các nhà hiện tượng học ra đời tiểu thuyết đã
nói đến hiện tượng học. Câu nói “tiểu thuyết nói những điều mà chỉ tiểu thuyết
mới nói được” thường được ông đem ra dùng khi cần bênh vực cho vai trò tích cực
và vị thế trọng đại không thể thiếu của tiểu thuyết trong đời sống văn hóa con
người.
Kundera
tự xem mình là một nhà văn châu Âu, không phải Đông Âu như nhiều người gán lên
ông. Ông lấy nguồn cảm hứng sáng tác từ những nhà văn truyền thống châu Âu từ
thời Phục hưng như Boccacio, Rabelais, hoặc mới hơn như Sterne, Diderot… Nhưng
chính những trước tác của các nhà văn hiện đại thế kỷ XX đã tạo ảnh hưởng sâu sắc
lên những trang viết của ông, đó là Musil, Gombrowitz, Broch, Heidegger, và nhất
là Kafka. Ông dành nguyên một phần trong cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết để nói về
Kafka. Theo ông, chính Kafka, không phải Proust, không phải Joyce, đã tiên
phong cho trào lưu tiểu thuyết Hiện đại
mà ảnh hưởng vẫn còn vang động cho đến tận ngày nay.
Kundera
cũng tuyệt đối trung thành với những ý niệm mỹ học mà ông khai triển gần như suốt
văn nghiệp ông. Ở những cuốn nổi tiếng như Đời nhẹ khôn kham, Chuyện đùa, chúng
ta thấy ông say sưa với những cặp phạm trù nặng/nhẹ, tâm-hồn/thế-xác, chung-thủy/phản-bội,
cái-cười/sự-lãng-quên, vân vân. Thậm chí ông lấy cặp phạm trù cái-cười/sự-lãng-quên
làm nhan đề cho một tác phẩm của ông, Tập sách cái cười và sự lãng quên.
Kundera nói về cuốn sách này của ông như sau:
Sách
này là cuốn tiểu thuyết viết theo dạng thức biến tấu. Những phần của sách nối
tiếp nhau như những chặng đường chuyến du hành dẫn đến cái nội tại của chủ
đề, nội tại một suy tưởng, nội tại một
tình huống duy nhất, giản dị, mà cái hiểu cứ dần dà trôi mất về
cõi xa, ra khỏi tầm nhìn của tôi.
Nó
là cuốn tiểu thuyết viết về Tamina, và những chuyện diễn ra lúc Tamina bước ra
khỏi sân khấu. Nó là cuốn tiểu thuyết viết cho Tamina. Cô là nhân vật chính diện
và cũng là khán giả chính diện. Tất cả những chuyện khác là biến tấu dựa trên
chuyện của chính cô, gặp gỡ đời sống cô như gương soi mặt.
Nó
là cuốn tiểu thuyết về cái cười và sự lãng quên, về thành phố Praha, về Praha
và những thiên sứ của nó…
Như
hầu hết các tác phẩm khác ông viết trước đó hoặc sau này, cuốn sách là một tổng
hợp những khía cạnh khác nhau của hiện tồn được khuếch đại, thu nhỏ, sắp xếp lại
trật tự, nhấn mạnh, xem xét, phân tích, trải nghiệm… với một cái nhìn thật mới
mẻ và tinh tế.
Ông
viết cuốn sách vào khoảng giữa thập kỷ 70. Tác phẩm có bẩy phần. Gọi mỗi phần
là một truyện ngắn cũng đúng, nhưng theo chính Kundera, ta nên xem nó là một tổ
khúc, như tổ khúc âm nhạc gồm bẩy hành âm mà mỗi hành âm là một cuộc truy tìm
hiện hữu khác nhau. Khác nhau nhưng vẫn có sự liền lạc chặt chẽ bởi mô-típ chỉ
đạo chế ngự toàn tác phẩm: cái cười và sự lãng quên. Những mã số hiện sinh ông
sử dụng ở đây vẫn là những phạm trù quen thuộc lồng trong tình huống một chuyện
tình buồn cười. (Các chuyện tình của Kundera đều buồn cười, nhưng là nụ cười
cay đắng.) Tình dục thì luôn luôn buồn bã, như hoang mang giữa mê lộ. Và quái!
Không phải quái đản, quái lạ, quái gở hay quái dị, mà quái “chiêu.” (Ở đây, tôi
chỉ có thể tìm được một tiếng lóng, một từ đường phố, “quái chiêu,” để diễn tả
chất “quái” trong văn Kundera khi viết về tình dục.) Tất cả quay cuồng trong bối
cảnh lịch sử: cuộc sống nghẹt thở dưới chế độ công an trị của nhà nước Cộng sản
sau khi Nga xua cả nghìn chiến xa và nửa triệu quân sang xâm chiếm Bohemia.
Cuốn
tiểu thuyết đã đưa Kundera lên đài danh vọng quốc tế vào cuối thập kỷ 70. Nó là
cuốn sách chẳng những phong phú ở mặt xây dựng nhân vật và câu chuyện, mà còn lạ
lùng, sâu sắc ở phần tưởng tượng. Nơi đây thực tại và huyễn tưởng đan xen nhau
dễ dàng và tự nhiên đến nỗi người đọc khó phân biệt đâu là đời sống thật, đâu
là giấc mơ. Kỳ thực, điều đó không cần thiết khi đọc tiểu thuyết Kundera. Tuyệt
đối không cần thiết, bởi chính ông cũng hay nhắc nhở người đọc rằng đừng xem những
gì ông viết là sự thật ngoài đời, mặc dù trong đó có rất nhiều phần thuộc dạng
hồi ức tự truyện, âm nhạc, triết học hay lịch sử. Ông thường cố ý cho người đọc
nhận ra các nhân vật tiểu thuyết của ông chẳng qua chỉ là những hình ảnh ông lấy ra từ trí tưởng tượng của
mình. Ông cho chủ thể ở ngôi thứ nhất trong lúc miêu thuật một câu chuyện ở
ngôi thứ ba. Trong lúc viết, ông quan tâm đến các từ định đoạt tính cách và số
phận của nhân vật hơn là ngoại hình. Chẳng bao giờ nghe ông miêu tả nhân dáng
các nhân vật của ông ra sao, như thể trí tưởng tượng của người đọc tự động tiếp
nối và hoàn tất cái nhìn của người viết. Làm như thế, người viết sẽ chú trọng nhiều
hơn ở phần cốt lõi của tác phẩm. Thậm chí, thế giới nội tâm (hoặc tâm lý) của
nhân vật đối với ông cũng chẳng quan thiết. Tuy nhiên, đôi lúc, tính cách đặc
trưng nào đó được nhấn mạnh hầu làm sáng tỏ thêm bản chất của nhân vật.
Viết
tiểu thuyết, Kundera ưa chuộng thủ pháp “tiểu thuyết tư duy.” Có nghĩa là ông
không miêu thuật một câu chuyện từ đầu chí cuối, mà đưa ra một ý tưởng rồi “bịa” một hay nhiều “tình huống” để biện chứng
cho ý tưởng đó. Với lối viết này, Kundera chịu ảnh hưởng nhiều từ hai nhà văn
kiệt xuất người Áo của nửa đầu thế kỷ XX là Robert Musil [1880-1942] và Hermann
Broch [1886-1951]. Kẻ không quen lối viết này có thể bĩu môi chê bai, “Sao mà
lý sự lắm thế!” bởi đối với họ, nghệ thuật tiểu thuyết yêu cầu ý kiến tác giả đứng
ngoài tầm nhìn; tất cả mọi tư duy hãy để người đọc định đoạt, nó là thành tố
ngoại tại của loại hình tiểu thuyết.
Thế
nhưng Kundera đã mở toang cánh cửa để tư duy tuôn tràn vào tiểu thuyết. Ông
không ngần ngại tuyên bố rằng “biện pháp bổ sung những tư duy chắc nịch một
cách đầy thông tuệ vào tiểu thuyết và bằng những thủ pháp tuyệt luân đầy nhạc
tính khiến nó trở nên thành phần bất khả phân ly trong tác phẩm là một trong những
sáng tạo táo bạo nhất mà không phải tiểu thuyết gia nào cũng dám làm trong kỷ
nguyên nghệ thuật hiện đại.”
Tư
duy tiểu thuyết, theo Kundera, không dính líu gì đến tư duy khoa học hay triết
học; nó là phi triết học; thậm chí phản triết học, có nghĩa là nó hết sức độc lập
với bất kỳ hệ suy tưởng tiên nghiệm nào; nó không thẩm định; không công bố chân
lý; nó ra câu hỏi, nó kinh ngạc, nó xét nét; loại hình của nó thật là phong
phú: ẩn dụ, châm biếm, giả định, khoa đại, châm ngôn, bông lơn, gây hấn, huyễn
hoặc; và điều chính yếu là không bao giờ nó tách lìa ra khỏi cái vòng tròn ảo
diệu bao quanh đời sống những nhân vật của nó; những đời sống nuôi dưỡng, chứng
thực nó.
Đọc
Kundera, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra tính hài (và ở chừng mực nào đó, châm biếm)
thấm đẫm trong văn ông. Kỳ thực, đối với ông, hài là một thuộc tính bất khả
tách ly của văn chương. Tập sách cái cười
và sự lãng quên không thiếu những mạch đoạn khiến người đọc cười chảy nước mắt,
nhưng thật sai lầm nếu chúng ta hiểu chủ ý của ông là chọc cười độc giả. Để hiểu
tính hài của Kundera, ta phải tìm hiểu tính hài trong văn Kafka. Vâng, chính
Kafka đã cho ông nguồn cảm hứng bất tận đem tính hài vào văn chương. Kafka lấy
mặt nạ của cái khả lý đeo lên cái bất khả lý, trong lúc tuyệt đối duy trì tính
chính xác tâm lý, nó khiến tiểu thuyết của ông mang vẻ mê hoặc huyền ảo lạ
lùng. Chuyện bông đùa, giai thoại, chuyện hài hước: chúng là những bằng chứng
hùng hồn nhất cho thấy giữa cảm quan nhạy bén của hiện thực và thần trí tưởng
tượng, tiểu thuyết liều lĩnh đi vào cái bất khả lý. Kundera bảo như vậy.
Kundera
cũng khai thác triệt để khía cạnh bi-hài của chủ nghĩa độc tài toàn trị, mặc dù
ông quyết liệt phản bác lại mọi phê phán xem tiểu thuyết của ông là một diễn
ngôn chính trị. “Sự lên án chủ nghĩa độc tài toàn trị không xứng đáng đem vào
tiểu thuyết” là câu nói thường xuyên ông phát biểu mỗi khi đề tài này được đem
ra thảo luận. Tiểu thuyết gia Mexico Carlos Fuentes nói như sau về Kundera:
Điều
thú vị ông ta [Kundera] tìm ra là sự tương tự giữa chủ nghĩa độc tài toàn trị
và giấc mơ tuy mê hoặc nhưng chẳng có gì đáng nhớ về một xã hội hài hòa nơi đời
sống riêng tư và đời sống công cộng nhập lại thành khối nhất thể và sự hiệp nhất
đó được xây dựng xung quanh một ý chí và một đức tin.
Tính
bi-hài nhiều phần đen tối ấy cho chúng ta thấy một lần nữa Kundera chịu ảnh hưởng
nhiều từ Franz Kafka.
Ngày
nay trong khi nhiều người mất niềm tin vào tiểu thuyết như một loại hình nghệ
thuật, thậm chí có người tuyên bố tiểu thuyết đã chết, thì Kundera tỏ ra vẫn tha thiết với nó. Để hiểu
nguyên do vì sao, chúng ta có thể tìm đọc lại suy nghĩ của ông như sau:
Nhân
vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi. Đó là lý do tại
sao tôi yêu quý và khiếp sợ những nhân vật đó bằng nhau. Mỗi nhân vật vượt qua
đường biên do chính tôi vạch ra. Chính đường biên bị vượt qua đó (bên kia đường
biên, “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt) là cái gì quyến rũ tôi nhất. Bởi bên
kia đường biên là nơi khởi đầu cho cái ẩn mật cuốn tiểu thuyết yêu cầu. Tiểu
thuyết không phải lời tự thú của tác giả; nó là cuộc nghiệm sinh của con người
trong cái bẫy thế giới này đang dần dà biến thành.
…
cái bẫy thế giới này đang dần dà biến thành. Quá chính xác, và tôi không thể
không đồng ý với ông. Bởi trong mắt nhìn của ông, thế giới hiện đại là một thế
giới bị triết học bỏ rơi và hàng trăm chuyên ngành khoa học đập vỡ tan. “Chỉ có
tiểu thuyết là còn lại với chúng ta như đài quan sát cuối cùng để từ đó chúng
ta có thể ôm lấy đời sống con người như một toàn nguyên.” Ông nói như vậy.
Đừng
kỳ vọng Kundera cho chúng ta câu trả lời về bất cứ điều gì sau khi đọc xong tác
phẩm. Sẽ không có câu trả lời, và mọi chất vấn hoài nghi chỉ làm tối tăm thêm
cái nghịch lý của đời sống. Hãy nhận ra nét đẹp của nghệ thuật và đó là phần
thưởng duy nhất nhà văn có thể cống hiến.
ĐÔI
DÒNG TIỂU SỬ MILAN KUNDERA
Milan Kundera sinh năm 1929 tại thành phố
Brno nay thuộc Cộng Hòa Czech trong một gia đình Czech trung lưu. Cha ông là cầm
thủ piano kiêm nhà âm nhạc học. Thế chiến II, ông làm nghề buôn và chơi nhạc
jazz kiếm sống trước khi được nhận vào đại học Charles ở thủ đô Praha theo học
Âm nhạc học, Điện ảnh, Văn học và Mỹ học. Năm 1952 ông tốt nghiệp, trở thành
phó giáo sư và sau đó giáo sư khoa Điện ảnh của Viện Nghệ thuật Trình diễn ở
Praha, ông cũng là giảng viên thuyết trình về văn học thế giới. Thời gian này,
ông cho xuất bản một số thơ, tiểu luận, dựng kịch, tham gia ban biên tập hai tạp
chí văn học Literani Noviny và Listy.
Kundera
thuộc thế hệ nhà văn có rất ít quan hệ và trải nghiệm đối với nền Cộng hòa Dân
chủ Tiệp Khắc. Ý thức hệ của họ khởi nguồn từ Thế chiến II và thời gian bị Đức
Quốc xã chiếm đóng. Năm 1948, cũng như các trí thức nhiệt huyết khác, Kundera
gia nhập Đảng Cộng sản. Năm 1950 ông bị Đảng khai trừ vì tội danh “có xu hướng
cá nhân chủ nghĩa” và những hành vi chống Đảng. Việc này được ông dùng làm chủ
đề cho cuốn tiểu thuyết Chuyện đùa xuất bản năm 1967. Tuy thế mấy năm sau đó
ông được cứu xét lại và từ năm 1957 cho đến 1970 ông trở lại Đảng. Suốt thập kỷ
50, Kundera công tác với tư cách một dịch giả, một nhà viết tiểu luận, một nhà
dựng kịch. Năm 1953 ông xuất bản cuốn sách đầu tay, và mặc dù có vài tập thơ ra
mắt công chúng nhưng ông chỉ được biết đến sau khi tập truyện Những chuyện tình
buồn cười xuất hiện. Năm 1967 ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, cuốn Chuyện
đùa, với chủ đề chống chủ nghĩa Stalin. Năm 1970 ông bị khai trừ khỏi Đảng lần
thứ hai, bị cách chức giáo sư và tác phẩm bị cấm lưu hành vì là một trong những
trí thức hàng đầu trong phong trào Mùa Xuân Praha, một phong trào tranh đấu của
trí thức Tiệp đòi hỏi dân chủ hóa và bị Xô Viết xua quân sang giẫm nát năm
1968. Ông chủ trương cải tổ chứ không đánh đổ Đảng Cộng sản, và đã có những bài
bút chiến nảy lửa với nhà soạn kịch Václav Havel về vấn đề này. Sau cùng, có lẽ
thất vọng, ông từ bỏ mọi giấc mơ cải tổ và năm 1975 đưa gia đình di cư sang
Pháp.
Tác
phẩm tiểu thuyết thứ hai của ông, cuốn Đời sống ở nơi khác xuất bản ở Paris năm
1973. Năm 1975 ông được mời làm giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Rennes,
Bretagne, Pháp quốc. Năm 1979 cuốn tiểu thuyết Tập sách cái cười và sự lãng
quên ra mắt quần chúng với nội dung không tốt cho chế độ cầm quyền và ông bị
nhà nước Tiệp Khắc tước quyền công dân. Năm 1981 ông vào quốc tịch Pháp và từ
1985 ông chỉ nhận trả lời phỏng vấn qua văn bản vì ông cho là trước đó người ta
hay có xu hướng diễn dịch sai ý ông. Năm 1986 ông xuất bản cuốn Nghệ thuật tiểu
thuyết, một tập tiểu luận đặc sắc và là tác phẩm đầu tiên viết bằng Pháp ngữ.
Cuốn tiểu thuyết tiếp theo, Sự bất tử, và cho đến ngày nay, ông đều sử dụng
Pháp văn cho sáng tác của mình. Ông tự cho mình là một tác giả Pháp, và yêu cầu
người ta xếp loại cũng như nghiên cứu công trình trước tác của ông như là văn học
Pháp. Cuốn Lễ hội những điều vô tích sự gần đây nhất, xuất bản năm 2014 lấy bối
cảnh Paris, và mặc dù có va chạm ít nhiều đến chủ nghĩa Stalin, nhưng gần như
ông không quay lại các chủ đề quen thuộc như lòng hoài niệm quê hương, sự lãng
quên, cái nhẹ khôn kham, v.v.
Một
người bạn sinh sống ở Praha có lần bảo tôi dân Tiệp không xem Kundera là một
nhà văn Tiệp, điều đó có thể phần nào giải thích thái độ không mấy quan tâm của
ông đối với quê cũ. Mặc dù vẫn giữ quan hệ viễn liên với vài người bạn thân,
ông hiếm khi về thăm quê hương, và mỗi lần về đều âm thầm, không xuất hiện
ngoài công chúng bao giờ.
Nhưng
đối với thế giới, Kundera được xem là một trong những nhà văn hàng đầu của văn
học Hậu Hiện đại Tây phương. Có người đi xa hơn, không ngần ngại gọi ông là một
trong ba hoặc bốn nhà văn lớn nhất của văn học thế giới đương đại. Nhà văn
Simon Leys có lần tuyên bố tác phẩm của Kundera khiến George Orwell bị lu mờ. Đâu đó người ta còn so sánh
ông với Kafka.
DỊCH
“MILAN KUNDERA”
Giữa
tôi và Milan Kundera, tính cho đến ngày nay, hiển nhiên có một gắn bó trên 30
năm, một quan hệ phi vật thể vì tôi biết ông chứ ông không biết tôi là ai.
Nhưng tôi thấy trên trang viết của ông những điều rất gần gũi và tâm đắc. Gần
gũi vì cũng như ông, tôi không được sinh sống trên quê hương mình. Tâm đắc vì hầu
như tất cả những gì ông viết, tôi đều thấy lôi cuốn, cầm sách lên khó lòng
buông xuống, bỏ đi làm chuyện khác. Ông suy nghĩ thay cho tôi. Ông là nhà văn với
một khối óc phân tích và tổng hợp uyên áo, câu chuyện kể thường dẫn đến vô vàn
những tư duy độc đáo, và đó chính là điểm mạnh của ông.
Vào
quãng năm 1988, 89 gì đó, tôi đọc Kundera lần đầu sau khi đọc những bài phê
bình, giới thiệu của các nhà văn Mỹ như Philip Roth, John Updike đăng trên The
New York Times Book Review. Đó là thời điểm đế quốc Xô Viết đang trên đà sụp đổ,
tan rã toàn diện và Chủ nghĩa Cộng sản bắt đầu đi vào giai đoạn cáo chung ở
Đông Âu. Trí thức phương Tây bỗng chú ý đến văn học của vùng đất đang tận lực đấu
tranh để thoát ra khỏi tai ách Cộng sản phủ trùm trên quê hương, dân tộc họ suốt
già nửa thế kỷ qua, và Kundera xuất hiện như một kiện tướng hàng đầu. Cũng như
nhiều người khác, tôi chụp lấy cuốn Đời nhẹ khôn kham đọc ngấu nghiến, và với sự
khuyến khích của nhà văn Nguyễn Mộng Giác,
bắt đầu dịch
tác phẩm này sang tiếng Việt, rồi
gửi đăng rải rác trên các tạp chí văn học thời đó như Văn, Văn Học, Hợp
Lưu… Nhưng phải đợi đến năm 2002, tôi mới
cho xuất bản cuốn sách dịch lần đầu,
và mãi đến năm 2018 một ấn bản mới (dịch lại gần như
toàn bộ tác phẩm theo phiên bản Anh ngữ mới do chính
tác giả hiệu đính) ra mắt độc giả Việt Nam do công ty sách Nhã Nam thực hiện xuất
bản và phát hành. Cùng năm, cuốn sách được Hội đồng trao giải
sách hay thuộc
hai tổ chức
IRED và OpenEdu trao tặng Giải
Sách Hay, hạng mục Sách Văn học, thể loại Sách dịch.
Dĩ
nhiên, tôi không ngừng ở Đời nhẹ khôn kham mà vẫn ấp ủ ý định dịch tiếp
một cuốn tiểu thuyết nữa của Kundera, và thật dễ hiểu, đó là cuốn Tập sách
cái cười và sự lãng quên.
Dịch
‘Tập sách cái cười và sự lãng quên’ là việc làm thú vị tuyệt vời đối với tôi. Dịch
xong, tôi thấy tiếc tại sao Kundera không viết thêm bẩy phần nữa trong cuốn
sách cho tôi dịch tiếp.
Thiết
tưởng cần nói thêm đôi điều về việc dịch nhan đề sách. Bản Anh ngữ của sách là
The Book of Laughter and Forgetting; và bản Pháp ngữ Le livre du rire et de
l’oubli. Cả hai có lẽ dịch sát nghĩa từ nguyên tác tiếng Tiệp Kniha smíchu a
zapomnení. Tôi đã đắn đo khá nhiều trong lúc tìm một nhan đề tiếng Việt khả dĩ
cho… “văn vẻ” một tí mà ý nghĩa không đi quá xa tựa sách nguyên thủy. Quả tình
không dễ dàng chút nào. Tìm hiểu thêm, tôi biết người Trung quốc dịch là Tiếu
Vong Thư, ngắn gọn, súc tích, sát với tinh thần Trung văn, nhưng hiển nhiên tôi
không thể bắt chước hay mô phỏng họ, dịch là “Sách cười và quên” được. Bạn bè
cũng có vài đề nghị, nhưng sau cùng tôi quyết định dịch là: Tập sách cái cười
và sự lãng quên, nghe không “văn vẻ,” thậm chí không thuận nhĩ đối với đa phần
độc giả người Việt, vốn quen với những nhan đề bóng bẩy, “kêu.” Tuy nhiên, sau
khi suy xét, tôi thấy nó phù hợp nhất với cuốn sách này của Kundera, và tôi đã
làm một chọn lựa tuy khó khăn nhưng quả tình
không thể làm khác hơn.
Đúng
ra nhan đề sách là ‘Tập sách của cái cười và sự lãng quên’, nhưng tôi bỏ chữ “của”
vì ngữ pháp tiếng Việt cho phép tôi làm vậy. Nhưng tại sao lại “cái cười” thay
vì “cười” hay “tiếng cười?”
Trước
hết, nếu dịch là “tiếng cười” thì chẳng những không chính xác, mà còn làm hạn hẹp
ý nghĩa và tinh thần cuốn sách cũng như chủ ý tác giả. Do đó, tôi có thể yên
tâm gạch bỏ cụm từ “tiếng cười” ra khỏi bộ từ vựng của tôi. Còn lại chỉ có thể
là “cái cười.” Mạo từ “cái” tôi thêm vào không phải là tùy tiện cho xuôi tai, bớt
cộc lốc. Từ “cái” trong tiếng Việt có một hàm nghĩa rất lớn: nó đứng trước sự
việc để nhấn mạnh, nhưng nó cũng cho sự việc tính phổ quát. Vâng, “cái” gì cũng
có thể là “cái” được, từ cái bàn cái ghế, cái ăn cái uống, chí đến “cái con mẹ,”
“té cái bịch,” “tát cái bốp,” v.v… “Cái” là “Mẹ” (Bố Cái Đại Vương, con dại cái
mang); “cái” còn là to rộng, lớn lao (sông cái, đường cái). Nếu có thể làm một
bảng danh mục các trường hợp từ “cái” được sử dụng trong tiếng Việt, có lẽ tôi
phải mất cả trang giấy. Bởi vậy, tại sao không là “cái cười” trong trường hợp
này? Và, quan hệ hơn, tôi thấy nó quả phù hợp với ý nghĩa đặc trưng của tính
hài trong cuốn sách, mà tôi nhận định trong phần dẫn nhập bên trên, “Cái cười”
và “té cái bịch” có lẽ nằm trong cùng một hệ cơ số.
Rồi
đến cụm từ “sự lãng quên” tôi cũng có đôi chút bối rối. Xin nói ngay, “lãng
quên” có lẽ là một từ mới trong tiếng Việt, và thường được định nghĩa là: Quên
mất, không chú ý đến nữa. Tôi nói “mới” bởi ở những bộ từ điển cũ như cuốn Lê
Văn Đức – Lê Ngọc Trụ, không có động từ này mà chỉ có “lảng quên” hay “quên lảng,”
– xin chú ý, “lảng” dấu hỏi – và được định nghĩa là “Cố tìm việc nghĩ khác, việc
làm hay thú vui để quên đi cái việc đáng buồn hay trái ý.” Truyện Kiều của Nguyễn
Du không hề có cụm từ “lãng quên,” mà chỉ có động từ “lảng” với ý nghĩa là tản,
vẹt qua nơi khác, như “lảng tránh.” Như vậy, tôi nên chọn “lãng quên” hay “lảng
quên,” bởi ý nghĩa của hai cụm từ đó khác nhau, cùng là “quên” nhưng một bên là
“quên” do vô thức sai khiến, và bên kia, “quên” có ý thức. Vấn đề cho tôi ở đây
là cả hai đều sai, cả hai đều không cùng ý nghĩa mà Kundera muốn nói đến.
Ngay
trong Phần I của tác phẩm – Những cánh thư thất lạc – Kundera đã đưa ra định
nghĩa sau về “cái quên,” và nó chính là chủ đề tái hiện hoài hoài suốt cuốn
sách: Cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực là cuộc đấu tranh của
trí nhớ chống lại sự lãng quên [forgetting].
Ngay
tức khắc, nó cho thấy tôi sẽ không bao giờ lột dịch từ forgetting sao cho đúng
với ý nghĩa mà Kundera muốn đặt ra. Về điểm này, Kundera nói rõ trong tập tiểu
luận Nghệ thuật tiểu thuyết:
…
con người luôn luôn ấp ủ tham vọng muốn viết lại tiểu sử của chính mình, muốn
thay đổi quá khứ, muốn bôi xóa mọi dấu vết của chính hắn và kẻ khác. Ông cũng
nói thêm, nó không phải sự lừa dối, nó tuyệt đối không có công lý trong đó,
nhưng cùng lúc nó đem lại nguồn an ủi.
Xem
ra, “lảng quên” có vẻ gần với điều Kundera muốn
nói hơn là “lãng quên.” Nhưng nếu tôi dùng từ “lảng” ở đây thì chắc chắn
có người bảo
tôi viết sai chính tả! (Kỳ thực, điều đó đã xảy ra cho tôi.)
Có
vẻ như tôi bế tắc.
Để
chạy làng, tôi có thể dịch là Tập sách cái cười và cái quên. Nhưng thú thật tôi
là kẻ yếu bóng vía, dũng cảm lắm cũng chỉ lân la mân mó vành ngoài chứ vành
trong thì chẳng dám!
Để
an ủi phần nào, tôi tự nghĩ “lãng quên/ lảng quên/ gì gì quên” đều không có kết
luận, như văn chương, như nghệ thuật, không bao giờ kết thúc, không bao giờ là
chân lý, không bao giờ viên mãn, nên tôi cứ việc thả cho nó bay phất phơ ngoài
khí quyển mà chẳng mong có ngày nó tìm được chỗ đáp an toàn trên mặt đất.
Trịnh
Y Thư
No comments:
Post a Comment